← Quay lại trang sách

Phần III CÁI MŨ CỦA GÖRING CHƯƠNG 5 Thứ Bảy, ngày 25 tháng 07 năm 1936

Những con phố của Berlin đều hoàn hảo, người dân thì dễ chịu. Nhiều người gật đầu khi gã bước qua. Mang theo chiếc va li cũ xác xơ, Paul Schumann đang bước về phía Bắc, đi qua Tiergaten. Lúc này là cuối giờ sáng ngày thứ Bảy, gã đang trên đường đến gặp Reggie Morgan.

Công viên thật đẹp, đầy cây cối sum suê, những lối đi, những mặt hồ, khu vườn. Trong Công viên Trung tâm New York, bạn sẽ không ngừng nhận thức được thành phố xung quanh mình, các tòa nhà chọc trời có thể nhìn thấy được ở bất kỳ đâu. Nhưng Berlin là một thành phố thấp, các tòa nhà cao ở đây rất ít. “Những tòa nhà chạm mây,” như câu gã nghe trộm một người phụ nữ nói với đứa con nhỏ trên xe buýt. Trên đường gã đi qua công viên, với những cái cây đen sì và thảm thực vật dày, gã mất đi bất kỳ ý thức nào rằng mình đang đi trong thành phố. Nó nhắc Paul nhớ những khu rừng rậm rạp vùng nông thôn New York, nơi ông nội gã dẫn gã đi săn mỗi mùa hè, cho đến khi ông già, ốm liệt giường, hai ông cháu mới dừng những chuyến đi.

Một cảm giác khó chịu tràn qua người gã. Thật quen thuộc: những cảm giác tăng lên khi bắt đầu một công việc, khi gã nhìn về phía văn phòng hoặc căn hộ của kẻ sắp bị gã hóa kiếp, đi theo con mồi và biết những gì gã có thể biết về con mồi. Theo bản năng thi thoảng gã dừng lại, thận trọng liếc mắt nhìn sau lưng, như thể tự đinh hướng. Có vẻ không ai theo dõi gã. Nhưng gã không thể nói chắc được. Khu rừng này có nhiều chỗ ánh sáng mờ và kẻ nào đó có thể dễ dàng theo dõi gã. Vài kẻ lôi thôi lếch thếch nhìn theo gã vẻ đáng ngờ rồi lẩn vào những hàng cây hay bụi rậm. Có khả năng là những kẻ sống lang thang hay vô công rồi nghề. Nhưng gã không dám mạo hiểm, nên đổi hướng vài lần để cắt đuôi bất kỳ kẻ nào có thể đang bám theo.

Gã băng qua con sông Spree tối tăm, u ám và thấy phố Spener rồi đi tiếp về phía Bắc, tránh xa công viên. Gã tò mò để ý các ngồi nhà đang ở trong những tình trạng vô cùng khác nhau. Một số thì tráng lệ, trong khi các ngôi nhà kế bên có thể bị bỏ hoang hoặc mục nát. Gã đi qua một căn nhà cỏ dại nâu mọc đầy sân trước. Vào thời điểm nào đó, căn nhà này rõ ràng đã từng rất sang trọng. Giờ đây, hầu hết các cửa sổ đều vỡ nát, và ai đó mà gã nghĩ là những thằng nhóc lấc cấc, đã son vàng lên đó. Một dấu hiệu cho thấy có thể vào ngày thứ Bảy những nội dung bên trong sẽ được rao bán. Paul cho rằng có thể vấn đề là những khoản thuế. Chuyện gì đã xảy ra với gia đình này? Họ đã đi đâu? Các giai đoạn khó khăn, gã cảm nhận được. Những hoàn cảnh thay đổi.

Cuôí cùng mặt trời củng lặn…

Gã dễ dàng tìm thấy nhà hàng, trông thấy biển hiệu nhưng thậm chí còn không để ý chữ “Bierhaus”. Đối với gã từ này có nghĩa là “Nhà Bia.” Gã đang suy nghĩ theo kiểu người Đức. Kiến thức trong trường của gã cộng thêm hàng giờ sắp chữ tại xưởng in của ông nội cho gã khả năng dịch tự động. Gã nhìn lướt qua nơi này. Nửa tá người ăn trưa ngồi trên hàng hiên, nam cũng như nữ, phần lớn là những kẻ cô độc, đắm chìm trong món ăn hay tờ báo. Gã không thể nhận thấy sự bất thường nào.

Paul sang đường, đến con ngõ nhỏ Avery đã nói với gã, Ngõ Dresden. Gã bước vào trong con hẻm tối tăm, dịu mát. Còn vài phút nữa là đến trưa.

Một lúc sau, gã nghe thấy tiếng bước chân. Sau đó, một người đàn ông vóc dáng vững chãi mặc bộ vest nâu kèm gi-lê rảo bước đến sau lưng gã, miệng ngậm một que tăm.

“Một ngày tốt lành,” ông ta vui vẻ nói bằng tiếng Đức, mắt liếc nhìn chiếc va li bằng da.

Paul gật đầu. Ông ta giống với những gì Avery mô tả về Morgan, mặc dù ông ta mập hơn Paul hình dung.

“Đây là một lối tắt tuyệt vời, cậu có nghĩ vậy không? Tôi dùng nó thường xuyên.”

“Chắc chắn là vậy.” Paul liếc nhìn ông ta. “Có lẽ ông giúp được tôi. Chuyến tàu nào tốt nhất đến được Alexander Plaza?”

Nhưng ông ta nhăn nhó. “Chuyến tàu? Ý cậu là từ đây đi à?”

Paul càng cảnh giác hơn. “Đúng. Đến Alexander Plaza.”

“Tại sao cậu lại đi tàu? Đi xe điện ngầm nhanh hơn nhiều.”

Được rồi, mình hỏi sai người rồi, Paul nghĩ. Chuồn thôi. Ngay bây giờ. Chỉ việc chậm rãi bước đi. “Cảm ơn ông. Như thế là tốt nhất. Chúc ông một ngày tốt lành.”

Nhưng đôi mắt Paul chắc phải lộ ra điều gì đó. Bàn tay người đàn ông để xuôi theo bên người, một cử chỉ Paul biết rõ, và gã nghĩ đến khẩu súng ngắn!

Chết tiệt, chúng nó sai gã ra đây mà không được mang theo khẩu Colt.

Paul nắm chặt tay lại thành nắm đấm và định bước lên, nhưng mặc dù trông mập mạp, đối thủ của gã lùi lại nhanh nhẹn đến ngạc nhiên, vượt khỏi tầm với của Paul, khéo léo rút ra khẩu súng ngắn từ eo lưng. Paul chỉ có thể xoay người và chạy. Gã rẽ tức khắc vào một ngách của con ngõ.

Nhưng gã dừng khựng. Đó là ngõ cụt.

Tiếng giầy lạo xạo vang lên sau lưng, gã cảm thấy vũ khí của người đàn ông sau lưng mình, ngay chỗ tim gã …

“Đứng im,” người đàn ông tuyên bố bằng tiếng Đức âm yết hầu. “Bỏ va li xuống.”

Gã buông rơi va li xuống mặt đường đá cuội, cảm thấy khẩu súng rời khỏi lưng gã và chạm vào đầu, ngay phía dưới mũ của gã.

Bố ơi, gã nghĩ - không phải gã cầu thánh thần mà là cha mẹ gã, đã rời bỏ thế gian này mười hai năm rồi.

Gã nhắm mắt lại.

Mặt trời cuối cùng cũng lặn…

Phát súng vang lên bất ngờ, dội lại ngắn ngủi vào những bức tường của con ngõ, tiếp theo bị lớp gạch nuốt chửng.

Paul cúi người xuống, cảm thấy nòng súng ấn mạnh hơn nữa vào sọ gã, rồi khẩu súng bị văng đi. Gã nghe thấy tiếng kêu của nó, nhìn lại tên vừa suýt giết gã giờ đang sõng soài dưới đất. Đôi mắt hắn ta mở to nhưng đờ đẫn. Một viên đạn găm vào một bên đầu hắn. Máu bắn tung tóe trên đất và bức tường gạch.

Gã ngước mắt lên, nhìn thấy một người khác, trong bộ trang phục bằng vải flannel màu xám đen, đang đến gần gã. Theo bản năng tự nhiên, gã vơ lấy khẩu súng ngắn của tên đã chết. Đó là dạng súng tự động có một cái chốt trên cùng, gã tin là một khẩu Luger. Nhằm vào ngực người đàn ông, Paul liếc mắt. Gã nhận ra người này đến từ quán Nhà Bia. Ông ta đang ngồi trên hàng hiên, cắm cúi xem một tờ báo - Paul cho là vậy. Ông ta đang nắm chắc khẩu súng ngắn, một khẩu tự động loại lớn, nhưng không chĩa vào Paul. Ông ta vẫn đang nhắm vào tên nằm dưới đất.

“Đứng im,” Paul nói bằng tiếng Đức. “Bỏ súng xuống.”

Ông ta không bỏ súng xuống nhưng cho rằng tên ông đã bắn không còn là mối đe dọa, nên bỏ tọt vũ khí của mình vào túi.

Ông nhìn lên nhìn xuống ngõ Dresden. “Suỵt,” ông thì thầm, rồi nghiêng đầu lắng nghe, sau đó chậm rãi đến gần. “Schumann phải không?” ông hỏi.

Paul không nói gì. Khẩu Luger của gã vẫn nhắm vào người lạ, đang cúi xuống trước mặt kẻ bị bắn. “Đồng hồ của tôi.” Những từ này được thốt ra bằng tiếng Đức, trọng âm nhẹ.

“Cái gì cơ?”

“Đồng hồ của tôi. Đó là thứ tôi lấy ra.” Ông ta rút ra một chiếc đồng hồ bỏ túi, mở nó ra và giơ mặt pha lê lên trước mũi và miệng tên kia. Không còn dấu hiệu nào của hơi thở. Ông cất đồng hồ đi.

“Cậu là Schumann?” ông ta lặp lại, hất đầu về chiếc va li nằm dưới đất. “Tôi là Reggie Morgan.” Ông ta cũng khớp với mô tả Avery đã cung cấp: tóc đen, có ria mép cho dù ông ta mỏng cơm hơn nhiều so với tên kia.

Paul nhìn lên nhìn xuống con ngõ. Chẳng còn ai khác nữa.

Màn trao đổi nghe có vẻ vụng về, với một xác chết trước mặt, nhưng Paul vẫn hỏi, “Chuyến tàu tốt nhất đến được Alexander Plaza là chuyến nào?”

Morgan đáp nhanh, “Chuyến số 1-3-8… Mà không, thực ra chuyến số 2-5-4 tốt hơn.”

Paul liếc nhìn cái xác. “Vậy thì hắn là ai?”

“Để xem nào.” Ông cúi xuống cái xác, bắt đầu móc các túi áo, túi quần của hắn.

“Tôi sẽ giữ cái đồng hồ,” Paul nói.

“Tốt.”

Paul bước tránh xa ra. Rồi gã quay lại, dí khẩu Luger vào sau đầu Morgan.

“Ngồi yên.”

Ông ta cứng người lại. “Chuyện gì thế này?”

Paul đáp bằng tiếng Anh, “Cho tôi xem hộ chiếu của ông.”

Paul cầm lấy cuốn sách nhỏ xác nhận rằng ông ta là Reginald Morgan. Dầu vậy khi trả nó lại, gã vẫn không bỏ súng xuống. “Mô tả ngài Thượng Nghị sĩ cho tôi. Bằng tiếng Anh.”

“Nếu cậu không phiền, bỏ tay ra khỏi cò súng được không,” ông ta nói bằng giọng nghe như ở đâu đó tại New England. “Được rồi, ngài Thượng Nghị sĩ hả? Ông ta sáu mươi hai tuổi, tóc bạc, cái mũi tập trung nhiều mạch máu hơn mức cần thiết do rượu Scotch. Và ông ta gầy nhằng như đường ray tàu điện, mặc dù ông ta chén rất nhiều xương thịt bò tại quán Delmonico khi ở New York và quán Earnie khi ở Detroit.”

“Ông ta hút thuốc lá gì?”

“Lần cuối cùng tôi gặp vào năm ngoái, thì ông ấy không hút gì cả. Vì bà vợ. Nhưng ông ấy có nói với tôi rằng ông ấy sẽ hút lại. Và thuốc ông ấy đã từng hút là xì gà của Dominica có mùi như sa thạch đang cháy ấy. Tha cho tôi được chưa, anh bạn. Tôi không muốn chết vì “lão già nào đó thích lặp lại thói quen xấu đâu.””

Paul cất súng đi. “Xin lỗi.”

Morgan tiếp tục xem xét cái xác, không thấy phiền trước bài kiểm tra của Paul. “Tôi thà làm việc với một người thận trọng, còn hơn với một kẻ bất cẩn vô tâm. Cả hai ta rồi sẽ sống lâu.” Ông thọc tay vào các túi quần áo kẻ đã chết. “Có ai khác đến chưa?”

Paul nhìn khắp ngõ Dresden. “Chẳng có ai cả.”

Gã nhận thấy Morgan đang nhìn chằm chằm vẻ chán ngán vào cái gì đó ông ta tìm thấy trong túi hắn và sau đó thở dài. “Được rồi. Ôi trời ơi, rắc rối rồi đây.”

“Gì thế?”

Ông giơ lên một thẻ, trông có vẻ là chính thức. Trên cùng là dấu một con đại bàng, bên dưới nằm trong một vòng tròn, là dấu thập ngoặc. Các chữ cái “SA” xuất hiện phía trên cùng.

“Thế này nghĩa là gì?”

“Bạn tôi ơi, nó có nghĩa là anh bạn mới vào thành phố chưa được một ngày, thế mà chúng ta đã xử xong một thành viên SA rồi đấy.”