CHƯƠNG 8
Bước về phía quảng trường nhộn nhịp để bắt taxi, Paul thi thoảng lại liếc nhìn sau lưng. Miệng hút điếu Chesterfield, mắt nhìn những biển hiệu, cửa hàng tạp hóa, người qua đường, một lần nữa tìm kiếm thứ gì đó không đúng.
Gã lẻn vào trong một nhà vệ sinh công cộng sạch sẽ đến hoàn hảo, bước vào trong một ngăn nhỏ. Gã dụi tắt điếu thuốc, thả xuống bồn cầu cùng các đầu mẩu thuốc lá và nắm giấy lộn ghi địa chỉ nhà trọ của Käthe Richter. Sau đó, gã xé hết các ảnh chụp Ernst thành hàng tá mảnh nhỏ, xả nước cho trôi hết.
Bước ra ngoài phố, gã gạt sang bên những hình ảnh ghê sợ từ cái chết buồn và vô ích của Max, tập trung vào công việc trước mắt. Đã nhiều năm rồi kể từ khi gã giết người bằng khẩu súng trường. Gã là một tay thiện xạ với vũ khí dài. Người ta hay gọi súng chung chung là “vũ khí.” Nhưng điều này không hoàn toàn đúng. Một khẩu súng lục nặng cỡ hơn 1 kilogram, một khẩu súng trường nặng cỡ 5 kilogram hoặc hơn. Để nắm chắc một vũ khí như vậy cần đến sức mạnh. Hai cánh tay rắn chắc của Paul đã giúp gã có được phát súng chính xác trong tiểu đội của mình.
Thế nhưng bây giờ khi giải thích với Morgan, khi gã phải đi hóa kiếp kẻ nào đó, gã lại thích dùng súng lục.
Và gã luôn luôn tiếp cận thật gần, gần như hơi thở.
Gã không bao giờ nói câu nào với nạn nhân, không bao giờ đối đầu trực tiếp, thậm chí còn chẳng cho hắn biết chuyện gì sẽ xảy ra. Gã chỉ xuất hiện, càng thầm lặng càng tốt, tiến đến sau lưng nạn nhân như một gã mập có thể, rồi bắn vào đầu hắn, giết chết hắn ngay lập tức. Gã sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện hành xử như tên Bugsy Siegel bệnh hoạn hay Dutch Schultz mới chết, những kẻ thích chậm rãi đánh đập nạn nhân cho đến chết, tra tấn họ, hành hạ họ. Paul làm việc như một tên sát thủ vô cảm, không giận dữ, không vui sướng hay không có sự thỏa mãn cứng cỏi của báo thù. Đơn giản chỉ là tự biến mình thành một con quỷ đi diệt một con quỷ khác mạnh hơn.
Và Paul Schumann khăng khăng muốn mình phải trả giá cho hành động đạo đức giả này. Gã đau khổ vì liên quan đến việc giết người. Những cái chết khiến gã muốn bệnh, nhấn chìm trong hố sâu của u buồn và tội lỗi. Cứ mỗi khi gã giết người, lại thêm một phần khác trong gã chết theo. Có lần gã uống say trong một quán bar Ai Len tại Khu Phố Tây tồi tàn, gã đã kết luận rằng mình là mặt trái của Chúa, gã mà chết thì những kẻ khác cũng có thể chết theo. Gã ước rằng mình đã từng hút cả cần sa nữa để nhớ về ý nghĩ ấy. Nhưng gã đã phát chán với nó.
Dẫu vậy, gã cho rằng Morgan đã đúng về chuyện sử dụng súng trường. Bạn của gã, Damon Runyon đã từng nói rằng một người đàn ông chỉ có thể là kẻ thắng cuộc, nếu hắn ta sẵn sàng vượt qua giới hạn. Paul chắc chắn rằng làm việc đó thường xuyên là đủ, nhưng gã cũng biết khi nào thì dừng lại. Gã không bao giờ tự sát. Trong một vài dịp, gã đã hủy bỏ kế hoạch hóa kiếp khi cảm thấy những lợi thế không đủ tốt. Có thể không thành vấn đề khi chọi lại năm hoặc sáu tên. Nhưng còn tệ hơn thế? Thì thôi…
Một tiếng rầm khiến gã giật bắn mình. Cái gì đó bay từ cửa hàng sách ra vỉa hè, cách gã vài thước. Một giá sách. Vài cuốn sách văng ra. Gã liếc nhìn vào bên trong cửa hàng sách và thấy một người đàn ông trung niên, đang ôm khuôn mặt bê bết máu. Có vẻ ông ta đã bị đánh vào má. Một người phụ nữ đang khóc lóc, túm chặt cánh tay ông ta. Cả hai người đều hoảng sợ. Bốn tên cao lớn trong bộ đồng phục màu nâu sáng đứng vây xung quanh họ. Paul cho rằng chúng là lính Xung Kích. Áo Nâu. Một trong số chúng đang cầm một quyển sách và quát vào mặt người đàn ông. “Mày không được phép bán thứ chó chết này! Chúng là bất hợp pháp. Mày được nhận một vé đến Oranienburg đấy.”
“Đó là Thomas Mann,” người đàn ông phản đối. “Nội dung của nó chẳng có gì chống lại Lãnh tụ hay Đảng hết. Tôi…”
Tên Áo Nâu đập vào mặt ông ta bằng quyển sách mở. Hắn ta nói bằng giọng chế giễu. “Đó là…” Một cú đánh giận dữ nữa. “Thomas…” Một cú đánh nữa, gáy sách vỡ tan. “Mann…”
Vụ ngược đãi này làm Paul giận sôi máu nhưng đó không phải vấn đề của gã. Gã không thể tự mình lôi kéo sự chú ý ở đây. Gã dợm bước đi. Bỗng một trong những tên Áo Nâu túm chặt cánh tay người đàn bà và đẩy bà ta ra ngoài sân. Bà ta đâm sầm vào Paul, ngã xuống vỉa hè. Bà ta hoảng sợ quá đến nỗi dường như không để ý đến gã. Máu chảy từ hai đầu gối và lòng bàn tay của bà ta do bị thủy tinh cứa vào.
Tên rõ ràng là chỉ huy bọn Xung Kích kéo lê người đàn ông ra ngoài. “Phá hủy nơi này,” hắn kêu gọi đồng bọn. Chúng bắt đầu xô đổ hết các quầy thu tiền và các giá sách, xé rách các bức tranh treo trên tường, đập những chiếc ghế vững chắc xuống sàn, cố gắng bẻ gãy. Tên cầm đầu liếc nhìn Paul rồi giáng một quả đấm rất mạnh xuống bụng người bán sách. Ông ta rên rỉ, chuyển thế nằm sấp rồi nôn mửa. Tên Áo Nâu bước đến chỗ người phụ nữ. Hắn túm tóc bà ta, vừa định đánh vào mặt bà ta thì Paul, do bản năng thúc đẩy, nắm chặt lấy cánh tay hắn.
Hắn xoay người lại, nước bọt phun ra khỏi cái miệng nằm trên khuôn mặt to, vuông vức. Hắn nhìn trừng trừng vào đôi mắt xanh của Paul. “Mày là thằng nào? Mày có biết tao là ai không? Hugo Felstedt của Lữ đoàn Xung Kích Lâu đài Berlin đây. Alexander! Stefan!”
Paul nhẹ nhàng kéo người phụ nữ sang bên. Bà ta cúi xuống, đỡ người bán sách kia. Ông ta đang lau miệng, những giọt nước mắt rơi xuống vì đau đớn và nhục nhã.
Hai tên Xung Kích xuất hiện từ trong cửa hàng. “Thằng nào đây?” một tên hỏi.
“Thẻ mày đâu! Lôi ra ngay!” Felstedt quát lên.
Cho dù cả đời dành cho đánh đấm, Paul luôn tránh những vụ đụng độ đường phố. Bố gã thường nghiêm khắc dạy gã rằng, đừng bao giờ nên tranh hơn thua trong bất kỳ trường hợp nào, nếu không kẻ nào chơi theo luật. Gã bị cấm đánh nhau trên sân trường và trong các con ngõ. “Mày có nghe không đấy, con trai?” Paul ngoan ngoãn đáp, “Tất nhiên rồi, bố, con nghe mà.” Nhưng đôi lúc, chẳng có việc để làm ngoài gặp gỡ Jake McGuire hay Little Bill Carter rồi đi đánh nhau. Gã không chắc chuyện gì đã xảy ra khiến thời đại ngày nay khác đi. Nhưng không hiểu làm sao, không nghi ngờ gì nữa, bạn biết rằng mình không thể cứ thế bỏ đi.
Và đôi lúc - có thể là vào nhiều thời điểm - bạn có thể quay lưng bước đi, nhưng đơn giản chỉ là bạn không muốn.
Gã đánh giá tên này, hắn trông giống thằng nhóc trung úy, Vincent Manielli, Paul quả quyết. Trẻ trung và cơ bắp, nhưng chỉ là đứa mạnh mồm. Tay người Mỹ dồn trọng lượng xuống chân, tự giữ cân bằng sau đó đấm vào bụng của Felstedt bằng cú đấm thẳng gần như không nhìn thấy.
Quai hàm gục xuống, hắn lùi lại, cố gắng thở, tay vỗ vỗ vào ngực như thể muốn tìm kiếm trái tim hắn.
“Thằng khốn,” một trong số hai tên kia thét lên, choáng váng vươn tay rút súng ra. Paul nhảy lên phía trước, nắm chặt bàn tay phải của hắn bỏ ra khỏi bao súng, tung một cú móc trái lên mặt hắn. Trong đấm bốc, không có cơn đau nào tệ hơn cú đấm mạnh vào mũi. Và khi lớp sụn bị dập máu chảy xuống bộ đồng phục màu da lạc đà, hắn rú lên một tiếng chói tai, lảo đảo lùi lại dựa vào tường, những giọt nước mắt tuôn như mưa.
Hugo Felstedt lúc này đã quỳ xuống, không còn quan tâm đến trái tim nữa. Hắn nắm tay xiết chặt lại bụng mình khi nôn ọe đến thảm hại.
Tên lính thứ ba lần tay tìm súng.
Paul nhanh nhẹn bước lên phía trước, hai tay xiết thành nắm đấm. “Đừng,” gã bình tĩnh cảnh báo. Tên Áo Nâu bất ngờ lao ra phố, gào lên, “Tôi sẽ gọi hỗ trợ… Tôi sẽ gọi hỗ trợ…”
Tên Xung Kích thứ tư bước ra ngoài. Paul bước đến chỗ hắn, hắn bỗng hét lên. “Xin đừng làm tôi đau!”
Mắt vẫn nhìn dán vào tên Áo Nâu, Paul quỳ xuống mở ba lô và bắt đầu mò mẫm trong đống giấy tờ tìm khẩu súng lục.
Đôi mắt gã sao nhãng chi một lúc, tên Xung Kích bất thần cúi xuống chộp lấy vài mảnh kính cửa sổ vỡ ném về phía Paul. Gã cúi đầu tránh, nhưng hắn lao vào, giáng quả đấm kẹp móc đồng vào má gã. Nắm đấm chỉ sượt qua nhưng Paul cũng giật mình, vấp phải va li, ngã ngửa vào một khu vườn cỏ dại nhỏ gần cửa hàng sách. Tên Áo Nâu nhảy chồm theo sau gã. Hai bên túm chặt lấy nhau. Hắn tuy không quá mạnh khỏe cũng như không thạo về đánh đấm, nhưng Paul cũng phải mất một lúc mới đứng dậy được. Giận dữ vì mình bi tấn công bất ngờ, gã nắm lấy cổ tay của hắn vặn thật mạnh, nghe thấy một tiếng rắc.
“Ái,” tên lính thì thầm. Hắn nằm dán xuống đất, bất tỉnh.
Felstedt đang chuyển sang tư thế ngồi, lau đám mũi dãi trên mặt.
Paul rút khẩu súng ngắn trên thắt lưng tên lính, ném sang mái một tòa nhà thấp gần đó. Gã quay sang người đàn ông bán sách và người phụ nữ. “Rời khỏi đây ngay. Đi.”
Không nói câu nào, họ nhìn chằm chằm vào gã.
“Nhanh lên!” gã càu nhàu gay gắt.
Một tiếng huýt sáo vang lên trên phố. Thêm vài tiếng quát.
Paul nói, “Chạy đi!”
Ông già bán sách lại đưa tay lau miệng, liếc nhìn những gì còn lại của cửa hàng lần cuối cùng. Người phụ nữ quàng tay qua vai ông, họ gấp gáp bỏ đi.
Nhìn sang phía đối diện dưới phố Rosenthaler, Paul để ý thấy nửa tá tên lính Xung Kích đang chạy về phía mình.
“Con lợn Do Thái kia,” tên bị vỡ mũi làu bàu. “À, mày xong rồi nhé.”
Paul chộp lấy ba lô, vơ vội những thứ vương vãi bỏ vào trong rồi bắt đầu chạy đến con ngõ gần đó. Nhìn một cái ra sau lưng, đám lính cao lớn đang đuổi theo. Bọn này mọc đâu ra đông thế? Từ con ngõ chạy ra, gã thấy mình đứng trên con phố với những ngôi nhà, các xe đẩy, nhà hàng đổ nát và những cửa hàng phô trương, hào nhoáng. Gã dừng lại, nhìn xung quanh con phố đông đúc.
Gã bước qua một người bán quần áo dùng rồi. Lợi dụng lúc người bán lơ đãng, gã thó một chiếc áo khoác màu xanh thẫm từ trên giá quần áo nam giới. Gã vo tròn nó lại rồi định tới con ngõ khác để mặc vào. Nhưng gã nghe thấy những tiếng quát gần đó, “Đằng kia! Phải hắn không?… Tên kia! Đứng lại!”
Gã nhìn bên trái thấy thêm ba tên lính Xung Kích nữa đang tiến đến. Tin tức về vụ đánh nhau đã lan xa. Gã lao vào ngõ, dài hơn và tối hơn con ngõ lúc đầu. Nhiều tiếng quát nữa sau lưng gã. Có một tiếng súng nổ. Gã nghe thấy tiếng keng lanh lảnh khi viên đạn bắn trúng viên gạch gần đầu gã. Gã cúi đầu xuống. Ba hay bốn tên mặc đồng phục nữa cùng tham gia truy đuổi.
Có nhiều người ở quốc gia này sẽ đuổi theo cậu, đơn giản chỉ vì cậu đang chạy…
Paul phun phì phì vào tường, cố gắng hít không khí vào phổi. Một lúc sau, gã lao ra khỏi ngõ vào một con phố khác, đông hơn hẳn con phố lúc nãy. Gã hít một hơi thật sâu rồi hòa vào đám đông những người mua sắm ngày thứ Bảy. Nhìn khắp đại lộ, gã trông thấy ba hay bốn con ngõ đang đâm ra từ đây.
Lối nào?
Những tiếng quát sau lưng gã khi bọn lính Xưng Kích tràn ra phố. Không kịp đợi nữa. Gã chọn ngay con ngõ gần nhất.
Lựa chọn sai. Lối ra duy nhất khỏi ngõ này là năm hoặc sáu cái cửa ra vào. Tất cả đều khóa trái.
Gã định quay ra khỏi ngõ cụt nhưng rồi dừng lại. Đang có mười hai tên Áo Nâu lảng vảng trong các đám đông, di chuyển đều đặn hướng về con ngõ này. Hầu hết bọn chúng đang mang súng lục. Những thằng bé đi theo chúng ăn mặc như những thằng nhóc hạ cờ hôm qua gã gặp tại làng Olympic.
Kiểm soát hơi thở, gã tựa sát vào tường gạch.
Đống hỗn độn này ngày càng lớn, gã giận dữ nghĩ.
Gã nhét mũ, cà vạt cùng áo vest vào trong ba lô, rồi mặc chiếc áo khoác màu xanh vào.
Paul đặt túi xuống dưới chân lấy ra khẩu súng lục. Gã kiểm tra để chắc chắn rằng súng đã nạp đạn, cùng một ổ đạn đầy.
Cánh tay tì vào tường, gã tựa vũ khí lên cẳng tay và chậm rãi vươn ra nhắm vào tên đang dẫn đầu - Felstedt.
Chúng rất khó phát hiện ra phát súng từ đâu đến và Paul hy vọng chúng sẽ tản ra tìm chỗ nấp, cho gã cơ hội lao bừa qua các dãy xe đẩy gần đó. Mạo hiểm… nhưng chúng sẽ vào trong ngõ này bất kỳ lúc nào, gã còn lựa chọn nào khác đâu?
Gần hơn, gần hơn…
Chạm vào đá…
Sức ép lên cò súng dần tăng khi gã nhằm vào giữa ngực hắn, đầu ruồi súng đu đưa nơi sợi dây da vắt chéo từ thắt lưng lên vai che khuất trái tim hắn.
“Không,” một giọng nói thì thầm gấp gáp vào tai gã.
Paul quay phắt lại, chĩa khẩu súng vào người đàn ông vừa lặng lẽ tiến đến sau lưng gã. Anh ta tầm bốn mươi tuổi, mặc comple đã sờn kha khá. Mái tóc dày của anh ta chải ngược ra sau, bóng mượt với hàng ria mép rậm. Anh ta thấp hơn Paul vài phân, bụng phình ra trên thắt lưng. Trên hai tay anh ta là một thùng to bằng bìa carton.
“Cậu có thể chĩa cái đó ra chỗ khác,” anh ta bình tĩnh nói, hất đầu về phía khẩu súng lục.
Tay người Mỹ vẫn đứng im. “Anh là ai?”
“Chuyện trò có lẽ để sau đi. Chúng ta đang có những vấn đề khẩn cấp hơn.” Anh ta bước qua Paul nhìn xung quanh lối rẽ. “Có mười hai tên. Chắc cậu phải làm chuyện gì đó khó chịu lắm.”
“Tôi đánh gục ba tên trong số chúng.”
Tay người Đức nhướn mày. “Ái chà, thế thì tôi xin đảm bảo với ngài, nếu ngài giết một hoặc hai tên sẽ có đến hàng trăm tên lao đến trong vài phút. Chúng sẽ săn lùng ngài và có thể giết một tá người vô tội trong thời gian đó. Tôi có thể giúp ngài trốn thoát.”
Paul ngần ngừ.
“Nếu cậu không làm theo lời tôi bảo, chúng sẽ giết cậu. Giết người và hành quân là hai việc duy nhất chúng làm tốt.”
“Bỏ cái thùng xuống.” Người đàn ông làm theo, Paul kéo áo khoác của anh ta lên, nhìn vào thắt lưng rồi ra hiệu cho anh ta xoay một vòng.
“Tôi không có súng.”
Cử chỉ tương tự, sự nôn nóng.
Tay người Đức quay lại. Paul vỗ vỗ vào các túi áo và mắt cá chân. Đúng là anh ta không có vũ khí.
Người đàn ông nói, “Tôi đã quan sát cậu. Cậu đã cởi áo vest và mũ - tốt đấy. Với cái cà vạt vụng về này, cậu sẽ nổi bật như nàng trinh nữ trên phố Nollendorf Plaza. Nhưng có khả năng cậu sẽ bị khám xét. Cậu phải vứt đống quần áo đó đi.” Hất đầu về phía chiếc ba lô.
Những bước chân nghe đã rất gần, Paul lùi lại, cân nhắc những lời khuyên, chúng nghe có lý. Gã lôi các thứ ra khỏi ba lô, bước đến chỗ thùng rác.
“Không,” người đàn ông nói. “Không phải ở đó. Nếu cậu muốn vứt cái gì đó tại Berlin, thì đừng ném vào thùng rác thực phẩm vì những người bới rác sẽ tìm thấy chúng. Đừng ném vào các thùng rác thải, hoặc Gestapo, lũ gián điệp, SA hoặc SD sẽ tìm thấy, chúng đều đặn đi nhặt rác mà. Nơi an toàn duy nhất là cống. Không tên nào mò xuống cống đâu. Chưa mò xuống, trong bất kỳ trường hợp nào.”
Paul liếc mắt xuống một cái lưới sắt gần đấy, miễn cưỡng ném hết xuống đó.
Cà vạt Ai Len may mắn của gã…
“Bây giờ, tôi sẽ thêm một chi tiết vào vai trò của cậu, như một kẻ thoát-khỏi-lũ-áo nâu-thối-tha.” Anh ta thọc tay vào túi áo khoác rút ra vài cái mũ, chọn một cái mũ lò xo bằng vải bạt sáng màu. Anh ta mở rộng mũ ra trao cho Paul, bỏ những chiếc mũ còn lại vào túi. “Đội vào đi.” Tay người Mỹ làm theo. “Giờ khẩu súng ngắn nữa. Cậu phải vứt nó đi. Tôi biết cậu khó xử, nhưng nói thật làm thế sẽ tốt hơn cho cậu. Không có khẩu nào đủ đạn ngăn chặn hết đám lính Xung Kích trong thành phố này đâu, huống hồ là khẩu Punger bé tí ấy.”
Có hay không?
Bản năng một lần nữa mách bảo gã rằng anh ta nói đúng. Gã cúi xuống đồng thời ném khẩu súng xuống cống. Gã nghe thấy tiếng nước bắn tóe dưới mặt phố rất sâu.
“Giờ thì theo tôi,” người đàn ông nhấc cái thùng lên. Thấy Paul ngần ngừ, anh ta thì thầm, “Ồi dào, cậu đang nghĩ làm sao có thể tin được tôi chứ gì? Cậu chẳng hề quen biết tôi. Nhưng thưa cậu, tôi dám nói rằng trong những hoàn cảnh thế này, câu hỏi thực sự phải là: làm sao cậu có thể không tin tôi? Dù sao lựa chọn là của cậu. Cậu có mười giây để quyết định.” Anh ta phá lên cười. “Chẳng phải luôn thế hay sao? Quyết định càng quan trọng bao nhiêu, thời gian đưa ra quyết định càng ít bấy nhiêu.” Anh ta bước đến một cánh cửa, tra chìa khóa vào và mở cửa, quay người nhìn lại. Paul đi theo. Họ bước vào trong một nhà kho. Anh ta đóng sầm cửa rồi khóa lại. Nhìn qua ô cửa sổ nhờn mỡ, Paul trông thấy bọn lính Xung Kích bước vào trong ngõ, nhìn xung quanh rồi đi tiếp.
Căn phòng chứa đầy các hộp và thùng thưa, những chai rượu đầy bụi. Người đàn ông dừng lại, hất đầu về phía thùng carton. “Nhận lấy đi. Nó sẽ là xương sống cho câu chuyện của chúng ta. Và có lẽ là món sinh lời nữa.”
Paul giận dữ nhìn anh ta. “Lẽ ra tôi có thể để quần áo và súng của tôi ở trong này. Tôi đã không phải vứt chúng đi.”
Anh ta bĩu môi. “À, phải rồi, ngoại trừ một điều đây không hẳn là nhà kho của tôi. Bây giờ, cái thùng carton kia. Xin quý ông vui lòng, chúng ta đang vội.” Paul đặt ba lô lên trên cái thùng, nhấc thùng lên rồi đi theo. Họ vào trong một căn phòng bụi bặm phía trước. Người đàn ông liếc nhìn ra ô cửa sổ cáu bẩn định mở cửa.
“Chờ đã,” Paul nói. Gã đưa tay sờ lên má, vết xước từ cái móc đồng đang hơi chảy máu. Hai bàn tay gã rà lên những giá sách bẩn thỉu vỗ vỗ lên mặt, che đi vết thương, bôi lên cả áo khoác và quần. Những vết bẩn sẽ ít thu hút sự chú ý hơn vết máu.
“Tốt,” tay người Đức nói, mở rộng cửa ra vào. “Bây giờ, cậu là một lao động đẫm mồ hôi. Và tôi sẽ là ông chủ của cậu. Đi lối này.” Anh ta quay lưng tiến thẳng đến nhóm ba hay bốn tên lính Xung Kích đang nói chuyện với một phụ nữ ngồi uể oải cạnh cột đèn đường, tay ôm một con chó xù bé xíu buộc bằng sợi dây màu đỏ.
Paul ngập ngừng.
“Rảo cái chân lên. Đừng lề mề.”
Họ gần như đi qua bọn Áo Nâu thì một tên trong bọn gọi lại, “Này, đứng lại. Cho xem giấy tờ.” Một trong số những người bạn của hắn đi cùng, chúng bước đến trước mặt Paul và tay người Đức. Tức điên người vì đã vất súng đi, Paul liếc nhìn sang bên. Người đàn ông trong ngõ nhăn nhó, “Ôi, thẻ của chúng tôi, phải rồi, phải rồi. Tôi rất tiếc, thưa các ngài. Các ngài phải hiểu hôm nay chúng tôi buộc phải làm việc, như các ngài có thể thấy.” Hất đầu về phía thùng carton. “Ngoài dự kiến. Một chuyến giao nhận khẩn cấp.”
“Hai người lúc nào cũng phải mang thẻ theo cơ mà.”
Paul nói, “Chúng tôi chỉ đi một quãng ngắn thôi.”
“Chúng tôi đang tìm một người cao lớn, mặt vest xám và đội mũ nâu. Hắn có vũ khí. Hai người có thấy ai như thế không?”
Một cái liếc mắt dò hỏi. “Không,” Paul đáp.
Tên Áo Nâu thứ hai vỗ lên người cả Paul lẫn tay người Đức tìm vũ khí, chộp lấy chiếc ba lô rồi mở ra, liếc nhìn vào bên trong. Hắn lôi ra cuốn Cuộc Chiến Của Tôi. Paul có thể thấy chỗ phồng ra nơi giấu hộ chiếu Nga và mấy đồng rúp.
Tay người Đức trong ngõ nói nhanh, “Trong đấy chẳng có gì hay đâu. nhưng bây giờ tôi nhớ ra chúng tôi có giấy tờ xác nhận. Tìm trong thùng carton của anh bạn đây.”
Hai tên Áo Nâu liếc nhìn nhau. Một tên cầm cuốn sách của Hitler ném trả vào trong ba lô, đặt ba lô xuống rồi xé rách mặt thùng carton Paul cầm trên tay.
“Như các ngài có thể thấy, chúng tôi là Anh Em Bordeaux.”
Một tên Áo Nâu bật cười, tay người Đức nói tiếp, “Nhưng ngài có thể không bao giờ chắc chắn được. Có lẽ ngài nên mang theo hai chai này đi xác minh.”
Vài chai rượu vang đỏ được lấy ra. Hai tên lính Xung Kích vẫy đồng bọn lại gần. Paul khoác ba lô lên, họ đi tiếp xuống phố.
Đi hết hai khu phố nữa, tay người Đức hất đầu sang đường. “Trong đó.” Nơi anh ta muốn nói đến có vẻ như là một hộp đêm trang trí bằng các lá cờ Phát xít. Một tấm biển bằng gỗ viết: Quán Cà Phê Aryan.
“Anh điên à?” Paul hỏi.
“Đến giờ thì tôi vẫn đúng, phải không anh bạn? Làm ơn vào đi. Đó mới là nơi an toàn nhất đấy. Những-tên-Áo Nâu-thối tha không được đón chào ở đây đâu, mà chúng cũng chẳng có tiền mà vào. Chừng nào cậu còn chưa đập bất kỳ thằng sĩ quan SS hay quan chức cấp cao nào của Đảng, thì cậu sẽ an toàn… Cậu chưa làm thế đúng không?”
Paul lắc đầu. Gã miễn cưỡng đi theo người đàn ông vào trong. Gã trông thấy ngay ý người đàn ông này nói về giá cả để vào đây. Một tấm biển đề 20 USD/40 Mác. Chúa ơi, gã nghĩ. Cái nơi điên rồ nhất gã đến ở New York, Câu lạc bộ Debonair chỉ có giá 5 đô thôi.
Anh ta mang theo người bao nhiêu tiền nhỉ? Gần bằng nửa số tiền Morgan đã cho gã. Nhưng người gác cửa ngước mắt lên và nhận ra tay người Đức có ria mép. Anh ta ra hiệu cho hai người đi vào mà không đòi tiền vé.
Họ bước qua một tấm rèm vào trong một quầy bar nhỏ tối tăm, lộn xộn với những món đồ cổ và đồ tạo tác, các tấm poster điện ảnh, những cái chai đầy bụi. “Otto!” Tay trông quầy bar kêu lên, lắc mạnh bàn tay người đàn ông.
Otto đặt cái thùng carton lên quầy bar, ra hiệu cho Paul làm theo.
“Tôi tưởng anh chỉ giao một thùng thôi.”
“Đồng chí của tôi giúp tôi mang một thùng nữa, trong thùng ấy chỉ có mười chai thôi. Thế nên tổng thiệt hại giờ là 70 mác, phải không?
“Tôi chỉ đặt một thùng, chỉ cần một thùng thôi. Tôi sẽ chi thanh toán cho một thùng.”
Khi hai người cò kè giá cả, Paul tập trung vào những lời nói vọng ra từ chiếc radio cỡ lớn phía sau quầy bar. “… khoa học hiện đại đã tìm ra vô số phương pháp bảo vệ cơ thể không mắc bệnh, nên nếu bạn không áp dụng những quy tắc vệ sinh đơn giản đó, bạn có thể mắc bệnh nặng. Với việc nhiều du khách nước ngoài đến thành phố có khả năng xuất hiện những xu hướng lây nhiễm mới, nên điều căn bản là phải luôn luôn nhớ các nguyên tắc vệ sinh.”
Otto đã đàm phán xong, rõ ràng là thỏa mãn và liếc nhìn ra ngoài cửa sổ. “Chúng vẫn ở ngoài đó, đang lởn vởn. Chúng ta cùng uống bia thôi. Cậu sẽ đãi tôi một chầu.” Anh ta nhận thấy Paul đang nhìn vào cái đài, mà dường như trong quán bar không ai chú ý đến dù đài mở âm lượng to. “Này, cậu thích cái giọng trầm của Bộ trưởng Tuyên truyền à? Ấn tượng sâu sắc, đúng không? Nhưng nói thật, hắn là một kẻ tầm thường. Tôi có liên lạc ở khắp nơi trên cả dãy phố Wilhelm, trong tất cả những tòa nhà chính phủ. Sau lưng hắn, người ta gọi hắn là “Chuột Mickey.” Quay ra nhà sau thôi, tôi chịu hết nổi cái giọng đều đều này rồi. Mỗi cơ sở đều phải sắm một cái đài để ra rả đọc những bài diễn văn của lãnh đạo Đảng và phải để âm lượng thật lớn khi chúng đang được đọc. Không là trái luật đấy. Ở đây họ đặt cái đài ở phòng ngoài là cho đúng luật thôi. Cấu lạc bộ thật sự nằm ở phòng sau cơ. Giờ thì cậu thích nam hay nữ nào?”
“Cái gì?”
“Nam hay nữ? Cậu thích ai hơn?”
“Tôi không quan tâm đến…”
“Tôi hiểu, nhưng vì chúng ta phải đợi bọn Áo Nâu phát mệt vì săn đuổi, nên cho tôi biết đi. Cậu thích ngắm gì hơn trong khi chúng ta uống bia mà cậu hào phóng đãi tôi? Nam nhảy với nam, nam nhảy với nữ hay nữ nhảy một mình đây?”
“Nữ.”
“À, tôi cũng thế. Đồng tính luyến ái ở Đức bây giờ là phạm pháp. Nhưng cậu sẽ ngạc nhiên khi thấy khá nhiều người theo Chủ nghĩa Phát xít có vẻ thích kết bạn với người khác, nhằm các mục đích khác ngoài thảo luận các hoạt động chính trị hơi hữu khuynh. Lối này.” Anh ta vén một tấm rèm nhưng màu xanh.
Căn phòng thứ hai có vẻ như dành cho nam giới thích phụ nữ. Họ ngồi xuống một chiếc bàn đan bằng liễu gai yếu ớt trong căn phòng sơn đen, đồ trang trí là các đèn lồng Trung Quốc, những lá cờ đuôi nheo bằng giấy và các đầu thú treo tường, cũng phủ bụi mờ như mấy lá cờ Phát xít đang treo trên trần nhà.
Paul trả lại cái mũ bằng vải bạt, anh ta bỏ tọt vào trong túi cùng những chiếc khác.
“Cảm ơn nhiều.”
Otto gật đầu, “Ôi dào, thế bạn bè để làm gì?” Anh ta đưa mắt tìm nam hoặc nữ bồi bàn.
“Tôi sẽ quay lại ngay,” Paul đứng dậy bước đến bồn rửa mặt. Gã gột sạch những vết dơ và máu trên mặt, dùng tinh dầu chải lại mái tóc đã trở nên ngắn hơn và sẫm màu hơn, tạo cho gã vẻ ngoài hơi khác so với người lũ Áo Nâu đang tìm. Vết thương trên má của gã đã bắt đầu lành nhưng xung quanh nó là vết bầm tím. Gã bước ra khỏi nhà vệ sinh, rồi lẻn vào hậu trường. Gã tìm thấy phòng thay đồ dành cho các nghệ sĩ trình diễn. Một người đàn ông ngồi ở một đầu phía xa, đang hút xì gà và đọc báo. Người này không chú ý gì khi Paul nhúng mấy ngón tay vào một lọ trang điểm. Quay lại nhà vệ sinh gã thoa lớp mỹ phẩm lên vết bầm. Gã vốn có kinh nghiệm với đồ trang điểm, tất cả các tay đấm bốc lành nghề đều hiểu tầm quan trọng khi che giấu những vết thương, không cho đối thủ nhìn thấy.
Quay lại bàn, gã thấy Otto đang ra hiệu với một nữ bồi bàn trẻ trung xinh đẹp có mái tóc đen. Nhưng cô ả hẵng còn bận với người đàn ông thở dài trong tức giận. Anh ta quay lại, nhìn Paul chăm chú. “Bây giờ, trông cậu khác biệt hoàn toàn với nơi này, vì cậu chẳng hiểu gì về “văn hóa” của chúng tôi hết. Tôi đang nói đến cái đài. Và về lũ áo nâu-thối-tha, những kẻ mà nếu cậu là người Đức, cậu sẽ không dại đối đầu với chúng. Nhưng ngoại ngữ của cậu tuyệt đấy. Những trọng tâm nhẹ nhất. Không phải là người Pháp, Slavơ hay người Tây Ban Nha. Cậu là loài nào thế?”
“Tôi biết ơn anh đã giúp tôi, Otto. Nhưng có vài chuyện tôi sẽ chỉ giữ kín cho mình.”
“Có gì đâu. Tôi đã quả quyết rằng cậu là người Mỹ hoặc người Anh. Có thể là lựa chọn thứ nhất. Tôi biết từ những bước di chuyển của cậu - những câu cậu nói ra… Phải rồi, cậu là người Mỹ. Còn ai nữa có thể bị cả lũ áo nâu-thối-tha ấy đuổi theo trừ một tay người Mỹ bạo gan chứ? Cậu đến từ xứ sở của những cao bồi anh hùng, những kẻ một mình cân tất cả một bộ lạc da đỏ. Nàng bồi bàn kia đi đâu rồi nhỉ?” Anh ta nhìn quanh, vuốt ve hàng ria mép. “Giờ thì giới thiệu đi. Tôi đang tự giới thiệu mình với cậu đây. Otto Wilhelm Friedrich Georg Webber. Và cậu là?… Nhưng có lẽ cậu muốn giữ lại cái tên cho riêng mình.”
“Tôi nghĩ như thế thông minh hơn.”
Webber cười khúc khích. “Vậy là cậu hạ gục ba thằng trong bọn chúng, để rồi bị bọn Áo Nâu lẫn bọn khốn kia yêu mến nhất mực à?”
“Bọn khốn nào cơ?”
“Đội thanh niên Hitler. Những thằng nhóc đang do thám lẩn trong hàng ngũ của lính Xung Kích.” Webber dò xét những vết bầm đỏ của Paul. “Có lẽ cậu thích những trận quyền anh lắm phải không, Ngài Vô Danh? Trông cậu như vận động viên. Tôi có thể kiếm cho cậu vé vào xem Thế vận hội. Chẳng còn vé nữa, cậu biết đấy. Nhưng tôi có thể kiếm được. Ghế ngồi vào ban ngày, chỗ ngồi đẹp.”
“Không, cảm ơn.”
“Hoặc tôi có thể đưa được cậu vào một trong các đoàn Olympic. Max Schmeling sẽ cần vài người đấy.”
“Schmeling?” Paul nhướn mày. Gã vốn ngưỡng mộ tay vô địch quyền anh hạng nặng thành công nhất. Mới tháng trước gã đã từng đến Sân vận động Yankee không có mái che dự khán trận so găng giữa Schmeling với Joe Louis. Trước sự kinh ngạc của tất cả mọi người, Schmeling hạ nốc ao Kẻ Dội Bom Da Nâu trong hiệp thứ mười hai. Buổi tối ấy làm Paul mất 608 đô la, gồm 8 đô cho vé và 600 đô vì thua cược.
Webber nói tiếp. “Ông ta sẽ đến cùng vợ. Bà ấy đẹp lắm. Anny Ondra. Một nữ diễn viên, cậu biết đấy. Cậu sẽ có một buổi tối đáng nhớ. Đắt cắt cổ nhưng tôi có thể thu xếp được. Cậu cần một áo vest cho bữa tối, dĩ nhiên rồi. Tôi cũng có thể cung cấp được. Với một mức phí nhỏ.”
“Tôi sẽ qua.”
“Ôi chà,” Webber thì thầm, như thể Paul đã phạm phải một sai lầm trong đời mình.
Ả hầu bàn dừng lại ở bàn của họ và đứng gần Paul, mỉm cười với gã. “Tên tôi là Liesl. Tên anh là gì?”
“Hermann,” Paul đáp.
“Anh muốn dùng gì?”
“Bia cho cả hai chúng tôi. Một cốc Pschorr cho tôi.”
“Chà,” Webber nói, chế nhạo trước lựa chọn này. “Bia nhẹ Berlin cho tôi. Lên men dưới đáy. Cốc lớn.” Khi liếc nhìn anh ta, ánh mắt ả lạnh băng như thể anh ta gần đây nợ tiền bia của ả.
Liesl nhìn thẳng vào mắt Paul một hồi lâu, mĩm nụ cười gợi tình rồi bước sang bàn khác.
“Cậu có người hâm mộ rồi đấy, ‘Ngài Không Phải Tên Hermann’. Xinh, đúng không?”
“Rất xinh.”
Webber nháy mắt. “Nếu cậu ưng, tôi có thể…”
“Không,” Paul nói chắc nịch.
Webber nhướn một bên mày, hướng sự chú ý lên sân khấu, nơi một phụ nữ ngực trần đang xoay tròn. Cô ta mang hai miếng dán ngực lỏng và đôi cánh tay yếu mềm. Từ khoảng cách xa, Paul cũng thấy những nếp nhăn quanh miệng cô ta. Cái miệng luôn nở nụ cười xấu xí khi cô ta nhún nhảy theo âm thanh lạo xạo phát ra từ chiếc máy hát.
“Bây giờ ở đây vào buổi chiều không có nhạc sống nữa,” Webber giải thích. “Nhưng vào đêm có mấy ban nhạc chơi hay lắm. Chơi kèn đồng… tôi yêu kèn đồng. Tôi có mấy đĩa thường nghe trên máy hát. Tay chỉ huy dàn nhạc vĩ đại nước Anh, John Philip Sousa.”
“Xin lỗi nhắc nhở anh: Ông ta là người Mỹ.”
“Không!”
“Đúng đấy.”
“Nước Mỹ đúng là đất nước của âm nhạc. Họ có những rạp phim tuyệt vời và hàng triệu chiếc xe ô tô, tôi nghe nói vậy. Và giờ tôi còn biết rằng họ có cả John Philip Sousa nữa.”
Paul nhìn ả bồi bàn đến gần, cặp hông mảnh khảnh hết lắc sang trái rồi sang phải. Liesl đặt hai cốc bia xuống. Có vẻ ả mới xịt nước hoa vài phút khi đi ra ngoài. Ả mỉm cười với Paul, gã cười toét đáp lại rồi liếc nhìn hóa đơn. Không quen lắm với tiền tệ Đức và không mong muốn thu hút sự chú ý khi lục tìm mớ tiền xu, gã trao cho ả một tờ 5 mác, gã đoán khoảng hai đô la, bốn đồng.
Liesl lấy mấy đồng tiền lẻ làm tiền boa, cảm ơn gã rối rít, nắm chặt tay gã bằng cả hai tay. Gã sợ rằng ả sẽ hôn mình. Gã không biết làm sao đề nghị ả trả lại tiền thừa, rồi quyết định chịu mất xem như một bài học về văn hóa Đức. Thêm một ánh mắt ngưỡng mộ nữa, Liesl rời bàn, nét rầu rĩ vẫn hiện rõ trên gương mặt khi phải đợi chờ các bàn khác. Webber chạm cốc của anh ta vào cốc của Paul, cả hai cùng uống cạn.
Webber dò xét Paul chăm chú rồi nói, “Vậy là cậu ủng hộ phe chống đối nào?”
“Phe chống đối?”
“Khi trông thấy cậu lần đầu trong ngõ, với khẩu súng đó, tôi đã nghĩ: Chà, cậu ta không thuộc phe Soci hoặc Kosi…”
“Gì cơ?”
“Soci - Đảng viên Đảng Dân chủ Xã hội. Đã từng là một đảng phái chính trị lớn cho đến khi bị cấm. Kosi là những Đảng viên Đảng Cộng sản. Họ không chỉ bị cấm không thôi, mà chết hẳn rồi. Không, tôi biết cậu không phải là kẻ kích động quần chúng. Cậu là một trong số chúng tôi, người ủng hộ phe chống đối, một nghệ sĩ-của-những-thương-vụ-đen-tối.” Anh ta liếc nhìn quanh phòng. “Yên tâm. Miễn là chúng ta giữ im lặng, thì có thể an toàn nói chuyện. Không có micro ở đây. Không có Đảng viên nào trung thành ở đây, trong những bức tường này thì không. Rốt cuộc, cái ấy của lũ đàn ông luôn đáng tin cậy hơn lương tâm của hắn. Và những kẻ theo Chủ nghĩa Phát xít còn chẳng có lương tâm để mà bắt đầu.” Webber vẫn khăng khăng. “Vậy là phe chống đối nào?”
“Tôi không làm cho phe chống đối nào cả. Tôi đến đây vì Thế vận hội.”
“Vậy sao?” Anh ta nháy mắt. “Chắc phải có sự kiện mới nào trong năm nay mà tôi chưa nghe nói.”
“Tôi là người viết bài về thể thao.”
“Ái chà, một người viết báo… và cũng là người chiến đấu với bọn Áo Nâu, giữ lại cái tên cho riêng mình, đi dạo khắp nơi với một khẩu ống xì thổi hạt đậu hiệu Luger, thay quần áo để tránh những kẻ truy đuổi. Chải mượt lại mái tóc và che đi những vết thương.” Webber vỗ vào má mình và mỉm cười ra chiều hiểu biết.
“Tôi tình cờ chạm trán mấy tên Xung Kích đang tấn công một cặp vợ chồng. Tôi ngăn chúng lại. Còn về khẩu Luger, nó là một trong mấy khẩu của chúng. Tôi thó được mà.”
“Phải, phải, cậu nói rồi… Cậu có biết AI Capone không?”
“Dĩ nhiên là không,” Paul đáp vẻ cáu tiết.
Webber thở dài thành tiếng, thất vọng. “Tôi theo dõi hình sự của Mỹ. Nhiều người trong chúng tôi theo dõi, ở đây tại nước Đức này. Chúng tôi luôn luôn đọc các thông tin kích động về tội ác - các tiểu thuyết, cậu hiểu không? Nhiều tội ác diễn ra tại Mỹ. Tôi có theo dõi với sự quan tâm rất lớn đến số phận của John Dillinger. Hắn ta bị một người phụ nữ mặc váy đỏ phản bội và bắn chết trong một con ngõ, sau khi họ đi xem phim về. Tôi nghĩ cũng là điều tốt khi hắn ta xem phim trước khi chúng giết hắn ta. Hắn ta chết với niềm vui nho nhỏ trong tim. Cho dù hẳn sẽ tốt hon nhiều nếu hắn xem phim, uống say, vui vẻ với cô ả kia xong rồi mới bị bắn chết. Đó sẽ là một cái chết hoàn hảo. Phải, tôi nghĩ vậy, bất chấp cậu có nói gì, cậu là một kẻ cướp thực sự, Quý ngài John Dillinger. Liesl! Liesl Xinh đẹp! Thêm bia đê! Bạn tôi gọi thêm hai chầu nè.”
Cốc bia của Webber đã cạn trơ đáy, cốc của Paul còn khoảng ba phần tư. Gã gọi Liesl, “Tôi không uống nữa đâu. Cho anh ta thôi.”
Khi biến mất ở quầy bar, ả lại ném sang Paul ánh mắt ngưỡng mộ lần thứ hai, đôi mắt ngời sáng, dáng người mảnh mai gợi gã nhớ đến Marion. Gã tự hỏi giờ cô ấy thế nào, cô ấy đang làm gì vào lúc này, ở Mỹ bây giờ chắc khoảng 6 hoặc 7 giờ. Hãy gọi cho em, cô ấy đã nói thế trong lần nói chuyện cuối cùng, nghĩ rằng gã đến Detroit làm ăn. Paul biết rằng thực sự có thể gọi một cuộc xuyên Đại Tây Dương, nhưng giá thì 50 đô la một phút. Thêm nữa, chẳng có tên sát thủ chuyên nghiệp nào lại thòi ra một bằng chứng như thế cho những kẻ theo dõi.
Gã liếc nhìn những tên Phát xít trong đám khán giả: một số tên SS, hoặc những tên lính mặc đồng phục xám hoặc đen sạch không tì vết cùng một số thương nhân. Hầu hết đều ngà ngà say, vài tên đang ngật ngà ngật ngưỡng do các cuộc nhậu bí tỉ lúc chiều. Tât cả đều mỉm cười vui sướng, nhưng có vẻ chán nản khi xem một màn sex chẳng gợi dục chút nào.
Khi ả bồi bàn quay lại, thực sự cô ả mang ra hai cốc. Ả đặt một côc trước mặt Webber, anh chàng vẫn bị làm ngơ. Rồi ả nói với Paul, “Anh có thể thanh toán cho cốc bia của bạn, nhưng cốc của anh là món quà em tặng anh.” Ả cầm tay anh đặt vào tay cầm cốc bia. “25 xu.”
“Cảm ơn cô,” gã nói, tự nhủ rằng, có lẽ những đồng mác thừa từ đồng 5 đô la đã mang lại cho gã cốc bia này. Lần này gã trả cho ả tận một mác.
Ả run lên vì sung sướng như thể vừa được tặng một chiếc nhẫn hột xoàn. Liesl hôn lên trán gã. “Hãy thưởng thức đi nhé.” Rồi lại bỏ đi.
“Ôi trời, cậu được khấu hao sướng thật. Phần tôi thì phải trả năm mươi đấy. Dĩ nhiên, hầu hết những người nước ngoài đều trả 1 mác 75 xu.”
Webber uống cạn cốc bia thứ ba. Anh ta đưa mu bàn tay lau vết bia trên ria mép, rút ra một bao xì gà. “Loại mạt hạng, nhưng tôi lại thích chúng hơn.” Anh ta chìa bao xì gà sang cho Paul, gã lắc đầu. “Lá cải bắp nhúng vào nước thuốc lá và nicotin. Thời buổi này khó kiếm được xì gà xịn lắm.”
“Anh nhập mặt hàng gì thế?” Paul hỏi. “Ngoài rượu ra.”
Webber phá lên cười, ném sang Paul cái nhìn xấu hổ. Anh ta hít vào làn khói cay xè, rồi trầm tư đáp, “Lắm thứ lắm. Phần lớn việc tôi làm đó là mua và bán những món hiếm có khó tìm. Hàng hóa quân sự gần đây mới có nhu cầu. Dĩ nhiên không phải vũ khí rồi. Mà là phù hiệu, bi đông, dây đai, ủng, đồng phục. Ai ở đây cũng yêu thích đồng phục. Khi những người chồng đi làm, các bà vợ đi ra ngoài và mua cho mình những bộ đồng phục, ngay cả khi họ chẳng có cấp bậc hay tư cách gì. Trẻ con cũng mặc chúng. Kể cả đứa còn ẵm ngửa! Các huân chương, vạch trên huy chương, băng đô, cầu vai, phù hiệu cổ áo. Rồi tôi bán chúng cho chính phủ, cho những người lính đích thực của chúng ta nữa. Chúng ta lại có chế độ cưỡng bức tòng quân. Quân số của chúng ta đang tăng lên. Họ cần những bộ quân phục, vải vóc mà họ khó kiếm được. Tôi có nhiều người cung cấp đồng phục cho tôi, sau đó tôi đổi cho họ cái gì đó rồi bán cho quân đội.”
“Anh ăn cắp chúng từ một nguồn của chính phủ này, rồi bán lại cho nguồn kia.”
“Ôi dào, Ngài John Dillinger ơi, ngài rất vui tính đấy.” Anh ta nhìn khắp phòng. “Đợi một chút… Hans, đến đây. Hans!”
Một người mặc đồ tuxedo* xuất hiện. Anh ta nhìn Paul vẻ nghi ngờ nhưng Webber bảo đảm rằng họ là bạn rồi nói, “Tôi sắp xoay được một ít bơ. Anh có thích không?”
“Bao nhiêu?”
“Bơ bao nhiêu hay là giá bao nhiêu?”
“Tất nhiên là cả hai.”
“10 ký. 75 mác.”
“Nếu như lần trước, ý anh là anh có 6 ký bơ trộn với 4 ký dầu hỏa, mỡ lợn, nước và thuốc nhuộm vàng. Cái giá này cho 6 ký bơ là quá chát đấy.”
“Vậy thì mua cho tôi 2 thùng sâm panh Pháp đi.”
“1 thùng thôi.”
“1 thùng 10 ký được không?” Webber có vẻ cáu bẳn.
“6 ký, như tôi đã giải thích rồi.”
“18 chai.”
Với cái nhún vai không đồng ý, tay quản lý nói. “Thêm thuốc nhuộm và tôi sẽ đồng ý. Tháng trước, một tá khách hàng quen đã từ chối ăn bơ trắng của anh. Ai trách họ được chứ?”
Sau khi anh ta bỏ đi, Paul uống hết bia rồi lấy một điếu Chesterfield ra khỏi bao. Một lần nữa, gã lấy thuốc dưới gầm bàn để không ai thấy nhãn hiệu Mỹ. Phải mất đến bốn lần quẹt diêm gã mới châm được thuốc, những que diêm rẻ tiền của Câu lạc bộ gãy liên tục.
Webber hất đầu về phía chúng. “Tôi không buôn những thứ ấy, mà là của bạn tôi. Đừng trách tôi.”
Paul hít một hơi dài điếu Chesterfield rồi hỏi, “Tại sao anh giúp tôi, Otto?”
“Dĩ nhiên vì cậu cần mà.”
“Làm việc tốt đúng không?” Paul nhướn một bên mày.
Webber vuốt ve ria mép. “Được rồi, thành thật với nhau nhé. Vào những ngày này, người ta phải nhìn sâu vào những cơ hội, hơn là nhìn vào quá khứ.”
“Và tôi là một cơ hội.”
“Ai biết được, Ngài John Dillinger? Có lẽ là có, có thể là không. Nếu không, vậy thì tôi chẳng mất gì ngoài 1 giờ uống bia với một người bạn mới mà chẳng tốn đồng nào cả. Nếu đúng, vậy thì có lẽ cả hai chúng ta cùng có lời.” Anh ta đứng dậy, bước đến ô cửa sổ nhìn ra ngoài qua bức rèm dày. “Tôi nghĩ đến lúc an toàn để cậu đi rồi… Dù cậu có đang làm gì trong thành phố sôi nổi của chúng ta, có thể tôi chính là người dành cho cậu. Tôi biết nhiêu người ở đây, những người giữ những vị trí quan trọng - không, không phải những kẻ ở cấp cao đâu. Ý tôi là những người tốt nhất cần phải biết trong đường dây làm ăn của chúng tôi.”
“Những ai thế?”
“Những con người bé nhỏ, có địa vị. Cậu đã từng nghe một truyện cười, rằng thành phố tại Bavaria đã thay thế viên dự báo thời tiết bằng một viên chức không? Tại sao? Vì các viên chức họ biết rõ hơn bất kỳ ai gió đang thổi hướng nào. Ha ha ha!” Anh ta cười khó nghe. Rồi khuôn mặt lại mang vẻ nghiêm trang và tu hết cốc bia. “Nói thật, tôi đang chết dấp ở đây. Chết vì chán. Tôi nhớ những ngày xưa cũ. Nên hãy để lại một tin nhắn hoặc đến gặp tôi. Tôi thường xuyên ở đây. Trong phòng này hoặc ở quầy bar.” Anh ta viết địa chỉ lên một tờ khăn giấy, rồi đẩy nó về phía trước.
Liếc nhìn mảnh giấy vuông vắn, Paul ghi nhớ địa chỉ rồi đẩy trở lại.
Webber nhìn gã. “Cậu đúng là một người viết bài thể thao hiểu biết, đúng không?”
Họ cùng bước ra cửa. Paul bắt tay anh ta. “Cảm ơn anh, Otto.”
Ra ngoài rồi, Webber nói, “Giờ thì tạm biệt, bạn tôi. Hy vọng được gặp lại cậu.” Rồi anh ta cau có. “Còn về phần tôi? Một đề nghị về thuốc nhuộm vàng. Ôi chà, cuộc đời tôi sẽ trở thành đúng như thế đấy. Mỡ lợn và thuốc nhuộm vàng.”
tuxedo: Một loại trang phục cho nam giới, với mẫu màu đen truyền thống, được mặc trong các dịp đặc biệt