CHƯƠNG 9
Reinhard Ernst, ngồi trong văn phòng rộng rãi của hắn tại Phủ Thủ tướng, một lần nữa xem qua những chữ được viết nguệch ngoạc trên tờ giấy.
Đại tá Ernst:
Ta mong chờ báo cáo của cậu rằng cậu đã đồng ý chuẩn bị Nghiên cứu Waltham. Ta sẽ dành thời gian xem nó vào hôm Thứ Hai.
Adolf Hitler
Hắn tháo gọng kính dây ra, lau sạch rồi đeo lên. Hắn tự hỏi dòng chữ xấu xí này hé lộ điều gì về người viết. Chữ ký cực kỳ đặc biệt. Chữ “Adolf” như một tia chớp hằn xuống, chữ “Hitler” có phần dễ đọc nhưng dốc xuống dưới và lạng sang phải, rất xấu và đáng ngờ.
Ernst xoay ghế, nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ. Hắn cảm thấy mình giống một tư lệnh quân đội biết rằng kẻ thù đang tới gần, chuẩn bị tấn công, nhưng không biết khi nào mình sẽ bị tấn công, những chiến thuật của mình sẽ là gì, lực lượng của mình mạnh đến đâu và hắn sẽ thiết lập những phòng tuyến tấn công ở nơi nào, vị trí nào sẽ tiến hành tấn công thọc sườn.
Cũng nhận thức được rằng cuộc chiến này sẽ mang tính quyết định, rằng số phận quân đội của hắn - thực sự là số phận của cả quốc gia - đang lâm nguy.
Hắn không phóng đại sự nghiêm trọng của thế tiến thoái lưỡng nan này. Vì Ernst đã biết một vấn đề ở Đức mà vài người khác chỉ cảm nhận được, hoặc hắn sẽ thừa nhận: Rằng Hitler sẽ không còn nắm quyền được lâu nữa.
Những kẻ thù của Lãnh tụ, cả trong và ngoài nước, là vô số. Y là Caesar, là Macbeth và cũng là Richard. Khi sự giận dữ của y bộc lộ ra, y sẽ bị hất cẳng, bị giết hoặc thậm chí chết trong chính tay mình (những cơn thịnh nộ của y thất thường đến ngạc nhiên), và những kẻ khác sẽ chìm trong sự vô nghĩa mênh mông đến sau cái chết của y. Và cả Göring cũng vậy, sự tham lam của cả linh hồn và thể xác hắn sẽ là bước chân dẫn hắn xuống địa ngục. Với việc hai Lãnh tụ cùng biến mất (còn Goebbels đang héo hon khi đánh mất đi tình yêu của lão, Hitler), Chủ nghĩa Phát xít sẽ chết dần. Và một chính khách Phổ theo đường lối ôn hòa sẽ xuất hiện - một tên Bismarck mới, có lẽ là hống hách, nhưng là một chính khách biết điều và tuyệt vời.
Và Ernst thậm chí có thể góp sức vào sự chuyển biến đó. Vì ngoài đạn và bom, mối đe dọa duy nhất đối với Adolf Hitler, và Đảng chính là quân đội Đức.
Tháng 06 năm 1934, Hitler cùng Göring đã giết hại hoặc bắt bớ khá nhiều lãnh đạo lực lượng Xung Kích trong một thời kỳ được gọi tên là Tuần Lễ Thảm Sát. Cuộc thanh trừng được cho là tất yếu, phần lớn nhằm mục đích dỗ dành quân đội chính quy, đã khiến lực lượng dân quân Áo Nâu đông đảo ghen tị. Hitler đã đánh giá một bên là lũ sát nhân và một bên là quân đội Đức - những người kế thừa trực tiếp các đạo quân lớn của gia đình hoàng tộc thống trị nước Phổ từ thế kỷ thứ XIX - và y không mất một giây nào để chọn bên. Sau khi Tổng thống Hindenburg qua đời được hai tháng, Hitler đã tiến thêm hai bước nhằm củng cố vị thế của mình. Thứ nhất, y tự tuyên bố rằng mình là Lãnh tụ toàn quyền của quốc gia. Thứ hai - còn quan trọng hơn nhiều - y yêu cầu các lực lượng vũ trang của Đức cam kết tuyên thệ cá nhân trung thành với y.
Sử gia De Tocqueville đã cho rằng sẽ chẳng bao giờ có cuộc cách mạng tại Đức, vì cảnh sát sẽ không cho phép điều đó. Không, Hitler không quan tâm đến một cuộc nổi dậy đặc biệt, mối lo sợ duy nhất của y đó là quân đội.
Và đó là một đội quân được khai sáng mà Ernst đã dâng hiến cả cuộc đời hắn, kể từ Thế Chiến thứ I. Một đội quân sẽ bảo vệ nước Đức và các công dân của nó khỏi tất cả những mối đe dọa, về cơ bản, có lẽ là bảo vệ nó khỏi chính Hitler.
Thế nhưng hắn tự nhủ, Hitler vẫn chưa mất hết quyền lực và Ernst không thể cho phép mình không thèm chú ý đến tác giả mảnh giấy này. Mảnh giấy đang gây rắc rối cho hắn như tiếng ầm ầm xa xa của chiếc xe bọc thép đang đến gần xuyên màn đêm.
Đại tá Ernst: Ta đợi chờ báo cáo…
Hắn đã hy vọng rằng cái trò chọc phá ngầm Göring khởi xướng rồi sẽ phai nhạt. Nhưng mảnh giấy pơ luya này cho thấy điều ngược lại. Hắn đã hiểu rằng mình phải hành động thật nhanh để chuẩn bị và đẩy lùi cuộc tấn công.
Sau một lúc lưỡng lự khó khăn, viên đại tá đã hạ quyết tâm. Hắn bỏ tọt lá thư vào túi, đứng dậy khỏi bàn rồi rời khỏi văn phòng. Hắn dặn thư ký rằng mình sẽ quay lại trong vòng nửa tiếng.
Đi xuống một sảnh, rồi một sảnh nữa, bước qua công trình xây dựng đâu đâu cũng thấy trong tòa nhà cũ kỹ, đầy bụi. Các công nhân thậm chí bận rộn cả vào ngày cuối tuần, có mặt ở khắp nơi. Tòa nhà là phép ẩn dụ cho một nước Đức mới - một quốc gia đang vươn mình trỗi dậy từ đống tro tàn của Versailles, đang được tái thiết theo triết lý thường xuyên được nhắc lại, đó là “nâng cấp” mỗi công dân, mỗi thể chế trong nước cho tương xứng với Chủ nghĩa Phát xít.
Xuống một tiền sảnh khác, dưới bức chân dung nghiêm nghị của Lãnh tụ nghiêng ba phần tư, đang hơi nhìn lên trên như thể ngắm nhìn hình ảnh đất nước của y.
Ernst bước ra ngoài đón cơn gió khô nóng dưới mặt trời buổi chiều bỏng rát.
“Chào Đại tá.”
Ernst gật đầu với hai tên bảo vệ được vũ trang hai khẩu Mauser nòng gắn lưỡi lê. Hắn thấy vui khi họ chào hắn. Theo quy tắc thông thường, bất kỳ ai làm việc gần hàng ngũ nội các sẽ được gọi bằng chức danh đầy đủ. Tuy nhiên “Ngài Đại Diện Toàn Quyền” là một chức danh dài dòng đến nực cưòi.
Xuống phố Wilhelm, qua phố Voss rồi phố Prince Albrecht, liếc mắt sang bên phải - Trụ sở Gestapo số 8 trong một khách sạn cũ và một trường dạy nghề thủ công. Tiếp tục đi về phía Nam tới quán cà phê quen thuộc, hắn gọi một tách cà phê. Hắn chỉ ngồi đó một lúc rồi đi xuống một quầy điện thoại. Hắn gọi một số, bỏ vài xu vào khe và được nối máy.
Giọng một phụ nữ trả lời hắn. “Chúc một ngày tốt lành.”
“Xin hỏi có phải Dame Keitel không?”
“Không, thưa ngài. Tôi là quản gia.”
“Giáo sư, tiến sĩ Keitel có nhà không? Reinhard Ernst đây.”
“Xin đợi một lát.”
Một lúc sau, giọng mềm mại của một người đàn ông vang lên trên đường dây. “Chúc một ngày tốt lành, Đại tá. Dù là một ngày nóng.”
“Đúng vậy, Ludwig… Chúng ta cần gặp nhau. Hôm nay. Có vấn đề khẩn cấp về nghiên cứu. Ông có thể sẵn sàng được không?”
“Khẩn cấp à?”
“Cực kỳ khẩn cấp. Ông đến văn phòng tôi được không? Tôi dang chờ trả lời về vài vấn đề từ phía Anh. Tôi phải về đây. Bốn giờ chiều tiện cho ông không?”
“Vâng, dĩ nhiên rồi.”
Họ gác máy, Ernst quay về văn phòng.
Tới quầy điện thoại không bị bọn thuộc hạ Göring nghe lén là điều đơn giản, một trong những phương pháp buồn cười hắn cần để giải quyết vấn đề. Mày đã chứng kiến cuộc chiến từ bên trong và từ bên ngoài, hắn nghĩ. Chiến trường thật khủng khiếp, đúng, khủng khiếp đến không thể tưởng tượng nổi. Nhưng khi so sánh với một cuộc đánh lộn khi các kẻ thù ở bên cạnh, chứ không phải đối mặt với bạn, cuộc chiến này còn thuần khiết hơn, trong sạch hơn và thậm chí siêu nhiên hơn nhiều.
Trong chuyến đi 15 phút từ khu thương mại Berlin đến làng Thế vận hội, dọc theo một xa lộ rộng, mềm mại đến hoàn hảo, tay tài xế taxi vui vẻ huýt sáo, kể cho Paul Schumann nghe rằng anh ta đang mong có nhiều cuốc xe trả hậu thế này trong kỳ Thế vận hội.
Anh ta bỗng nhiên im bặt khi tiếng nhạc cổ điển buồn tẻ nào đó phát ra từ radio, mỗi chiếc xe Opel được trang bị hai cái đài: một để điều phối tài xế và một phát các bài tuyên truyền. “Beethoven,” tài xế nhận xét. “Nó thay thế tất cả các đài phát thanh chính thức. Chúng ta sẽ lắng nghe.” Một lúc sau, tiếng nhạc bé dần và một giọng khàn, truyền cảm bắt đầu nói.
“Ngay từ đầu, một điều không thể chấp nhận được đó là xem câu hỏi về bệnh nhiễm trùng là phù phiếm. Mà phải hiểu rằng sức khỏe tốt sẽ phụ thuộc vào việc tìm ra cách điều trị không phải chỉ các triệu chứng của bệnh, mà còn là nguồn gốc căn bệnh nữa. Hãy nhìn những vũng nước ô nhiễm của một ao tù, một nơi sinh sôi nảy nở các vi sinh vật. Nhưng một con sông chảy xiết mang lại khí hậu không có lợi cho chúng. Chiến dịch của chúng ta là sẽ tiếp tục định vị, tát cạn những ao tù này, qua đó hủy diệt môi trường sinh trưởng của vi sinh vật, ruồi và muỗi. Hơn thế nữa…”
Paul nghe một lúc lâu nữa, tuy nhiên những lần nhắc lại lan man làm gã phát chán. Gã vặn nhỏ cái âm thanh vô nghĩa này, ngắm nhìn khung cảnh chìm đắm trong ánh mặt trời, những quán trọ khi vùng ngoại ô xinh đẹp phía Tây thành phố nhường chỗ cho các khu thưa dân hơn. Tài xế rẽ khỏi Xa lộ Hamburg, tấp vào bên ngoài lối đi chính của làng Thế vận hội. Paul thanh toán, tay tài xế nhướn một bên mày cảm ơn gã nhưng không nói gì, vẫn chú tâm lắng nghe những câu nói phát ra từ radio. Gã định bảo tài xế đợi mình, nhưng gã quyết định sẽ thông minh hơn khi tìm người khác đưa gã quay về thành phố.
Ngôi làng nóng nực dưới ánh mặt trời chiều. Cơn gió có mùi mặn mòi như gió đại dương, nhưng khô như phèn và có mang theo hạt mịn. Paul trình thẻ ra vào rồi tiếp tục đi xuống vỉa hè được lát gạch hoàn mỹ, đi qua những hàng cây hẹp cách nhau rất vừa phải mọc thẳng lên từ các bề mặt tròn của lớp phủ cây trồng trong đám cỏ xanh đẹp hoàn hảo. Cờ Đức bay phần phật trong cơn gió nóng: màu đỏ, trắng và đen.
Ái chà, anh biết rồi còn hỏi…
Tại các phòng ngủ tập thể của đoàn Mỹ, gã đi vòng qua khu tiếp tân có một tên lính Đức đang đứng, lẻn vào phòng mình qua cửa sau. Gã thay quần áo, vùi chiếc áo khoác xanh vào cái rổ đựng đầy quần áo bẩn, chẳng có cống rãnh nào tiện lợi quanh đây.
Gã mặc lên người chiếc áo thun quần vợt bằng vải flannel màu kem và áo len dài tay đan xoắn sáng màu. Gã chải tóc theo kiểu khác - ngả về một bên. Lớp trang điểm đã phai hết, nhưng lúc này gã chẳng thể làm gì được nữa. Khi bước ra ngoài cùng chiếc va li và ba lô, gã nghe thấy một giọng gọi mình.
“Chào, Paul.”
Ngước mắt lên, gã thấy Jesse Owens, mặc quần áo thể hình đang quay về phòng ngủ tập thể. Owens hỏi, “Anh đang làm gì thế?”
“Đang muốn vào thành phố. Làm mấy việc.”
“Không, Paul. Chúng tôi đang hy vọng anh ở lại. Anh đã bỏ lỡ một buổi lễ tuyệt vời đêm qua. Anh phải xem đồ ăn họ bày ra đấy. Tuyệt phẩm.”
“Tôi biết lễ lớn lắm nhưng phải bỏ thôi. Tôi đang làm vài cuộc phỏng vấn trong thành phố.”
Owens bước đến gần hơn, hất đầu về phía vết xước, vết bầm trên mặt Paul. Đôi mắt sắc sảo của tay vận động viên điền kinh nhìn xuống những khớp tay của gã, bị trầy và đỏ rực do trận đánh nhau.
“Hy vọng các cuộc phỏng vấn còn lại của anh sẽ tốt đẹp hơn cuộc phỏng vấn sáng nay. Có vẻ làm người viết tin bài thể thao tại Berlin nguy hiểm phết.”
“Tôi bôi thuốc rồi. Không có gì nghiêm trọng đâu.”
“Có thể với anh thì thế,” Owen đáp đầy thích thú. “Thế còn thằng cha bị anh cho đo ván thì sao?”
Paul không thể ngăn mình mỉm cười. Tay vận động viên điền kinh chỉ là một đứa nhóc. Nhưng có điều gì đó từng trải ở cậu ta. Có thể việc lớn lên là một người da đen ở miền Nam và vùng Midwest khiến bạn trưởng thành sớm. Cũng tương tự như việc ép mình trải qua hết năm học trong thời gian chịu đựng Đại Suy Thoái.
Như việc vô tình dấn thân vào công việc của riêng gã làm Paul thay đổi. Làm gã thay đổi thật nhanh.
“Chính xác thì anh đang làm gì ở đây thế, Paul?” tay vận động viên điền kinh thì thầm.
“Chỉ làm việc của tôi thôi,” gã chậm rãi đáp. “Chỉ đang làm việc của tôi thôi. À này, còn thông tin về Stoller và Glickman sao rồi? Hy vọng họ không bị loại.”
“Không, họ vẫn nằm trong kế hoạch,” Owens nhíu mày đáp, “tuy nhiên những lời đồn đại nghe chẳng tốt lành gì.”
“Hi vọng may mắn đến với họ. Cả cho cậu nữa, Jesse. Mang về nhà huy chương vàng.”
“Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức. Gặp lại anh sau nhé?”
“Có thể.”
Paul bắt tay cậu ta rồi đi đến lối ra khỏi làng, nơi một hàng taxi đang đỗ.
“Chào, Paul.”
Gã quay lại thấy người đàn ông béo nhất thế giới đang chào gã, trên mặt anh ta nở nụ cười rộng ngoác.
Cuộc thẩm vấn những người bán hàng, người ngồi trên ghế dài dọc phố Rosenthaler chẳng mang lại kết quả gì (cho dù Janssen khẳng định rằng mình học được mấy câu chửi thề mới, khi một người bán hoa phát hiện ra cậu đang quấy rối mụ ta, không phải để mua hoa mà là thẩm vấn). Đã có một vụ bắn súng cách không quá xa. Kohl có biết, nhưng đó là vấn đề của SS - có lẽ là “vấn đề an ninh nhỏ” thận trọng đáng ghen tị của chúng - và sẽ không ai trong số đám lính ưu tú này hé răng nói gì với Cảnh sát.
Tuy nhiên, khi hai người quay về trụ sở, họ phát hiện ra đã có điều kỳ diệu. Những bức ảnh chụp nạn nhân cùng các dấu vân tay từ ngõ Dresden đã có trên mặt bàn của Willi Kohl.
“Nhìn đây này, Janssen,” Kohl nói, chỉ tay vào các bức ảnh bóng loáng, được sắp xếp cẩn thận trong một túi hồ sơ.
Ông ngồi xuống cái bàn sứt sẹo trong văn phòng mình tại tòa nhà Alex, tòa nhà Cảnh sát cổ xưa, rộng lớn bị nhại theo tên của khách sạn bao quanh và quảng trường nhộn nhịp nơi tòa nhà được xây: Alexander Plaza. Có vẻ toàn bộ các công trình nhà nước đều được tân trang lại, ngoại trừ tòa nhà này. Cảnh sát hình sự đã làm việc bên trong tòa nhà bẩn thỉu ấy suốt mấy năm nay. Tuy nhiên, Kohl không bận tâm đến chuyện đó. Vì tòa nhà nằm cách khá xa phố Wilhelm, ít nhất trao cho cảnh sát một chút quyền tự trị thực tế, cho dù giờ đây về mặt hành chính điều này không tồn tại nữa.
Kohl cũng may mắn có được văn phòng riêng, một căn phòng rộng 4 X 6m gồm một bàn làm việc, một bàn nước và ba cái ghế. Trên mặt bàn bằng gỗ sồi là hàng nghìn tờ giấy, một gạt tàn, một giá để tẩu thuốc và mười hai bức ảnh viền khung của vợ con và bố mẹ ông.
Ông vươn người về phía trước trên chiếc ghế gỗ kêu cót két, xem xét các bức ảnh hiện trường tội phạm và các bức ảnh chụp dấu vân tay. “Đúng là cậu có tài đấy, Janssen. Mấy bức này chụp đẹp lắm.”
“Cảm ơn sếp.” Cậu thanh niên nhìn xuống mấy tấm ảnh, gật đầu.
Kohl quan tâm chặt chẽ đến cậu ta. Bản thân ông thanh tra thăng tiến qua các cấp bậc cảnh sát theo cách truyền thống. Là con trai một nông dân Phổ, những cuốn truyện trẻ em về thành phố Berlin và nghề cảnh sát đọc khi trưởng thành đã cuốn hút chàng trai Willi trẻ trung. Khi mười tám tuổi, ông đến thành phố và nhận công việc của một sĩ quan Cảnh sát Đô thị mặc thường phục. Ông trải qua khóa huấn luyện cơ bản tại Học viện Cảnh sát Berlin danh tiếng. Sau đó, ông được thăng chức hạ sĩ rồi trung sĩ, song song với đó là tốt nghiệp Đại học. Sau khi lấy vợ và có hai đứa con, ông đỗ vào Trường Sĩ quan của Học viện và gia nhập Lực lượng Cảnh sát Hình sự. Qua nhiều năm, ông từ một trợ lý thanh tra thành thanh tra cao cấp.
Ngược lại, chàng trai được đỡ đầu của ông lại đi trên con đường khác hẳn, con đường ngày nay đã trở nên phổ biến. Janssen tốt nghiệp một trường đại học nổi tiếng vài năm trước, vượt qua đợt thi xét năng lực về hệ thống luật pháp, sau khi theo học tại Học viện cảnh sát, cậu ta được nhận vào làm thanh tra học việc khi tuổi đời còn rất trẻ, trở thành phụ tá cho Kohl.
Thông thường rất khó loại một ứng viên. Janssen lại là người kín đáo, dè dặt. Cậu ta kết hôn với một cô nàng tóc đen, có thân hình rắn chắc đang mang thai đứa con thứ hai. Lần duy nhất Janssen tỏ ra nhiệt tình là khi cậu ta nói về gia đình mình, hoặc về niềm đam mê đi xe đạp và đi bộ đường dài. Đến khi tất cả cảnh sát phải làm thêm giờ vì Thế vận hội đang đến gần, các thanh tra chỉ làm việc có nửa ngày vào các ngày thứ Tư, Janssen sẽ thường vào nhà vệ sinh của sở Cảnh sát, mặc quần soóc đi bộ dài ngày, rồi lên đường cùng anh trai hoặc vợ.
Nhưng dù ông có bực mình chuyện gì đi nữa, thì cậu ta vẫn là một người thông minh, có tham vọng mà Kohl đã may mắn có được. Hơn vài năm qua, Cảnh sát Hình sự luôn bị chảy máu các sĩ quan có tài gia nhập Gestapo, với chế độ lương lậu và cơ hội tốt hơn nhiều. Khi Hitler lên nắm quyền, số lượng các thanh tra Cảnh sát trong nước là mười hai ngàn người. Bây giờ, con số ấy giảm xuống còn tám ngàn. Và trong số này, phần nhiều là các cựu điều tra viên Gestapo chuyển sang làm cho Cảnh sát, đổi lại các sĩ quan trẻ được thuyên chuyển sang Gestapo. Nói thật, chúng chỉ toàn là những kẻ say rượu và không có năng lực.
Điện thoại đổ chuông, ông nhấc máy. “Kohl nghe đây.”
“Thanh tra, Schreiber đây, viên thư ký ông đã nói chuyện hôm nay. Hail Hitler.”
“Vâng, vâng, chào cậu.” Trên đường quay về tòa nhà Alex từ Khu Vườn Mùa Hạ, Kohl cùng Janssen đã ghé lại cửa hàng bán đồ kim chỉ tại Tietz, cửa hàng bách hóa lớn chiếm cứ phía Bắc quảng trường Alexander Plaza, gần trụ sở Cảnh sát. Kohl đã cho tay thư ký xem ảnh chiếc mũ của Göring và hỏi đây là loại mũ gì. Anh ta không biết nhưng đã nói sẽ tìm hiểu sau.
“Có may mắn nào không?” Kohl hỏi anh ta.
“À, có, có. Tôi tìm ra câu trả lời rồi. Đó là mũ Stetson. Sản xuất tại Mỹ. Như sếp biết đấy, Bộ trưởng Goring cho thấy ông ta là người sành sỏi nhất.”
Kohl không bình luận về điều này. “Ở đây chúng có phổ biến không?”
“Không, thưa sếp. Hàng hiếm đấy. Đắt cắt cổ, như ông có thể hình dung.”
“Tôi có thể mua nó ở đâu tại Berlin?”
“Sếp à, nói thật tôi không biết. Tôi nghe nói ngài Bộ trưởng đã gửi đơn hàng đặc biệt từ London.”
Kohl cảm ơn anh ta, gác máy rồi nói lại với Janssen những gì ông biết.
“Thế thì có lẽ hắn ta là người Mỹ,” Janssen nói. “Mà có lẽ là không. Vì Göring cũng đội loại mũ đó.”
“Một mảnh nhỏ của câu đố, Janssen. Nhưng cậu sẽ thấy rằng, nhiều mảnh nhỏ thường mang lại một hình ảnh tội ác rõ nét hơn một mảnh to đấy.” Ông rút những phong bì đựng bằng chứng màu nâu ra khỏi túi áo, lựa chọn phong bì có chứa viên đạn.
Cảnh sát có phòng thí nghiệm pháp y riêng từ thời cảnh sát Phổ còn là lực lượng thi hành luật pháp chính trong nước (nếu không muốn nói là trên thế giới, trong thời Cộng hòa Weimar, Cảnh sát đã đóng 97% các vụ án mạng tại Berlin.) Nhưng các phòng thí nghiệm cũng bị Gestapo càn quét cả về thiết bị lẫn nhân sự, các công nhân kỹ thuật tại trụ sở đều bị quấy nhiễu, họ tỏ ra kém kinh nghiệm hơn nhiều so với trước kia. Do đó, Willi Kohl đã tự biến mình thành chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học hình sự nhất định. Bất chấp bản thân ông không quan tâm lắm đến các loại súng cầm tay, Kohl đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng đạn đạo học, cách tiếp cận của ông mô phỏng theo phòng thí nghiệm vũ khí cầm tay tốt nhất thế giới - tại Cục Điều tra Liên bang Mỹ của J. Edgar Hoover ở Washington, D.C.
Ông lắc viên đạn rơi xuống một mảnh giấy sạch.
Đeo lên chiếc kính một mắt, ông lấy cặp nhíp rồi xem xét viên đạn thật kỹ. “Mắt cậu tốt hơn mắt tôi,” ông nói. “Cậu nhìn đi.”
Tay thanh tra học việc thận trọng cầm lấy viên đạn và chiếc kính một mắt, trong khi Kohl rút ra một bìa đựng hồ sơ từ trên giá sách. Hồ sơ bao gồm các bức ảnh và phác thảo đạn đạo các loại. Hồ sơ rất dày, đến vài trăm trang, tuy nhiên thanh tra đã sắp xếp có hệ thống phân chia theo cỡ đạn và số lượng những đường khía nổi, khía chìm của rãnh xoắn - những gạch sọc do đường rãnh xẻ trong nòng súng đè lên viên đạn chì - và liệu chúng bị xoắn sang trái hay sang phải. Chỉ năm phút sau, Janssen đã tìm thấy một sự trùng khớp.
“Ái chà, có tin tốt đấy,” Kohl nói.
“Tốt thế nào?”
“Kẻ sát nhân của chúng ta đã sử dụng một loại vũ khí khác thường. Nhìn này. Đây là một viên Largo 9mm. Nhiều khả năng nhất là được bắn ra từ khẩu Star Modelo A của Tây Ban Nha. Tốt cho chúng ta vì nó là hàng hiếm. Như cậu đã chỉ ra, nó hoặc là súng mới hoặc là súng đã bắn chút ít. Chúng ta hãy hy vọng ở vế đầu. Janssen, bây giờ cậu viết cho tôi mấy chữ: Gửi một bức điện sang tất cả các đồn cảnh sát trong khu này. Nhắc họ điều tra các cửa hàng bán súng, hỏi xem có bán loại súng Star Modelo A mới, hoặc đã bắn một ít, trong mười hai tháng trước không, hoặc có bán loại đạn nào cho súng đó hay không. Mà không, ghi là trong vòng năm ngoái đi. Tôi muốn có tên và địa chỉ của tất cả những người mua hàng.”
“Rõ, thưa sếp.”
Cậu thanh ưa học việc trẻ tuổi ghi lại thông tin, định bước vào trong phòng Truyền tin.
“Chờ đã, trong tin nhắn thêm dòng tái bút mô tả nghi phạm của chúng ta. Rằng hắn có vũ khí.” Thanh tra thu lại các bức ảnh vân tay nghi phạm và tấm thẻ dính mực từ ngón tay nạn nhân. Thở dài, ông nói, “Còn giờ tôi phải cố gắng làm công tác ngoại giao. Khỉ thật, sao tôi ghét nó thế.”