CHƯƠNG 12
Chiếc Auto Union DKW rách nát của Willi Kohl nỗ lực đưa ông đến làng Thế vận hội cách phía Tây thành phố hai mươi ki-lô-mét mà không bị quá nóng, bất chấp ánh mặt trời thiêu đốt khiến cả hai sĩ quan cởi phăng áo khoác - trái ngược với tính cách của cả hai lẫn những quy định của Cảnh sát Hình sự.
Tuyến đường đưa họ đi qua Charlottenburg và khi tiếp tục đi về phía Tây Nam, nó hẳn sẽ dẫn họ đến Gatow, hai thành phố gần nơi các công nhân Ba Lan, các gia đình Do Thái bị sát hại. Những hình ảnh khủng khiếp của vụ án mạng tiếp tục luẩn quẩn trong hồi ức của Kohl làm bụng ông quặn lên.
Họ đến cổng vào chính của ngôi làng, lúc này đang tấp nập kẻ ra vào. Các vận động viên cùng nhân viên khác đang bước xuống từ những chiếc xe riêng, xe taxi và xe buýt, các thùng thư, hành lý và trang thiết bị được dỡ xuống từ những chiếc xe tải. Hai người mặc lại áo, trình thẻ cho lính gác cổng - thuộc quân đội chính quy - rồi bước vào trong những khu đất rộng rãi, được cắt tỉa gọn gàng. Xung quanh họ, mấy người đàn ông mang những chiếc va li, rương hòm đi dọc vỉa hè. Những người khác mặc quần soóc và áo thun cộc tay thì chạy hoặc tập thể dục.
“Nhìn kìa,” Janssen hăng hái nói, hất đầu về phía một nhóm người Nhật hay người Trung Quốc. Kohl ngạc nhiên thấy họ mặc áo sơ mi trắng, quần dài bằng vải flannel và không… à ông không biết là cái gì. Khố, có lẽ là vậy, hoặc là những áo choàng bằng lụa thêu. Gần đó vài cậu thanh niên Trung Đông da sẫm màu bước đi bên nhau, hai người trong số này phá lên cười trước một câu người thứ ba nói. Willi Kohl nhìn chằm chằm như đứa bé học sinh. Chắc chắn ông sẽ thích thú xem Thế vận hội lần này khi khai mạc vào tuần sau. Ông cũng muốn gặp gỡ mọi người đến từ khắp nơi trên thế giới. Hai nước lớn duy nhất chưa có mặt là Tây Ban Nha và Nga.
Hai cảnh sát đến khu sinh hoạt tập thể của đoàn Mỹ. Trong tòa nhà chính là khu lễ tân. Họ đến gần viên sĩ quan liên lạc người Đức, “Đại úy,” Kohl nói, để ý cấp bậc trên bộ đồng phục anh ta đang mặc. Anh ta đứng dậy ngay lập tức, mỗi lúc một chăm chú hơn khi Kohl tự giới thiệu bản thân cùng người trợ lý. “Hail Hitler. Hai người đến đây thi hành nhiệm vụ à?”
“Đúng vậy.” Ông mô tả nghi phạm rồi hỏi viên sĩ quan đã từng gặp ai như thế chưa.
“Chưa, thưa sếp, nhưng chỉ riêng khu nhà này có đến hàng trăm người. Như sếp có thể thấy, cơ sở này rất rộng lớn.”
Kohl gật đầu. “Tôi cần nói chuyện với ai đó ở cùng đội tuyển Mỹ. Vị quan chức nào đó.”
“Vâng, thưa sếp. Tôi sẽ thu xếp được.”
Năm phút sau, cậu ta quay lại cùng một người đàn ông gầy còm, cao lêu nghêu. Ông ta tự giới thiệu mình bằng tiếng Anh là một trong các huấn luyện viên chính. Ông ta mặc quần trắng và cho dù hôm nay là một ngày nóng nực, ông ta vẫn diện áo gi-lê len đan móc xích mặc ngoài sơ mi trắng. Kohl nhận ra mới mấy phút trước, khu lễ tân còn gần như trống không thì giờ đây một tá vận động viên cùng những người khác đã tràn vào phòng, giả vờ như có việc gì để lậm ở đây. Như ông nhớ từ hồi còn trong quân ngũ, chẳng có gì lan nhanh hơn tin tức giữa những người sống cùng nhà nhau.
Tay sĩ quan Đức sẵn sàng chen vào, nhưng Kohl thích nói chuyện trực tiếp với những người ông đang thẩm vấn bằng thứ tiếng Anh trúc trắc. “Thưa ngài, tôi là thanh tra cảnh sát đang làm việc cho Cảnh sát Hình sự Đức.” Ông trình thẻ cảnh sát.
“Có vấn đề gì không ạ?”
“Chúng tôi vẫn chưa chắc chắn. Nhưng chúng tôi đang cố gắng tìm một người chúng tôi muốn nói chuyện. Có lẽ ông biết anh ta.”
“Đó đúng là một vấn đề nghiêm trọng,” Janssen nói, phát âm tiếng Anh không chê vào đâu được. Kohl không biết cậu ta nói hay đến vậy.
“Vâng, vâng,” tay thanh tra nói tiếp. “Dường như anh ta có để thất lạc cuốn sách này.” Ông ta giơ lên một quyển sách hướng dẫn, bọc xung quanh bằng khăn tay. “Nó được dành cho những ai tham gia Thế vận hội đúng không?”
“Đúng vậy. Nhưng không chỉ các vận động viên thôi đâu, mà cho tất cả mọi người. Chúng tôi có thể đã cung cấp cho một ngàn người hoặc hơn. Và rất nhiều quốc gia cũng phát hành bản tiếng Anh nữa, ông biết đấy.”
“Vâng, nhưng chúng tôi đã xác định được mũ của anh ta được mua tại New York. Tại New York. Vậy nên nhiều khả năng nhất, anh ta là người Mỹ.”
“Thật sao?” tay huấn luyện viên cảnh giác hỏi. “Mũ của anh ta?”
Kohl nói tiếp. “Chúng tôi tin rằng anh ta trông cao lớn, tóc đỏ, nâu đen.”
“Nâu đen?”
Tức giận vì không biết dùng từ vựng nước ngoài, Kohl liếc nhìn Janssen, cậu ta nói, “Tóc anh ta thẳng, màu nâu sẫm. Có pha hung đỏ.”
“Anh ta mặc áo khoác màu xám tươi, đội mũ này và đeo cà vạt này.” Kohl hất đầu sang Janssen, cậu ta trưng ra bằng chứng từ trong cặp.
Tay huấn luyện viên nhìn chúng chiếu lệ rồi nhún vai. “Có thể sẽ hữu ích hơn nếu ngài kể cho chúng tôi nghe đã xảy ra chuyện gì.”
Kohl lại nghĩ cuộc sống ở đây khác biệt so với Mỹ đến bao nhiêu. Không người Đức nào dám hỏi tại sao một cảnh sát muốn biết điều gì đó.
“Đó là một vấn đề an ninh quốc gia.”
“An ninh quốc gia. À, ừm. À, tôi rất muốn giúp. Chắc chắn tôi sẽ giúp. nhưng trừ phi ngài nói điều gì đó cụ thể hơn…”
Kohl nhìn xung quanh. “Có lẽ vài người ở đây có thể biết người này.”
Tay huấn luyện viên kêu gọi, “Có ai trong số các cậu biết người mặc những thứ này không?”
Họ đều lắc đầu, hoặc lẩm bẩm “Không” hoặc “Không biết.”
“Có lẽ tôi đang hy vọng ông, ở đây có một… phải rồi, một danh sách những người đi cùng ông tới đây. Và các địa chỉ. Để xem ai đang sống tại New York.”
“Chúng tôi chỉ có danh sách các huấn luyện viên và thành viên đội tuyển thôi. Và ngài đang không đề nghị…”
“Không, không.” Kohl tin rằng hung thủ không nằm trong đội tuyển. Các vận động viên luôn được chú ý, sẽ không có khả năng một trong số họ lén ra khỏi làng mà không ai thấy, ngay trong ngày đầu tiên tại Berlin. Sau đó giết người, đến thăm nhiều nơi khác nhau trong thành phố trong một nhiệm vụ nào đó, rồi trở về mà không làm ai nghi ngờ. “Tôi đang nghi ngờ người này là một phóng viên.”
“Nếu là thế, tôi e rằng mình không thể giúp được nhiều.” Gã huấn luyện viên khoanh tay lại. “Ngài biết không, Sĩ quan, tôi sẽ cá rằng phòng xuất nhập cảnh của ngài có thông tin về địa chỉ của các du khách. Họ theo dõi tất cả mọi người đến và đi khỏi đất nước, đúng không? Tôi nghe nói mấy anh bạn đồng nghiệp Đức của ngài thật sự giỏi việc đó.”
“Đúng, đúng, tôi cân nhắc chuyện đó rồi. Nhưng thật không may, thông tin không cho thấy địa chỉ nhà của họ. Chỉ bao gồm quốc tịch thôi.”
“Ôi, khó khăn nhỉ.”
Kohl khăng khăng. “Tôi cũng đang hy vọng điều này: có lẽ một bản kê khai hàng hóa trên tàu, danh sách hành khách trên tàu Manhattan? Nó thường nêu rõ cả địa chỉ.”
“À, đúng rồi. Cái đó thì chắc chắn chúng tôi có. Cho dù chắc ngài nhận ra cũng gần nghìn người trên tàu.”
“Xin ông, tôi hiểu mà. Nhưng dù thế nào tôi sẽ cực kỳ hy vọng sẽ được xem nó.”
“Tất nhiên rồi. Chỉ là… Chắc chắn tôi ghét phải gây khó dễ, Sĩ quan. Nhưng tôi nghĩ rằng trong những sinh hoạt tập thể này… ông biết đấy, tôi nghĩ chúng tôi có vị thế ngoại giao. Có chủ quyền lãnh thổ. Nên tôi nghĩ ông cần phải có lệnh khám xét.”
Kohl nhớ lại lệnh khám xét nhà một nghi phạm, hoặc lệnh giao lại bằng chứng phải được một thẩm phán phê chuẩn. Hiến pháp Weimar, khai sinh ra nước Cộng hòa Đức sau Thế Chiến thứ I có rất nhiều những sự bảo vệ, phần lớn vay mượn từ Hiến pháp Mỹ. (Cho dù nó chỉ gồm một điều luật thôi, nhưng quan trọng đến mức Hitler vồ lấy ngay lập tức: Tổng thống có quyền hủy bỏ mọi quyền công dân vô thời hạn).
“Ôi, tôi cần phải xem xét vài vấn đề ở đây. Tôi không có lệnh khám xét.”
“Tôi thật sự cảm thấy tốt hơn nếu ngài có.”
“Đây rõ ràng là vấn đề khẩn cấp.”
“Tôi chắc chắn là vậy. Nhưng điều đó có thể tốt hơn cả cho ngài nữa. Chúng tôi chắc chắn không muốn chọc giận ai đó. Về mặt ngoại giao. “Làm ai đó không vui,” ông hiểu ý tôi không?”
“Tôi hiểu ý nghĩa những lời đó.”
“Vậy thì ngài thử bảo sếp của ngài gọi cho Đại sứ quán, hoặc ủy ban Olympic. Sau khi họ tán thành, ngài có thể làm bất cứ điều gì ngài muốn. Tôi sẽ trao danh sách cho ngài trên một cái đĩa bạc.”
“Tán thành. Phải, phải.” Đại sứ quán Mỹ có khả năng sẽ đồng ý, Kohl tự nhủ, nếu ông đưa ra đề nghị thích hợp. Những người Mỹ sẽ không muốn lan truyền câu chuyện rằng, một kẻ sát nhân đã đột nhập vào nước Đức cùng đội tuyển Olympic của họ.
“Rất tốt, thưa ngài,” Kohl lịch thiệp nói. “Có thể tôi sẽ liên hệ với Đại sứ quán và ủy ban Olympic như ngài đề nghị.”
“Tốt. Giờ ngài bảo trọng nhé. À mà, chúc ngài may mắn với Thế vận hội. Những chàng trai của ngài khiến chúng tôi phải vất vả đấy.”
“Tôi sẽ đến tham dự,” Kohl nói. “Tôi mua vé trong hơn một năm cơ mà.”
Họ từ biệt nhau, Kohl cùng tay thanh tra học việc bước ra ngoài. “Chúng ta sẽ gọi cho Horcher từ radio trong xe, Janssen. Ông ta có thể liên hệ với Đại sứ quán Mỹ, tôi chắc chắn. Đây có thể là…” Kohl ngừng lời. Ông vừa phát hiện một mùi hăng hăng. Thứ gì đó rất quen, nhưng lạ lẫm với nơi này. “Có chuyện không ổn.”
“Cái gì…?”
“Lối này. Nhanh lên!” Kohl rảo bước rất nhanh, vòng ra phía sau tòa nhà tập thể chính của đoàn Mỹ. Đó là mùi khói. nhưng không phải khói bếp thường thấy vào mùa hè từ các lò than nướng. Mà là khói bốc lên từ một cái bếp, điều hiếm thấy vào tháng Bảy.
“Từ kia nghĩa là gì, Janssen? Trên tấm biển ấy? Tôi không hiểu tiếng Anh.”
“Nó có nghĩa là Nhà Tắm Vòi sen, Tắm hơi. “
“Không!”
“Có chuyện gì hả sếp?”
Kohl chạy qua cửa vào một khu rộng rãi lát đá. Buồng rửa mặt nằm bên trái, các phòng tắm vòi sen nằm bên phải và một cửa riêng dẫn vào phòng tắm hơi. Kohl chạy đến đúng cánh cửa này, mở tung nó ra. Bên trong có một cái bếp lò, phía trên đặt một cái khay to đựng toàn đá. Gần đó là các xô nước mà người ta có thể múc nước đổ lên các viên đá này tạo ra hơi nước. Hai thanh niên da đen trẻ tuổi mặc bộ đồ tập thể hình bằng cotton màu xanh hải quân đứng cạnh bếp lò, đang lập lòe ánh lửa. Một người đang cúi xuống cửa bếp lò, có khuôn mặt đẹp trai với đường chân tóc cắt cao. Người kia gầy hơn với mái tóc rậm hơn rủ xuống quá trán. Người có gương mặt tròn đứng dậy, đóng cửa bếp lò bằng kim loại. Cậu ta xoay người lại, liếc nhìn tay thanh tra với nụ cười dễ mến.
“Xin chào các cậu,” Kohl nói, một lần nữa dùng thứ tiếng Anh kinh hoàng. “Tôi đang…”
“Chúng tôi nghe thấy rồi. Ông đang làm gì thế, Thanh tra? Người của ông dành cho chúng tôi một nơi tuyệt vời đấy. Ý tôi là ngôi làng.”
“Tôi ngửi thấy mùi khói nên lo lắng.”
“Chỉ khêu cho lửa cháy thêm thôi mà.”
“Đối với những cơ bắp đau nhức, không gì bằng hơi nước.” người kia đế thêm.
Kohl nhìn chằm chằm qua cánh cửa kính của bếp lò. Bộ giảm xóc mở rộng và những ngọn lửa đang trong cơn cuồng nộ. Ông trông thấy một số mảnh giấy trắng đang cuộn xoáy thành tro bên trong.
“Thưa sếp,” Janssen đột ngột bắt đầu bằng tiếng Đức, “họ là…” Nhưng Kohl ngắt lời cậu ta bằng cái lắc đầu, liếc nhìn người đần tiên đã nói. “Cậu là…?” Kohl liếc mắt, đôi mắt ông mở to. “Đúng rồi, đúng rồi, cậu là Jesse Owens, vận động viên điền kinh vĩ đại.” Với thứ tiếng Anh trọng âm Đức của Kohl, cái tên này biến thành “Yessa Ovens.”
Anh ta ngạc nhiên chìa ra bàn tay đẫm mồ hôi. Bắt cái nắm tay thật chặt, Kohl liếc nhìn sang tay da đen còn lại.
“Ralph Metcalfe,” tay vận động viên tự giới thiệu. Một cái bắt tay nữa.
“Cậu ấy cũng trong đội tuyển,” Owens nói.
“Vâng, vâng, tôi cũng có nghe nói đến cậu. Cậu đã chiến thắng tại Los Angeles, bang California ở kỳ Thế vận hội trước. Chào mừng cả hai cậu.”’ Anh lửa lấp lánh trong đôi mắt Kohl. “Các cậu tắm hơi trước khi tập à?”
“Đôi khi là trước, đôi khi là sau,” Owens đáp.
“Ông có thích tắm hơi không, Thanh tra?” Metcalfe hỏi.
“Có, có, thi thoảng. Gần như lúc này tôi ướt đẫm mồ hôi từ đầu tới chân.”
“Bàn chân nhức buốt,” Owens nói, nhăn nhó. “Tôi biết hết tất cả những chuyện đó. Tôi có ý này, sao chúng ta không ra khỏi đây nhỉ, thưa Thanh tra? Ở ngoài kia mát mẻ hơn nhiều.”
Cậu ta để cửa mở cho Kohl và Janssen bước ra. Hai Cảnh sát Hình sự ngập ngừng, rồi đi theo Metcalfe vào một khu cỏ mọc đầy phía sau tòa nhà ở.
“Đất nước của ông đẹp đấy, Thanh tra,” Metcalfe nói.
“Vâng, vâng. Đúng vậy đấy.” Kohl nhìn làn khói bốc lên từ ống khói kim loại trên nóc phòng tắm hơi.
“Hy vọng ông may mắn tìm được anh chàng ông đang tìm,” Owens nói.
“Phải, phải. Tôi đang băn khoăn liệu có ích hay không khi hỏi cậu có quen ai đội mũ Stetson và đeo cà vạt xanh. Anh ta có khổ người cao lớn?”
“Xin lỗi, tôi không biết ai như thế.” Cậu ta liếc mắt sang Metcalfe, cậu này cũng lắc đầu.
Janssen hỏi, “Các anh có biết ai đã đến đây cùng đội tuyển nhưng có lẽ bỏ đi sớm? Tiếp tục đến Berlin hay đâu đó khác?”
Hai thanh niên nhìn nhau. “Không, e là không.” Owens đáp.
“Chắc là tôi cũng không,” Metcalfe nói thêm.
“Chà, thật vinh dự cho tôi được gặp gỡ cả hai người.”
“Cảm ơn ngài.”
“Tôi đã theo dõi sát sao tin tức những cuộc thi chạy của hai người, có phải ở bang Michigan không nhỉ? Những trận đấu năm ngoái đúng không?”
“Ann Arbor. Ông có nghe nói đến à?” Owens cười vang, một lần nữa ngạc nhiên.
“Đúng, đúng. Những kỷ lục thế giới. Thật buồn, giờ chúng tôi không được nghe nhiều tin tức từ Mỹ nữa. Dù thế tôi vẫn mong chờ Thế vận hội. Nhưng tôi đang có bốn vé, năm đứa trẻ cùng vợ tôi và con rể tương lai của tôi. Chúng tôi sẽ có mặt và tham dự vào… chết tiệt thật, cậu sẽ nói gì nhỉ? Cái nóng này không làm cậu mệt chứ?”
“Tôi đã từng chạy ở vùng Trung Tây rồi. Thời tiết giống hệt nơi này.”
Bất ngờ trờ nên nghiêm túc, Janssen nói, “Anh biết đấy, có rất nhiều người tại Đức hy vọng các anh thất bại.”
Metcalfe nhíu mày rồi nói, “Bởi vì con bò đó - những gì Hitler nghĩ về những kẻ lai chủng tộc à?”
“Không,” tay trợ lý trẻ đáp. Rồi khuôn mặt cậu ta nở một nụ cười. “Bởi vì các nhà cái của chúng tôi sẽ bị bắt, nếu họ đặt cược vào những vận động viên nước ngoài. Chúng tôi chỉ được phép đặt cược vận động viên người Đức thôi.”
Owens thích thú. “Vậy là hai người đặt chúng tôi thua à?”
“À, chúng tôi sẽ cược có lợi cho cậu chứ,” Kohl đáp. “Nhưng chết tiệt, chúng tôi không thể.”
“Vì điều đó là bất hợp pháp?”
“Không, vì chúng tôi chỉ là những cảnh sát nghèo, làm gì có tiền. Vậy thì hãy chạy như Luft, như cơn gió, người Mỹ các cậu hay nói thế đúng không? Hãy chạy như cơn gió, Cậu Owens và Cậu Metcalfe. Tôi sẽ ở trên khán đài và cổ vũ cho các cậu, cho dù sẽ chỉ thầm lặng thôi… Đi thôi, Janssen.” Kohl quay người bước vài bước, nhưng rồi quay lại. “Tôi phải hỏi lại: Các cậu chắc chắn không thấy ai đội mũ Stetson à?… Không, không, dĩ nhiên là không rồi, nếu không cậu đã nói với tôi. Chúc một ngày tốt lành.”
Họ vòng qua phía trước khu nhà, đi ra phía cổng làng.
“Bảng kê khai hàng hóa trên tàu có tên kẻ sát nhân của chúng ta không sếp? Những tay da đen đó đốt cái gì trong lò sưởi thế?”
“Có thể. Nhưng hãy nói là ‘nghi phạm’, nhớ đấy. Không phải là ‘kẻ sát nhân.”’
Mùi giấy cháy thoảng đưa trong không khí nóng làm mũi Kohl nhức nhối, chế giễu ông làm cơn giận của ông tăng cao.
“Chúng ta có thể làm gì?”
“Chẳng làm gì cả,” Kohl đơn giản nói, thở hắt phẫn nộ. “Chúng ta chẳng làm được gì hết. Và đó là lỗi của tôi.”
“Lỗi của sếp?”
“Chà, những tinh tế trong việc chúng ta làm, Janssen ạ… Tôi đã mong muốn giấu kín mục đích của chúng ta và tôi đã nói chúng ta muốn gặp thằng cha này bàn vấn đề ‘an ninh nhà nước’, những ngày này, chúng ta quá dễ nói ra điều đó. Những lời nói của tôi cho thấy rằng, tội ác không phải là giết một nạn nhân vô tội, mà có lẽ là một cuộc tấn công vào Chính phủ - dĩ nhiên, do cuộc chiến với nước họ chưa đầy hai mươi năm trước. Nhiều vận động viên, không nghi ngờ gì nữa, đã mất người thân, thậm chí là mất những người cha cho quân đội của Hoàng đế Đức và họ có thể cảm thấy lợi ích ái quốc trong việc bảo vệ nó như một người đàn ông. Và giờ đã quá muộn để tôi rút lại những gì tôi đã nói.”
Khi họ bước ra phố trước làng Thế vận hội, Janssen quay về nơi họ đỗ xe DKW. Nhưng Kohl hỏi, “Chúng ta sẽ đi đâu đây?”
“Chẳng phải ta sẽ quay về Berlin sao?”
“Chưa đâu. Chúng ta bị từ chối bản danh sách hành khách rồi. Nhưng việc hủy diệt bằng chứng là có lý do, và rằng theo logic, lý do ấy có thể được tìm thấy vào thời điểm bằng chứng bị mất. Nên chúng ta sẽ đi hỏi han xem. Chúng ta phải tiếp tục con đường của mình theo cách khó khăn, bằng cách sử dụng bàn chân tội nghiệp của mình… Trời ạ, mùi thức ăn thơm quá, đúng không? Họ đang nấu ăn thật ngon cho các vận động viên. Tôi nhớ lại khi tôi từng đi bơi hàng ngày. Nhiều năm trước. Hồi ấy, tôi có thể ăn bất kỳ món gì tôi thích mà chẳng tăng cân tẹo nào. Tôi e rằng những ngày đó rời xa tôi rồi. Rẽ phải ở đây, Janssen, rẽ phải.”
Reinhard Ernst bỏ điện thoại xuống, nhắm mắt lại. Hắn ngả lưng vào chiếc ghế nặng nề trong văn phòng Phủ Thủ tướng của hắn. Lần đầu tiên trong vài ngày hắn cảm thấy hài lòng - không phải, mà là tràn ngập nỗi vui sướng. Một cảm giác chiến thắng tràn qua người hắn, mãnh liệt như khi cùng 67 đồng đội của hắn đẩy lui thành công 300 lính Đồng minh tại vị trí cố thủ Tây Bắc gần Verdun. Nhờ chiến tích này, hắn được tặng Huân chương Chữ Thập Sắt, hạng nhất - và ánh mắt ngưỡng mộ của Wilhelm II (chỉ một cánh tay chết mới ngăn Hoàng đế không đến dự lễ gắn huân chương lên ngực Ernst) - nhưng với thành công đạt được ngày hôm nay, hắn sẽ được chào đón bằng những sự tôn vinh công khai, dĩ nhiên ngọt ngào hơn nhiều.
Một trong những rắc rối lớn nhất hắn từng đối mặt trong việc tái thiết hải quân Đức, đó là một mục trong Hiệp ước Versailles cấm Đức sở hữu tàu ngầm, hạn chế số lượng tàu chiến xuống còn 6 tàu chiến, 6 tàu tuần dương nhẹ, 12 tàu khu trục và 12 tàu phóng ngư lôi.
Hẳn nhiên là vô lý, ngay cả nhằm mục đích phòng thủ cơ bản.
Nhưng năm ngoái, Ernst đã thiết kế một hành động táo bạo. Hắn cùng Đại sứ Lưu động nóng tính, Joachim Ribbentrop ký kết Hiệp ước Hải qủân Anglo - Đức, cho phép Đức được sản xuất tàu ngầm, tăng giới hạn lực lượng hải quân trên mặt nước lên 35%, ngang bằng với hải quân Anh. Nhưng điều quan họng nhất trong thỏa thuận này cho đến bây giờ chưa từng đựợc kiểm chứng. Chính bộ não mạnh mẽ của Ernst đã khiến Ribbentrop ký một thỏa thuận phần trăm không liên quan đến số lượng tàu chiến, vốn được giới hạn trong Versailles, mà liên quan đến kích cỡ tàu chiến.
Hiện giờ, Đức có quyền hợp pháp xây dựng những tàu chiến còn lớn hơn cả tàu Anh, miễn là tổng kích cỡ không bao giờ vượt quá con số 35% diệu kỳ. Hơn thế nữa, mục tiêu từ rất lâu của Ernst và Erich Raeder, Tổng tư lệnh hải quân, đó là xây dựng đội quân tàu chiến nhẹ hơn, cơ động hơn và đáng sợ hơn những con tàu khổng lồ, cồng kềnh giống hạm đội tàu chiến nặng nề của Anh - dễ chịu tổn thương khi bị tấn công bằng máy bay hoặc tàu ngầm.
Thắc mắc duy nhất đó là: Liệu Anh có khiếu nại về trò gian lận này, khi họ xem xét các báo cáo xây dựng xưởng đóng tàu và nhận ra hải quân Đức còn lớn mạnh hơn họ dự kiến?
Cho dù một sĩ quan phụ tá ngoại giao Đức tại London gọi điện cho biết: Chính phủ Anh đã xem xét những con số và phê chuẩn ngay, không buồn suy nghĩ lại.
Đúng là một thành công mỹ mãn!
Hắn thảo một thông báo cho Lãnh tụ báo tin tốt, sai người trao tận tay.
Đúng lúc đồng hồ trên tường điểm bốn giờ, một người đàn ông trung niên, hói đầu mặc áo vest may bằng vải tuýt, quần dài kẻ sọc bước vào văn phòng của Ernst. “Đại tá, tôi vừa…”
Ernst lắc đầu, đưa tay lên môi ra hiệu Giáo sư Tiến sĩ Ludwig Keitel giữ im lặng. Viên Đại tá xoay người lại nhìn ra cửa sổ. “Thật là một buổi chiều vui vẻ làm sao.”
Keitel nhíu mày: hôm nay là một trong những ngày nóng nhất trong năm, gần đạt mức 34 độ. Gió thì đầy bụi, nhưng lão vẫn giữ im lặng, một bên lông mày nhướn lên.
Ernst chỉ tay về phía cửa ra vào. Keitel gật đầu, hai người cùng bước vào tiền sảnh bên ngoài, rời khỏi Phủ Thủ tướng. Rẽ về phía Bắc trên phố Wilhelm, họ tiếp tục đi đến Đại lộ Under The Lindens rồi đi về phía Tây. Họ chỉ nói chuyện về thời tiết, Thế vận hội, một bộ phim mới của Mỹ được cho là sẽ chiếu mở màn sớm. Giống như Lãnh tụ, cả hai cùng ngưỡng mộ nữ diễn viên Mỹ, Greta Garbo. Bộ phim Anna Karenina của cô vừa được phê chuẩn cho phát hành tại Đức, bất chấp phim lấy bối cảnh ở Nga và chủ đề đạo đức có thể gây tranh cãi. Cùng thảo luận về những bộ phim gần đây, họ vào quảng trường Tiergaten, chỉ qua Cổng Brandenburg một chút.
Cuối cùng, sau khi nhìn xung quanh xem có kẻ nào bám đuôi hay theo dõi không, Keitel lên tiếng, “Chuyện này là sao vậy, Reinhard?”
“Có sự điên rồ giữa chúng ta, Tiến sĩ.” Ernst thở dài.
“Không, cậu đang đùa tôi đấy à?” ông giáo sư mỉa mai hỏi.
“Hôm qua, Lãnh tụ yêu cầu tôi nộp báo cáo về Nghiên cứu Waltham.”
Keitel mất một lúc để tiêu hóa thông tin này. “Lãnh tụ à? Đích thân yêu cầu?”
“Tôi đã hy vọng y sẽ quên đi vì đang bận bù đầu với Thế vận hội. Nhưng rõ ràng là không.” Hắn đưa cho Keitel mảnh giấy của Hitler rồi kể lại câu chuyện làm sao Lãnh tụ biết đến nghiên cứu này. “Nhờ một tên béo múp với một đống chức danh.”
“Hermann mập ú,” Keitel nói to, thở dài giận dữ.
“Suỵt,” Ernst nói. “Nói như gió bên hoa thôi.” Một thành ngữ phổ biến gần đây, nghĩa là: Khi gọi thẳng tên quan chức Đảng ở nơi công cộng, chỉ nói những điều tốt đẹp.
Keitel nhún vai. Bằng một giọng mềm mại hơn, lão thì thầm. “Tại sao hắn lại quan tâm đến chúng ta?”
Ernst không muốn phí thời gian, cũng như tâm sức thảo luận về các bộ máy chính quyền Chủ nghĩa Phát xít cho một người chỉ biết đến khoa học.
“Bạn tôi ơi,” Keitel nói, “chúng ta sẽ làm gì đây?”
“Tôi đã quyết định chúng ta sẽ tấn công. Phản công lại thật manh. Chúng ta sẽ cho y một báo cáo - vào hôm thứ Hai. Một báo cáo chi tiết.”
“Trong hai ngày à?” Keitel nhăn nhó. “Chúng ta chỉ có dữ liệu thô và thậm chí còn giới hạn nữa. Cậu không thể bảo với y rằng chúng ta sẽ có phân tích tốt hơn trong vài tháng à? Chúng ta có thể…”
“Không, Tiến sĩ ạ,” Ernst nói, phá lên cười. Nếu người ta không thể nói như gió thổi bên hoa, thì một lời thì thầm là đủ. “Sẽ không ai dám bảo Lãnh tụ phải chờ một vài tháng. Hay một vài ngày hay vài phút. Không, điều tốt nhất đối với chúng ta là làm ngay bây giờ. Một cú sét đánh. Đó là việc chúng ta phải làm. Göring sẽ tiếp tục kích thích sự tò mò và có thể can thiệp đủ khiến Lãnh tụ muốn tìm hiểu sâu hơn. Khi không thích những gì mình thấy, y sẽ dẹp luôn cái nghiên cứu này. Hồ sơ hắn ăn cắp là những ghi chép của Freud. Đó là thứ hắn đã đề cập tới trong cuộc họp ngày hôm qua. Tôi nghĩ câu nói đó là “Bác sĩ tâm lý Do Thái.” Anh phải thấy được khuôn mặt của Lãnh tụ. Tôi nghĩ rằng mình đang trên đường đến Oranienburg rồi.”
“Freud thật tuyệt vời,” Keitel thì thầm. “Những ý tưởng rất quan trọng.”
“Chúng ta có thể sử dụng những ý tưởng của ông ấy. Và những ý tưởng của các nhà tâm lý học khác nữa. Tuy nhiên…”
“Freud là một nhà phân tích tâm lý.”
Chết tiệt, lại học thuật, Ernst nghĩ. Còn tệ hơn các chính trị gia. “Nhưng chúng ta sẽ không tôn vinh họ trong nghiên cứu.”
“Như thế là không trung thực về trí tuệ.” Keitel sưng sỉa đáp. “Sự liêm chính trong trí thức là quan trọng.”
“Không, trong những hoàn cảnh này thì không,” đó là câu trả lời chắc nịch của Ernst. “Chúng ta sẽ không xuất bản công trình trên tờ báo của trường đại học. Chúng ta không nói đến chuyện đó.”
“Rồi, rồi,” Keitel nôn nóng nói. “Chuyện này vẫn không thôi khiến tôi lo lắng. Không đủ dữ liệu.”
“Tôi biết. Tôi quyết định chúng ta phải tìm nhiều tình nguyện viên hơn. Mười hai người. Đến giờ, đây sẽ là nhóm đông nhất - để gây ấn tượng với Lãnh tụ, khiến y không quan tâm Göring nữa.”
Tay Giáo sư - Tiến sĩ nhăn nhó “Chúng ta sẽ không đủ thời gian. Sáng thứ Hai à? Không, không, chúng ta không làm được đâu.”
“Có, chúng ta có thể. Chúng ta phải làm được. Công trình của chúng ta không thể thua trong trận chiến này được. Chúng ta sẽ mở cuộc họp khác tại trường đại học vào chiều mai. Tôi sẽ vẽ ra cho Lãnh tụ hình ảnh hoành tráng của quân đội Đức mới. Bằng vần thơ ngoại giao tốt nhất của tôi. Tôi biết cách diễn đạt nó ra sao mà.” Hắn nhìn quanh. Một lời thì thầm nữa. “Chúng ta sẽ chặt đôi chân múp míp của tên Bộ trưởng không quân, từ phía dưới.”
“Tôi cho rằng chúng ta có thể thử,” Keitel bối rối nói.
“Không, chúng ta sẽ làm,” Ernst nói. “Chẳng có chữ ‘thử’ nào ở đây hết. Hoặc thành công hoặc thất bại.” Hắn nhận ra giọng mình như sĩ quan đang thuyết giảng cho cấp dưới. Mỉm cười buồn bã, hắn nói thêm, “Tôi cũng chẳng vui vẻ gì chuyện này hơn ông đâu, Ludwig. Cuối tuần này, tôi đã hy vọng được thư giãn. Dành thêm thời gian với cháu nội tôi. Chúng tôi sẽ cùng nhau khắc một con thuyền. Nhưng thời gian cho giải trí để sau đi.” Tay đại tá nói tiếp. “Sau khi chúng ta chết.”
Keitel không nói gì, nhưng Ernst cảm thấy lão Giáo sư-Tiến sĩ quay mái đầu lo âu lại nhìn mình.
“Đùa thôi mà, bạn tôi ơi,” tay đại tá nói. “Đùa thôi mà. Giờ cho phép tôi nói với ông vài tin tức tuyệt vời về lực lượng hải quân mới của chúng ta.”