CHƯƠNG 13
Bức tượng Hitler bằng đồng xanh lét đang đứng cao hơn hẳn đám binh lính ưu tú đã gục chết, tại Quảng trường Tháng 11 năm 1923 trông ấn tượng. Tuy nhiên, nó lại nằm trong vùng rất khác biệt với những nơi Paul Schumann đã thấy tại Berlin. Các tờ giấy quay cuồng trong cơn gió đầy bụi, có mùi chua chua của rác rưởi trong không khí. Những người bán hàng rong rao bán hái cây và hàng hóa rẻ tiền, một nghệ sĩ đứng cạnh chiếc xe ọp ẹp vẽ chân dung chỉ để lấy vài xu. Những ả điếm già nua không có giấy phép và mấy tên ma cô trẻ trung đi lang thang trên đường. Những người ăn xin mất chân tay, được lắp những cặp chân giả bằng kim loại, hoặc bằng da trông dị hợm, đi khập khiễng hoặc đi xe lăn khắp lượt vỉa hè xin ăn. Một người mang theo tấm biến trước ngực ghi dòng chữ: Tôi đã hy sinh đôi chân mình cho Tổ Quốc. Các bạn có gì cho tôi không?
Cứ như thể gã vừa bước qua phía sau bức rèm, nơi Hitler vứt ra đấy những rác rưởi, những xấu xí của Berlin.
Paul đi qua cánh cổng sắt hoen gi, ngồi xuống một trong những chiếc ghế dài đối diện bức tượng Hitler, nửa tá ghế ở đây đã có người ngồi.
Gã để ý một tấm biển bằng đồng có dòng chữ đại ý công trình này dành để ghi nhớ sự kiện đảo chính tại nhà hàng Beer Hall Putsch mùa thu năm 1923. Thời đó, căn cứ theo bài văn thổi phồng chán ngán khắc bằng kim loại, những người cao quý có tầm nhìn xa của Chủ nghĩa Phát xít đã khởi xướng cuộc đảo chính lịch sử lật đổ nhà nước Weimar, cố gắng giành lại đất nước khỏi bàn tay những-kẻ-đâm-sau-lưng (theo Paul hiểu, trong tiếng Đức, hay thích kiểu kết hợp càng nhiều từ càng tốt thành một từ có nghĩa).
Không lâu sau, gã bắt đầu thấy chán với những tán dương dài lê thê, không ngừng nghỉ dành cho Hitler và Göring. Gã bèn ngồi thẳng dậy, đưa tay lau mặt. Mặt trời đang xuống thấp nhưng trời vẫn sáng, nóng đến kinh người. Gã ngồi đây mới chỉ một hai phút, thì Reggie Morgan băng ngang đường, bước qua cổng đến ngồi cạnh Paul.
“Tôi thấy cậu tìm được chỗ này khá đấy.” Một lần nữa, ông ta nói bằng thứ tiếng Đức chuẩn xác. Ông phá lên cười, hất đầu về phía bức tượng rồi hạ giọng, “Hoành tráng không? Sự thật là một lũ mấy thằng say rượu mưu toan chiếm lấy Munich rồi bị đập như ruồi. Ngay phát đạn đầu tiên, Hitler đã gục xuống, hắn chỉ sống được khi lấy xác một “đồng chí” khác phủ lên thân mình.” Ông ta nhìn khắp người Paul. “Trông cậu khác quá. Tóc tai rồi quần áo.” Ông tập trung nhìn miếng băng ngâu. “Chuyện gì với cậu thế kia?”
Gã giải thích về vụ ẩu đả với lính Xung Kích.
Morgan nhíu mày. “Có phải vụ ngõ Dresden không? Chúng đang đi tìm cậu đúng không?”
“Không. Chúng đang đánh đập hai người chủ một hiệu sách. Đã định không dính vào, nhưng tôi không thể trơ mắt nhìn họ chết. Tôi đã thay quần áo rồi cắt tóc nữa. Nhưng tôi sẽ cần phải tránh xa bọn Áo Nâu.”
Morgan gật đầu. “Tôi không nghĩ có nguy hiểm lớn đâu. Chúng sẽ không báo cáo lên SS hay Gestapo về chuyện này - mà thích tự mình đi báo thù. Nhưng mấy kẻ bị cậu tẩn sẽ cày nát phố Rosenthaler. Chúng chưa bao giờ đi quá xa. Cậu không bị thương ở đâu đấy chứ? Bàn tay bóp cò của cậu không sao chứ?”
“Vâng, không sao.”
“Tốt. Nhưng cẩn thận đấy, Paul. Chúng hẳn sẽ bắn chết cậu vì chuyện đó. Không thẩm vấn, không bắt bớ. Chúng hẳn sẽ hành hình cậu tại chỗ.”
Paul hạ giọng. “Liên lạc của ông ở Bộ Thông tin có tìm được gì về Ernst không?”
Morgan cau mày. “Đang diễn ra chuyện này lạ lắm. Anh ta nói rằng có những cuộc tập trung kín đáo trên khắp phố Wilhelm. Thông thường thì vào ngày thứ Bảy, nửa con phố này vắng tanh. Tuy nhiên lần này, quân SS và SD có mặt khắp nơi. Anh ta sẽ cần thêm thời gian nữa. Chúng ta sẽ gọi cho anh ta trong một, hai tiếng nữa hoặc hơn.” Ông ta nhìn đồng hồ. “Nhưng hiện giờ, người bán súng trường của chúng ta ở đầu phố này. Hôm nay anh ta đóng cửa hàng vì chúng ta sẽ đến. Anh ta sống gần đây và đang đợi chúng ta. Bây giờ, tôi sẽ gọi cho anh ta.” Ông đứng dậy nhìn xung quanh. Trong số tất cả các quán bar chui và nhà hàng ở đây, chi ở quán Cà phê Edelweiss có điện thoại công cộng.
“Tôi sẽ quay lại ngay.”
Khi Morgan sang đường, đôi mắt Paul nhìn theo ông và gã trông thấy một trong số những cựu chiến binh tàn tật chậm rãi tiến vào mái hiên của nhà hàng, chìa tay xin bố thí. Một bồi bàn vạm vỡ bước ra hàng rào chắn xua đuổi người ăn xin đi chỗ khác.
Một người đàn ông trung niên, đang ngồi cách Paul vài ghế đứng dậy đến ngồi cạnh gã. Ông ta nhăn nhó khoe ra hàm răng mờ xỉn và càu nhàu. “Cậu có thấy không? Cách chúng nó đối xử với những anh hùng đúng là tội ác.”
“Vâng, đúng vậy.” Mình nên làm gì nhi? Paul tự hỏi. Đứng dậy và bỏ đi có thể còn đáng ngờ hon. Gã hy vọng người đàn ông này sẽ im lặng.
Tuy nhiên, tay người Đức dò xét gã chăm chú rồi nói tiếp. “Trông cậu cứng tuổi rồi. Cậu đã chiến đấu.”
Đây không phải là một câu hỏi, Paul cho rằng có lẽ đối với ông ta, chuyện một người Đức tuổi hai mươi như gã không chiến đấu trong Thế Chiến thứ I chắc phải có những hoàn cảnh đặc biệt lắm.
“Vâng, dĩ nhiên.” Tâm trí gã đang nghĩ rất lung tung.
“Cậu nhận vết thương kia ở trận nào?” Ông ta hất đầu về phía vết thẹo trên cằm Paul.
Trận đó chẳng liên quan gì đến hành động quân sự hết, kẻ thù là một gã sát thủ bệnh hoạn có tên là Morris Starble. Gã đã tặng cho hắn một nhát dao phía sau quán rượu Hell’s Kitchen, Starble chết năm phút sau đó.
Người đàn ông nhìn gã chờ đợi. Paul phải nói điều gì đó nên gã đề cập đến một trận chiến quen thuộc với gã: “St. Mihiel.” Trong bốn ngày của tháng 09 năm 1918, Paul cùng các đồng đội của gã thuộc Sư đoàn I Bộ binh, Quân đoàn IV xuyên qua màn mưa như trút nước và bùn lầy lội tấn công những chiến hào sâu hai mét tư của quân Đức, được bảo vệ bằng dây thép gai và các ụ súng máy.
“Đúng, đúng! Tôi đã ở đó!” Người đàn ông tươi cười, nồng nhiệt bắt tay Paul. “Đây đúng là sự trùng hợp! Đồng chí của tôi!”
Lựa chọn tốt đấy, Paul cay đắng nghĩ. Thế quái nào xảy ra chuyện này được nhỉ? Nhưng gã cố gắng tỏ ra ngạc nhiên dễ chịu trước sự trùng hợp này. Tay người Đức tiếp tục nói với Paul. “Vậy ra cậu là một phần của Biệt đội C. Cơn mưa đó! Tôi chưa bao giờ thấy cơn mưa nào lớn thế, hay cả sau này cũng vậy. Cậu đã ở đâu?”
“Ở mặt trận phòng thủ phía Tây.”
“Tôi đã đối mặt với Quân đoàn II Thuộc địa Pháp.”
“Chúng tôi chạm trán quân Mỹ,” Paul nói, lục lọi thật nhanh những hồi ức hai thập niên trước.
“À, Đại tá George Patton! Ông ta đúng là một người điên rồ và tuyệt vời. Ông ta rải quân lính ra khắp chiến trường. Còn những chiếc xe tăng của ông ấy! Chúng bất thần xuất hiện như thể dưới đất chui lên. Chúng tôi không bao giờ biết được tiếp theo ông ta sẽ tấn công vào đâu. Không một tên lính bộ binh nào khiến tôi gặp rắc rối hết. Nhưng còn xe tăng thì…” Ông ta lắc đầu, nhăn nhó.
“Vâng, đó đúng là một trận chiến ác liệt.”
“Nếu đó là vết thương duy nhất thì cậu gặp may đấy.”
“Thượng Đế phù hộ cho tôi mà, đúng thế đấy,” Paul hỏi, “Ông có bị thương không?”
“Một mảnh đạn còn nằm trong bắp chân. Tôi mang nó đến tận ngày nay. Tôi cho cháu trai tôi xem vết thương rồi. Nó có hình dạng như đồng hồ cát ấy. Nó chạm tay vào vết thương sáng bóng rồi cười như nắc nẻ. Ôi, cái quãng thời gian đó.” Ông ta nhấp một ngụm rượu từ lọ bẹt nhỏ. “Nhiều người đã mất bạn bè tại St. Mihiel. Tôi thì không. Bạn bè tôi đã chết hết trước đó rồi.” Ông ta im lặng rồi chìa lọ rượu bẹt mời Paul, gã lắc đầu.
Morgan bước ra khỏi quán cà phê, vẫy tay ra hiệu.
“Tôi phải đi rồi,” Paul nói với người đàn ông. “Một cuộc gặp gỡ thú vị với người bạn cựu chiến binh để cùng nhau chia sẻ.”
“Đúng.”
“Chúc ngài một ngày tốt lành. Hail Hitler. “À, phải rồi. Hail Hitler.”
Paul đến bên cạnh Morgan, ông ta nói. “Bây giờ, anh ta có thể gặp chúng ta.”
“Ông không nói với anh ta lý do tại sao tôi cần súng đấy chứ?”
“Không, ít nhất là không nói thật. Anh ta nghĩ cậu là người Đức và cậu muốn giết một tên trùm tội ác tại Frankfurt đã lừa gạt cậu.”
Hai người tiếp tục đi lên phố qua 6, 7 khối nhà nữa, vùng này ngày càng trở nên xấu xí hơn, cho đến khi họ tới một cửa hiệu cầm đồ. Các nhạc cụ, va li, dao cạo, đồ trang sức, búp bê và hàng trăm thứ khác chất đầy các ô cửa sổ mờ, có chấn song sắt. Một tấm biển “Đóng cửa” được gắn lên cửa ra vào. Họ chỉ đợi vài phút trong tiền sảnh trước khi một người đàn ông lùn, hói đầu xuất hiện. Anh ta gật đầu với Morgan, không chú ý đến Paul, nhìn ngắm xung quanh rồi cho họ vào trong. Anh ta liếc nhìn sau lưng, đóng rồi khóa cửa ra vào, sau đó kéo rèm xuống.
Họ bước thêm vào trong cửa tiệm mốc meo, đầy bụi. “Đi lối này.” Chủ cửa hàng dẫn họ đi qua cánh cửa ra vào dày, đóng lại rồi cài chốt. Họ đi xuống một cầu thang dài dẫn vào một tầng hầm ẩm thấp, chỉ thắp sáng bằng hai bóng đèn nhỏ màu vàng. Khi đôi mắt gã đã quen với ánh sáng mờ, Paul nhận thấy có hơn hai chục khẩu súng trường xếp trên giá tựa vào tường.
Anh ta trao cho Paul một khẩu phía trên gắn kính ngắm viễn vọng. “Đó là khẩu Mauser Karabiner. Đạn 7,92mm. Khẩu này có thể tách ra nên dễ dàng mang theo trong va li. Nhìn ống ngắm đi. Loại ống ngắm quang học tốt nhất thế giới.”
Người đàn ông bật một công tắc, những ngọn đèn thắp sáng đường hầm có lẽ phải dài đến 30 mét. Phía cuối đường hầm là những túi cát, gắn trên một trong các túi cát là một hồng tâm bằng giấy.
“Đây là một đường hầm cấp nước được đào xuyên lòng đất nhiều năm hước, cách âm hoàn toàn.”
Paul cầm khẩu súng trường bằng cả hai tay. Gã cảm thấy lớp gỗ mềm mại trên báng súng được đánh véc-ni có màu cát. Ngửi mùi thơm của dầu và creosote*, mùi da dây đai súng. Gã hiếm khi dùng súng trường trong công việc của mình, sự kết hợp của những mùi hương, lớp gỗ và kim loại rắn chắc gợi gã nhớ về ngày xưa. Gã có thể ngửi thấy mùi bùn của những chiến hào, mùi phân, mùi khói dầu hỏa. Cả mùi hôi thối của cái chết, giống như mùi bìa carton ẩm ướt, thối rữa.
“Đây cũng là những viên đạn đặc biệt, đầu đạn được làm lõm như anh có thể thấy. Chúng có khả năng gây sát thương hơn đạn tiêu chuẩn.”
Paul bắn chay khẩu súng vài lần để có cảm xúc với cò súng. Gã gói các viên đạn vào tờ báo rồi ngồi xuống một chiếc ghế dài, tựa khẩu súng trường lên một súc gỗ bọc vải. Gã bắt đầu nổ súng. Tiếng súng nghe chói tai nhưng gã hầu như không để ý. Paul chỉ nhìn chằm chằm qua ống ngắm, tập trung vào những chấm đen của hồng tâm. Gã điều chỉnh ống ngắm một chút, rồi chậm rãi bắn hai mươi viên còn lại trong hộp đạn.
“Tốt đấy,” gã nói to vì tai gã ù đặc. “Một vũ khí tốt.” Gật đầu, gã trao lại khẩu súng trường cho chủ hiệu cầm đồ. Anh ta tháo nó ra, lau sạch rồi gói khẩu súng cùng hộp đạn vào hộp đựng bằng sợi thủy tinh.
Morgan một tay cầm hộp đựng súng, một tay trao phong bì cho chủ hiệu. Anh ta tắt đèn trong hầm rồi dẫn họ lên gác. Sau khi gật đầu ra hiệu an toàn lúc nhìn ra ngoài, hai người nhanh chóng bước ra, tản bộ xuống phố. Paul nghe thấy một giọng nói khá vang trên phố. Morgan phá lên cười. “Cậu không thoát được đâu.” Bên kia đường, tại một trạm dừng tàu điện ngầm, giọng đều đều của một người đàn ông cứ thế phát ra trên loa - lại thêm thông tín về sức khỏe công cộng. “Chúng không bao giờ ngừng hay sao vậy?”
“Không, chúng không ngừng đâu,” Morgan đáp. “Khi chúng ta nhìn lại, đó sẽ là đóng góp của Chủ nghĩa Phát xít vào nền văn hóa: những tòa nhà xấu xí, tác phẩm điêu khắc bằng đồng dở òm và những bài diễn văn bất tận…” Ông hất đầu về phía chiếc hộp đựng khẩu Mauser. “Bây giờ, hãy quay lại quảng trường, gọi cho liên lạc của tôi. Để xem anh ta có tìm được đủ thông tin không, để cậu có thể xài món vũ khí Đức này.”
Chiếc DKW đầy bụi tiến lên Quảng trường Tháng 11 năm 1923. Do không thể tìm được bãi đỗ xe trên con phố nhộn nhịp, chiếc xe suýt đâm phải một người bán hoa quả đáng ngờ khi đang tấp vào lề đường.
“Chà tới nơi rồi, Janssen,” Willi Kohl nói, đưa tay áo lau mặt. “Khẩu súng ngắn của cậu tiện đấy.”
“Vâng, thưa sếp.”
“Thế thì đi săn thôi.”
Họ xuống xe.
Mục đích viên thanh tra chuyển hướng sau khi rời khỏi khu ăn ở tập thể của đoàn Mỹ, đó là nhằm thẩm vấn các tài xế taxi đỗ bên ngoài làng Thế vận hội. Với sự nhìn xa trông rộng của Chủ nghĩa Phát xít điển hình, chỉ tài xế taxi nào nói được nhiều thứ tiếng mới được phép phục vụ làng. Tức là con số này rất ít, rằng họ sẽ quay về làng sau khi đón trả khách. Kohl suy luận, chính điều này cũng có nghĩa là một trong số bọn họ có khả năng đã chở nghi phạm đi đâu đó.
Sau khi hai người chia nhau đi thẩm vấn và nói chuyện với hơn hai chục tài xế taxi, Janssen tìm được một người có câu chuyện thực sự khiến Kohl thích thú. Vị khách đó đã rời khỏi làng Thế vận hội không lâu trước đó, xách theo một va li và một ba lô cũ màu nâu. Hắn có tầm vóc cao lớn và nói trọng âm nhẹ. Hình như hắn không có tóc mai dài cũng như pha hung đỏ. Nhưng tóc đen, bóng và để dài sau gáy. Kohl suy luận có thể nhờ dầu gội hoặc tinh dầu. Anh ta nói hắn không mặc comple mà mặc quần áo thường sáng màu, cho dù không thể mô tả chi tiết được.
Người đó xuống xe tại Lützow Plaza rồi hòa vào đám đông. Đó là một trong những giao lộ đông và nhộn nhịp nhất thành phố, có rất ít hy vọng tìm được dấu vết nghi phạm ở đó. Tuy nhiên, anh ta nói thêm rằng hắn đã hỏi đường đến Quảng trường Tháng 11 năm 1923, hỏi xem có thể đi bộ tới đó từ Lützow Plaza được không.
“Hắn có hỏi gì thêm về quảng trường không? Có gì cụ thể không? Công việc của hắn? Các đồng chí hắn đang hy vọng sẽ gặp? Bất kỳ điều gì?”
“Không, Thanh tra ạ. Chẳng hỏi gì cả. Tôi có bảo anh ta rằng sẽ phải đi xe đạp khá xa đến quảng trường. Anh ta cảm ơn tôi rồi xuống xe. Chỉ thế thôi. Tôi không nhìn được mặt anh ta,” tay tài xế giải thích. “Tôi còn phải nhìn đường.”
Mù lòa, dĩ nhiên rồi, Kohl cay đắng nghĩ.
Họ quay về trụ sở nhận những thông báo in ra về nạn nhân ngõ Dresden. Xem xong họ chạy bổ đến chỗ này, công trình tưởng niệm vinh danh cuộc đảo chính thất bại năm 1923 (chỉ có những kẻ theo Chủ nghĩa Phát xít mới biến một thất bại nhục nhã đến thế thành một vinh quang tuyệt đối). Trong khi Lützow Plaza quá rộng không thể tìm ra mục tiêu hiệu quả, quảng trường này nhỏ hơn nhiều, có thể dễ dàng đi hỏi han.
Kohl lúc này ngắm mọi người ở đây: những người ăn xin, bán hàng, gái điếm, chủ cửa hàng, người thất nghiệp và phụ nữ trong các quán cà phê nhỏ. Ông hít sâu bầu không khí chứa đầy mùi hăng và nồng của rác rưởi, rồi hỏi. “Cậu có cảm nhận được con mồi của chúng ta gần đây không, Janssen?”
“Tôi…” Tay trợ lý dường như thấy khó chịu với nhận xét này.
“Đó là một cảm giác,” Kohl nói, quét mắt qua con phố khi ông đứng dưới cái bóng của bức tượng đồng Hitler đầy thách thức, can đảm. “Bản thân tôi cũng không mê tín. Còn cậu?”
“Không hẳn, thưa sếp. Tôi không phải là người theo tôn giáo, nếu ý sếp là thế.”
“Tôi cũng có theo tôn giáo nào đâu. Heidi sẽ không ủng hộ chuyện đó. Nhưng điều tôi đang nói đó là ảo ảnh của tinh thần dựa trên những cảm nhận và trải nghiệm. Và tôi bây giờ đang có cảm xúc đó. Hắn ở gần đây.”
“Vâng, thưa sếp,” tay thanh ưa học việc nói. “Tại sao sếp nghĩ thế?”
Một câu hỏi thích hợp, Kohl nghĩ. Ông tin rằng những thanh tra trẻ phải luôn luôn đặt câu hỏi với người dạy mình. Ông giải thích, bởi vì vùng này là một phần của phía Bắc Berlin. Ở đây, cậu có thể tìm thấy số lượng lớn những Người Cộng sản, người theo Chủ nghĩa Xã hội gần gũi, thất nghiệp, nghèo khổ và bị thương trong Thế Chiến thứ I và cả các băng nhóm Cướp biển Edelweiss chống Đảng, những tên trộm vặt và là nơi những người ủng hộ lao động ẩn náu sau khi các công đoàn sống ngoài vòng pháp luật. Đến sinh sống ở đây là những người Đức tiếc nhớ vô cùng những thuở ban đầu: dĩ nhiên, không phải là Weimar (chẳng ai thích nền Cộng hòa cả), mà là họ tiếc nhớ vinh quang của nước Phổ, của Wilhelm và của Đế Chế Thứ Hai. Điều này có nghĩa họ là một vài thành viên của Đảng và những người thông cảm với họ. Do đó, vài kẻ tố giác sẵn sàng chạy đi mách lẻo cho Gestapo hoặc đơn vị đồn trú của lực lượng Xung Kích địa phương.
“Dù hắn muốn làm bất kỳ việc gì, hắn sẽ phải đến những nơi như thế này để tìm kiếm sự hỗ trợ và các đồng chí. Lùi lại chút,Janssen. Luôn luôn dễ dàng để ý người đang tìm kiếm nghi phạm, như chúng ta, hơn là nhận ra chính tên nghi phạm đó.”
Cậu ta đến đứng trong bóng râm một cửa hàng bán cá, với những thùng cá đang bốc mùi gần như trống rỗng. Những con lươn ôi thiu, cá chép và cá hồi sống trong kênh đào ốm yếu, xanh xao là tất cả những gì cửa hàng này bán. Hai sĩ quan dò xét các con phố một lúc lâu, tìm kiếm con mồi của họ.
“Giờ chúng ta hãy nghĩ xem, Janssen. Hắn xuống taxi tại Lützow Plaza - có mang theo va li - và cái ba lô gây tranh cãi. Không có xe nào chở hắn đi thẳng đến đây từ làng Thế vận hội, có lẽ vì hắn đã để lại đồ đạc của hắn tại nơi giờ đây hắn đang ở và hắn đến đây nhằm mục đích khác. Tại sao? Để gặp gỡ ai đó? Để giao cái gì đó, có lẽ là cái ba lô? Hay để thu thập cái gì đó hay ai đó? Hắn đã đến làng Thế vận hội, ngõ Dresden, Khu Vườn Mùa Hạ, Phố Rosenthaler, Lützow Plaza và giờ hắn đến đây? Tôi tự hỏi. Điều gì đã liên kết tất cả những bối cảnh này lại với nhau?”
“Chúng ta sẽ khảo sát cả các cửa tiệm và cửa hàng chứ?”
“Tôi nghĩ chúng ta phải làm thế. Nhưng tôi nói cậu nghe, Janssen. Mối bận tâm về đồ ăn giờ mới là nghiêm trọng đấy. Tôi thực sự cảm thấy hơi váng đầu. Trước tiên, chúng ta sẽ đi tìm quán cà phê, đồng thời đi ăn cái gì đó luôn.”
Những ngón chân trong giày của Kohl uốn cong vì đau đớn. Lớp lông cừu đã rách hết, hai bàn chân ông một lần nữa lại nhức nhối. Ông hất đầu sang nhà hàng gần nhất, nơi ông đã đỗ xe trước cửa, Quán cà phê Edelweiss. Họ liền bước vào trong quán.
Đây là một nơi bẩn thỉu. Kohl để ý những ánh mắt xua đuổi như lời chào điển hình sự có mặt của một quan chức. Khi họ nhìn khắp lượt những khách hàng quen, xem có cơ hội nào nghi phạm New York Manny của họ tình cờ ngồi đây, Kohl trình thẻ cho một bồi bàn, cậu ta không ngừng búng ngón tay kêu gọi sự chú ý. “Hail Hitler. Tôi có thể giúp gì?”
Trong quán rượu đầy khói thuốc này, Kohl nghi ngờ ai đó từng biết đến chức danh ông chủ, nên ông đề nghị gặp quản lý.
“Ông Grolle, vâng, thưa sếp, tôi sẽ gọi ông ấy ngay. Xin sếp vui lòng ngồi bàn này ạ. Nếu hai sếp muốn dùng cà phê hay ăn món gì đó, xin cứ cho tôi biết.”
“Tôi sẽ dùng cà phê và ăn bánh táo tẩm đường. Có lẽ là một miếng to gấp đôi. Còn đồng nghiệp của tôi?” Ông nhướn mày nhìn Janssen.
“Chỉ uống Coca-Cola thôi.”
“Kem đặc với bánh táo chứ?” tay quản lý hỏi.
“Dĩ nhiên rồi,” Willi Kohl nói bằng một giọng gây ngạc nhiên, như thể nói mà không có cái giọng ấy là một sự thiếu tôn kính.
Khi quay về Quán cà phê Edelweiss từ chỗ tay lái súng, nơi Morgan sẽ gọi cho liên lạc của ông tại Bộ Thông tin, Paul hỏi, “Anh ta sẽ gửi cho chúng ta thông tin gì? Về tuyến đường đi của Ernst à?”
“Anh ta nói với tôi rằng Goebbels cứ một mực muốn biết tất cả các quan chức cấp cao sẽ xuất hiện ở đâu trước đám đông. Sau đó, lão ta quyết định điều quan trọng là phải có đội quay phim, hay một thợ chụp ảnh có mặt để ghi lại sự kiện đó.” Ông bật ra tiếng cười chua chát. “Mà cậu phải đi xem phim Munity on the Bounty, chứ đừng có xem cái phim hoạt hình Chuột Mickey cho đến hai mươi phút phim chán ngắt Hitler ru trẻ con, Göring diễu hành trong những bộ quân phục lố bịch, trước mặt cả ngàn công nhân Sở Lao động.”
“Và Ernst sẽ nằm trong danh sách đó?”
“Tôi hy vọng thế. Tôi nghe nói tên Đại tá không kiên nhẫn lắm với khoản tuyên truyền. Hắn ta ghê tởm Goebbels cũng nhiều như Göring. Nhưng hắn đã học được cách chấp nhận luật chơi. Người ta không thành công trong Chính phủ ở thời buổi này và ở tầm tuổi này nếu không chấp nhận luật chơi.”
Khi đến gần Quán cà phê Edelweiss Paul để ý một chiếc xe màu đen rẻ tiền đang đỗ trên lề đường gần bức tượng Hitler, trước cửa nhà hàng. Detroit dường như vẫn có chỗ đứng trong ngành công nghiệp ô tô Đức. Trong khi gã từng thấy một số mẫu Mercedes và BMW tuyệt đẹp, hầu hết xe tại Berlin đều giống chiếc này, vuông vắn và rách nát. Khi nào quay về Mỹ và nhận được 10.000 đô la, gã sẽ sắm cho mình con xế trong mơ của gã, một con Lincoln đen sáng bóng. Marion hẳn sẽ trông đẹp nhất trong con xe đó.
Paul bất ngờ cảm thấy khát khô cổ. Gã quyết định sẽ chọn bàn trong khi Morgan gọi điện thoại. Quán cà phê dường như chuyên phục vụ món bánh nướng và cà phê, nhưng vào một ngày nóng như thế này, những món ấy không lý tưởng đối với gã. Không, gã quyết định sẽ tiếp tục học hỏi tính mỹ thuật trong sản xuất bia của người Đức.
creosote: Một loại hóa chất dùng để bảo quản gỗ