CHƯƠNG 18
Cho dù có là một kẻ “lãnh đạm” - trung lập về chính trị, không phải một Đảng viên - Willi Kohl vẫn thích những ưu tiên nhất định được dành cho những tên Quốc Xã nhiệt tình.
Một trong số những ưu tiên đó là khi Kohl, một quan chức Cảnh sát Hình sự chuyển đến Munich, ông đã có cơ hội nhận được một căn hộ bốn phòng ngủ lớn trong một ngõ cụt có hai hàng cây đoạn còn mới nguyên đối diện phố Berliner, gần Charlottenburg. Berlin vốn từng trải qua sự thiếu hụt nhà ở nghiêm trọng từ thời Thế Chiến thứ I, hầu hết các thanh tra Cảnh sát Hình sự, ngay cả nhiều người cùng chức vụ như ông, đều được giao cho những căn hộ có phòng trống vuông vắn, không có gì nổi bật, liền kề với những căn hộ trong tình trạng tương tự.
Kohl không hoàn toàn chắc chắn tại sao ông được đặc cách như thế. Nhiều khả năng nhất là vì ông luôn sẵn sàng giúp các sĩ quan đồng nghiệp phân tích thông tin hiện trường tội ác, đưa ra những suy luận từ bằng chứng, hoặc thẩm vấn một nhân chứng hay nghi phạm. Kohl biết rằng con người có giá trị nhất trong bất kỳ công việc nào, đó là người có thể khiến các đồng nghiệp của mình - và đặc biệt là các cấp trên - cũng trở nên có giá trị như thế.
Những căn phòng này là thánh đường của ông. Chúng riêng tư, kín đáo như nơi làm việc của ông, chỉ dành riêng cho những người thân thiết nhất trong trái tim ông: vợ ông, lũ nhóc và đôi khi (luôn ngủ trong phòng khách, dĩ nhiên), vị hôn phu của Charlotte, Heinrich.
Căn hộ nằm trên tầng hai và khi nhăn nhó bước lên cầu thang, ông có thể ngửi thấy mùi hành và thịt. Heidi chẳng có lịch cố định nào trong việc chuẩn bị đồ ăn cả. Một số đồng nghiệp của Kohl long trọng tuyên bố những ngày thứ Bảy, thứ Hai và thứ Tư chẳng hạn sẽ là những ngày Không Ăn Thịt Bày Tỏ Sự Trung Thành Với Nhà Nước. Gia đình Kohl, ít nhất vẫn trải qua ngon lành bảy ngày không có thịt thường xuyên, do khan hiếm cũng như giá cả đắt đỏ, nhưng Heidi không chịu bó buộc theo cái luật đấy. Tối thứ Bảy tuần này, họ có thể ăn cà tím với thịt lợn muối xông khói trong món súp kem, hoặc bánh pudding bầu dục hoặc bò nhúng dấm, hay thậm chí một đĩa mì ống theo phong cách Ý với cà chua. Luôn luôn là món ngọt, dĩ nhiên. Willi Kohl ưa thích món bánh quy linzertorte và bánh táo nướng tẩm đường.
Thở khò khè do phải leo cầu thang, ông vừa mở cửa thì Hanna, mười một tuổi lao đến bên ông. Con bé gốc gác Nordic bé bỏng này mang mái tóc vàng óng, bất chấp bố mẹ nó tóc nâu. Con bé ôm choàng lấy người cha to lớn. “Bố! Con mang tẩu cho bố được không?”
Ông rút ra chiếc tẩu bằng đất sét trắng đưa cho con bé. Nó mang chiếc tẩu đến đặt trên giá bên cạnh hàng tá chiếc tẩu khác.
“Anh về rồi,” ông gọi.
Heidi bước ra cửa ôm hôn chồng vào cả hai má. Bà trẻ hơn ông vài tuổi, thân hình trở nên phì nhiêu theo năm tháng, đã xuất hiện lớp thịt mềm dưới cằm và bộ ngực thêm nảy nở, cứ mỗi đứa con ra đời, bà lại tăng thêm vài ký. Nhưng điều này cũng là lẽ tự nhiên, Kohl cảm thấy mình cũng cần phải già đi, cả về tâm hồn lẫn thể chất, với người bạn đời. Với năm đứa con, bà được Đảng tặng giấy chứng nhận. (Các phụ nữ càng sinh nhiều con càng được tôn trọng hơn, nếu sinh đến chín đứa, bạn sẽ được tặng ngôi sao vàng. Thực ra, một cặp vợ chồng có ít hơn bốn đứa con, sẽ không được phép tự xưng mình là một “gia đình”.) Nhưng Heidi lại giận dữ mỗi lần nhét thêm một tờ giấy da vào ngăn tủ của mình. Bà sinh con bởi vì bà yêu thương chúng, yêu thương mọi thứ ở chúng - ban cho chúng cuộc sống, nuôi dưỡng chúng, định hướng con đường cho chúng - không phải vì ước muốn tăng dân số ĐỆ TAM ĐẾ CHẾ của Little Man.
Vợ ông biến mất rồi một lúc sau đó quay lại, mang theo một cốc rượu snap hẹp miệng. Bà chỉ dành cho ông một cốc thứ đồ uống hiệu nghiệm này trước bữa tối. Đôi khi ông phàn nàn về khẩu phần khiêm tốn này, nhưng lại bí mật vui vẻ chấp nhận nó. Ông biết quá rõ nhiều cảnh sát viên không chỉ dừng lại ở cốc thứ hai. Hoặc chai thứ hai.
Ông chào Hilde, cô gái 17 tuổi, lúc nào cũng cắm mặt vào sách. Con bé đứng dậy ôm chầm lấy ông, rồi lại ngồi xuống đi văng. Cô gái yểu điệu, thướt tha này là học giả của cả nhà. Nhưng dạo gần đây con bé đang trải qua giai đoạn khó khăn. Chính Goebbels đã nói rằng mục đích duy nhất của một người phụ nữ, đó là trờ nên xinh đẹp và sinh thật nhiều con cho ĐỆ TAM ĐẾ CHẾ. Phần đa các trường đại học giờ đây đã đóng cửa đối với nữ sinh và những ai đã được nhận vào trường chỉ được học hai khóa: khoa học nội trợ (thường bị gọi bằng cái tên khinh miệt là “bằng cấp pudding”) hoặc giáo dục. Tuy nhiên, Hilde lại muốn được học toán, khoa học và về cơ bản là muốn trở thành một giáo sư đại học. Nhưng con bé sẽ chỉ được phép dạy cho những lớp thấp hơn. Kohl tin rằng cả hai cô con gái lớn của ông đều thông minh như nhau. Nhưng việc học hành dễ dàng đối với Hilde hơn Charlotte sôi nổi, hoạt bát và mạnh mẽ, lớn hơn Hilde bốn tuổi. Ông thường kinh ngạc khi thấy mình và Hilde là hai người vừa giống nhau nhưng cũng lại quá khác nhau đến thế.
Thanh tra bước ra ban công nhỏ, nơi đôi khi ông sẽ ngồi hút tẩu thuốc vào đêm muộn. Ban công nhìn ra phía Tây, giờ đây ông nhìn chằm chằm những đám mây màu cam đầy đe dọa, sáng chói dưới ánh tà dương. Ông nhấp một ngụm nhỏ rượu snap cay xè. Nhấp ngụm thứ hai thì đỡ hơn, ông khoan khoái ngồi xuống ghế, cố gắng không nghĩ đến người đàn ông béo ú đã chết, đến những cái chết bi thảm tại Gatow và Charlottenburg, về Pietr Krauss - tha lỗi cho tôi, Peter, về những bí ẩn đang cuộn xoáy của DeHoMags dưới tầng hầm trụ sở Cảnh sát Hình sự. Cố gắng không nghĩ đến nghi phạm New York đội mũ Manny thông minh của họ.
Mày là ai?
Một tiếng la hét từ phía hành lang trước. Mấy thằng nhóc đã về. Tiếng bước chân dậm thình thịch trên cầu thang. Herman bé hơn là đứa đầu tiên bước qua cửa và để cửa mở cho Günter. Thằng anh khóa cửa rồi bắt đầu lao vào thằng em. Khi hai thằng nhóc nhìn thấy bố, trò đấu vật dừng ngay tắp lự.
“Bố!” Herman hét lên ôm chầm lấy bố. Günter ngẩng đầu lên chào. Thằng nhóc 16 tuổi không còn ôm chầm lấy bố mẹ chính xác là từ 18 tháng trước. Kohl cho rằng mấy cậu con trai hành xử theo quy trình kể từ thời của Otto I, nếu không phải là mãi mãi.
“Hai đứa đi tắm đã,” Heidi nói.
“Nhưng bọn con bơi rồi mà, ở bể bơi Phố Wilhelm Marr.”
“Rồi,” bố chúng nói thêm, “giờ hai đứa tắm sạch nước bể bơi đi.”
“Bữa tối ăn gì thế hả mẹ?” Herman hỏi.
“Con càng tắm nhanh bao nhiêu,” bà tuyên bố, “con sẽ càng sớm biết.”
Chúng lao như tên bắn xuống hành lang, lối di chuyển thảm họa của trẻ vị thành niên.
Một lúc sau, Heinrich đến cùng Charlotte. Kohl thích anh chàng này (ông sẽ chẳng bao giờ gả con gái cho người ông không tôn trọng). Nhưng sự đam mê của anh chàng tóc vàng đẹp trai này với công việc của cảnh sát thúc giục cậu ta hỏi han Kohl một cách nhiệt tình, chi tiết những vụ án gần đây. Bình thường thì thanh tra vui sướng trước điều này, nhưng điều cuối cùng ông muốn đó là nói về thời của ông. Kohl đã nhắc đến Thế vận hội - một hướng đổi chủ đề đối thoại chắc chắn. Ai ai cũng nghe những lời đồn khác nhau về các đội tuyển, những vận động viên yêu thích và nhiều quốc gia tham dự.
Không lâu sau đó, tất cả cùng ngồi trong phòng ăn, Kohl khui hai chai rượu vang Saar-Ruwer, một tập quán của gia đình Kohl theo nhiều cách khác nhau. Đây là một trong những thời điểm yêu thích của viên thanh tra trong ngày. Được ở bên cạnh những người bạn yêu thương… và có thể nói chuyện một cách thoải mái. Khi mọi người cùng nói chuyện, cùng cười và tranh luận, Kohl nhìn hết khuôn mặt này đến khuôn mặt khác. Đôi mắt ông luân chuyển rất nhanh, lắng nghe những giọng nói, quan sát những cử chỉ và nét mặt. Ai đó có thể nghĩ việc này diễn ra thật tự nhiên, suốt bao nhiêu năm ông làm cảnh sát. Nhưng thực tế là không. Ông đã quan sát và rút ra kết luận rằng, đây là một khía cạnh trong vai trò làm cha mẹ. Tối nay, ông để ý thấy một việc khiến ông phiền lòng nhưng ông chỉ lưu lại trong tâm trí, như cách ông moi thông tin từ một hiện trường tội ác.
Bữa tối kết thúc tương đối sớm, khoảng một tiếng, cái nóng làm phai nhạt đi khẩu vị của mọi người, ngoại trừ Kohl và hai cậu nhóc. Heinrich đề nghị chơi bài. Nhưng Kohl lắc đầu. “Với bố thì không, bố sẽ hút thuốc,” ông tuyên bố, “Và xoa bóp bàn chân, bố nghĩ vậy. Günter này, mang cho bố một ấm nước nóng.”
“Vâng ạ.”
Kohl lấy một cái chậu ngâm chân và một ít muối. Ông ngồi xuống chiếc ghế da trong phòng riêng, đúng chiếc ghế bố ông đã ngồi sau một ngày dài làm việc trên cánh đồng, châm lửa rồi hút tẩu. Vài phút sau, cậu con trai cả bước vào phòng, dễ dàng mang theo cái ấm đang bốc khói nghi ngút chắc phải nặng đến mười cân bằng một tay. Cậu đổ đầy chậu nước. Kohl xắn tay áo, cởi tất rồi quay mặt đi không dám nhìn nốt viêm tấy ở kẽ ngón chân cái và những vết chai màu vàng. Ông ngâm chân vào nước nóng rồi cho thêm muối.
“Ái chà.”
Thằng bé quay lưng đi, nhưng Kohl gọi lại, “Günter, chờ chút.”
“Vâng ạ.”
“Ngồi xuống đi.”
Thằng bé thận trọng làm theo, đặt ấm nước xuống sàn nhà. Trong đôi mắt nó thoáng qua vẻ tội lỗi của thiếu niên. Kohl thích thú tự hỏi những tội lỗi gì đang lướt qua tâm trí thằng bé. Hút thuốc, uống một ít rượu snap, mò mẫm khám phá đống đồ lót của Lisa Wagner trẻ trung?
“Günter, có chuyện gì thế? Có chuyện khiến con buồn trong bữa tối. Bố thấy rồi.”
“Không có gì đâu bố.”
“Không có gì à?”
“Không ạ.”
Bằng một giọng mềm mại nhưng kiên quyết, Willi Kohl nói, “Con nên nói cho bố biết.”
Thằng bé đưa mắt nhìn sàn nhà, cuối cùng nó nói, “Sắp phải đi học lại rồi ạ.”
“Trong một tháng thì chưa đâu.”
“Nhưng… Bố ạ, con đang hy vọng. Có thể chuyển cho con sang trường khác không?”
“Nhưng tại sao? Hindenburg là một trong những trường tốt nhất thành phố. Hiệu trưởng Muntz rất được tôn trọng.”
“Xin bố đấy.”
“Có chuyện gì thế?”
“Con không biết. Chỉ là con không thích.”
“Điểm số của con rất tốt. Các giáo viên của con nói con là một học sinh giỏi.”
Thằng bé không nói gì.
“Còn chuyện gì khác ngoài những bài học à?”
“Con không biết.”
Có thể là chuyện gì nhỉ?
Günter nhún vai. “Xin bố, con không thể đến trường khác cho tới tháng 12 ạ?”
“Tại sao lại là lúc đó?”
Thằng bé không trả lời, lảng tránh ánh mắt bố.
“Nói cho bố nghe đi,” Kohl hiền từ nói.
“Vì…”
“Nói tiếp đi.”
“Vì vào tháng 12, ai ai cũng phải gia nhập Đoàn thanh niên Hitler. Và bây giờ… bố sẽ không cho phép con tham gia.”
À, lại chuyện này. Một vấn đề cũ tái diễn. nhưng đây có đúng là thông tín mới không? Phải chăng Đoàn thanh niên Hitler là bắt buộc? Một ý nghĩ khủng khiếp. Sau khi Đảng Quốc Xã lên nắm quyền, chúng đã tập hợp nhiều nhóm thanh niên Đức vào Đoàn thanh niên Hitler, những nhóm khác bị loại bỏ. Kohl tin rằng các tổ chức của trẻ con - hồi ở tuổi thiếu niên, ông đã từng tham gia các câu lạc bộ bơi lội và đi bộ đường dài mà ông rất yêu mến - nhưng Đoàn thanh niên Hitler chẳng khác gì một tố chức huấn luyện quân sự tiền quân đội, do đích thân những đứa nhóc điều hành và chỉ huy, không hơn, những tên lãnh đạo nhóc tỳ của Quốc Xã càng tàn bạo bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.
“Và bây giờ con muốn tham gia?”
“Con không biết. Bạn nào cũng trêu con vì không phải là một thành viên. Tại sân bóng ngày hôm nay, Helmut Gruber đã ở đó. Anh ấy là đội trưởng Đoàn thanh niên Hitler, anh ấy bảo tốt hơn con nên tham gia sớm.”
“Nhưng con không thể là người duy nhất không phải là thành viên.”
“Mỗi ngày lại thêm nhiều người tham gia,” Günter trả lời. “Mấy đứa bọn con không phải là thành viên đều bị đối xử tồi tệ. Khi bọn con chơi trò Aryan và Do Thái trên sân trường, con luôn là người Do Thái.”
“Con chơi cái gì?” Kohl nhíu mày. Ông chưa từng nghe đến nó.
“Bố biết mà, trò chơi Aryan và Do Thái. Chúng đuổi theo tụi con. Chúng được dặn không được gây thương tích cho tụi con - Giáo sư Tiến sĩ Kindlst nói thế. Chỉ là trò chơi đuổi bắt thôi. Nhưng khi ông ta quay lưng đi, chúng nó đẩy ngã bọn con.”
“Con là chàng trai mạnh mẽ, bố đã dạy con cách tự vệ rồi cơ mà. Con có đẩy lại chúng nó không?”
“Có, thi thoảng ạ. Nhưng bọn nó chọn phe Aryan đông lắm.”
“Bố e rằng con không thể chuyển trường được,” Kohl nói.
Günter nhìn đám khói tẩu thuốc đang bay lên trần nhà. Đôi mắt nó sáng rực. “Con có thể tố cáo ai đó. Có thể như thế chúng sẽ cho con vào phe Aryan.”
Kohl nhíu mày. Đi tố cáo người khác. Một căn bệnh khác của Quốc Xã. Ông kiên quyết nói với con trai, “Con không tố cáo ai hết. Họ sẽ phải vào tù, sẽ bị tra tấn. Hoặc bị giết.”
Günter cau mày trước phản ứng của bố. “Nhưng con sẽ chỉ tố cáo một tên Do Thái thôi mà bố.”
Hai bàn tay ông run lên, tim đập thình thịch. Kohl không tìm được từ nào để nói. Ép mình phải bình tĩnh, cuối cùng ông hỏi, “Con sẽ tố cáo một tên Do Thái, mà chẳng vì lý do gì à?”
Con trai ông có vẻ bối rối. “Dĩ nhiên là không. Con sẽ tố cáo hắn vì hắn là một tên Do Thái. Con đang nghĩ… Bố của Helen Morrell làm việc tại cửa hàng bách hóa Karstadt. Sếp của chú ấy là một người Do Thái nhưng ông ta bảo với mọi người không phải thế. Ông ta phải bị tố cáo.”
Kohl hít một hơi sâu, cân nhắc những từ ngữ của ông như người bán thịt phân chia khẩu phần rồi nói, “Con trai, bây giờ chúng ta sống trong một thời đại khác rồi. Rất rối loạn. Nó hỗn loạn đối với bố và hỗn loạn nhiều hơn thế đối với con. Có một điều mà con phải luôn luôn ghi nhớ - nhưng không bao giờ được phép nói ra - đó là người ta phải tự biết phấn biệt cái gì là đúng, cái gì là sai. Anh ta biết điều này từ những gì anh ta nhìn nhận về cuộc sống, về cách mọi người sinh sống và hành động cùng nhau, về cách anh ta cảm nhận. Tận trong thâm tâm anh ta biết rằng làm gì là đúng, làm gì là tồi tệ.”
“Nhưng người Do Thái là kẻ xấu. Ở trường họ sẽ không dạy tụi con thế nếu điều đó không đúng.”
Tâm trí Kohl run lên trong giận dữ và đau đớn khi nghe câu nói này. “Con sẽ không tố cáo ai hết, Günter,” ông nghiêm khắc nói. “Đó là mong muốn của bố.”
“Được rồi ạ,” thằng bé nói, quay lưng bước đi.
“Günter,” Kohl gọi.
Thằng bé dừng chân trên ngưỡng cửa.
“Ở trường con có bao nhiêu bạn không gia nhập Đoàn thanh niên?”
“Con không đếm được ạ. Nhưng ngày càng nhiều. Không lâu nữa sẽ chẳng còn đứa nào đóng vai Do Thái nữa, ngoài con.”
Nhà hàng Käthe nghĩ đến là quán bar Lutter & Wegner, một nơi cô giải thích là có 100 năm tuổi và nổi tiếng tại Berlin. Những căn phòng tối om, ngập trong khói thuốc và kín đáo. Nơi này giúp tránh được những kẻ Áo Nâu, SS và những tên mặc đồng phục đeo băng tay đỏ có dấu thập ngoặc hình móc câu, kiểu anh-biết-rồi-còn-hỏi.
“Tôi đưa anh tới đây, vì như tôi đã nói, nó từng là nơi hay lui tới của những người như anh và tôi.”
“Cô và tôi?”
“Đúng. Những kẻ phóng túng, yêu hòa bình, các nhà tư tưởng và giống như anh, các ký giả.”
“À, ký giả. Phải rồi.”
“E.T.A. Hoffmann sẽ tìm kiếm cảm hứng ở đây. Ông ta uống sâm panh thừa, cả mấy chai luôn! Rồi sau đó thì viết thâu đêm. Dĩ nhiên anh đã đọc truyện của ông rồi.”
Paul chưa đọc. Nhưng gã vẫn gật đầu.
“Anh có nghĩ ra một nhà văn nào hay hơn trong kỷ nguyên lãng mạn của Đức không? Tôi không nhớ nổi. Cuốn Vua Chuột Và Kẹp Hạt Dẻ - còn đen tối hơn nhiều, thật hơn nhiều so với những gì Tchaikovsky đã làm được. Vở ba lê dựa theo cuốn này được thổi phồng nhiều quá, anh có nghĩ thế không?”
“Nhất định rồi,” Paul đồng tình. Gã nghĩ đến một mùa Giáng Sinh khi còn bé gã đã xem nó. Gã ước rằng mình đã đọc cuốn sách để có thể thảo luận một cách thông thái. Gã thích nói chuyện đơn giản với cô biết bao. Khi họ cùng nhấp ly cocktail, gã nghĩ lại về màn “đấu khẩu” giữa gã với Käthe trên đường đến đây. Gã thật tầm thường với những gì đã nói khi tranh cãi với cô. Hai người đã thật vui. Gã không cho rằng mình có bất hòa nào với Marion suốt những tháng trời họ đi chơi với nhau. Gã thậm chí không thể nhớ nổi có lúc nào cô giận dữ. Đôi khi một đôi tất mới bị phai màu, cô sẽ phun ra nào là “chết tiệt” hoặc “mẹ kiếp.” Sau đó đưa tay lên che miệng như kiểu chuẩn bị hôn gió ai đó - và xin lỗi vì đã chửi thề.
Bồi bàn mang thực đơn đến, họ cùng gọi món chân lợn, mì trứng spaetzle, cải bắp và bánh mỳ (“Chà, bơ thiệt luôn!” cô thì thầm kinh ngạc, nhìn chằm chằm những miếng bơ chữ nhật màu vàng bé xíu). Cô gọi đồ uống là rượu vang trắng ngọt. Họ rất vui vẻ, nói cười suốt thời gian đó. Ăn tối xong, Paul châm thuốc hút. Gã để ý dường như cô đang lưỡng lự. Như thể đang nói với các học sinh, cô bảo, “Hôm nay chúng ta quá nghiêm túc. Tôi sẽ kể một câu chuyện cười.” Giọng cô nhỏ xuống thành lời thì thầm. “Anh có biết Hermann Göring không?”
“Quan chức nào đó trong Chính phủ à?”
“Phải, phải. Hắn ta là đồng chí thân cận nhất của Hitler. Là một lão già. Béo ục ịch. Và hắn ta diễu khắp nơi trong những trang phục kỳ cục, cạnh những người nổi tiếng và các phụ nữ xinh đẹp. Cuối cùng, hắn đã kết hôn vào năm ngoái.”
“Đó là chuyện cười à?”
“Không, chưa. Gã thực sự đã kết hôn rồi. Đây mới là chuyện cười này.” Käthe trề môi quá mức. “Anh có nghe nói đến vợ Göring không? Người đàn bà tội nghiệp đã phải từ bỏ tôn giáo của mình. Chắc anh phải hỏi tôi tại sao.”
“Nói cho tôi biết đi. Tại sao vợ Göring lại phải làm thế?”
“Bởi vì sau đêm tân hôn, bà ta đã không còn tin vào sự hồi sinh của cục thịt đó nữa.”
Họ cùng phá lên cười. Gã thấy khuôn mặt cô đỏ bừng ngượng ngập. “Trời ơi, Paul. Tôi vừa kể một chuyện cười tục tĩu cho một người đàn ông chưa quen biết. Việc này có thể khiến chúng ta đi tù đấy.”
“Không phải chúng ta,” gã nói, mặt nghiêm túc. “Chỉ cô thôi. Tôi có nói gì đâu.”
“À, ngay cả việc cười trước một chuyện cười như thế, anh cũng bị bắt đấy.”
Gã thanh toán hóa đơn rồi họ rời quán rượu, bỏ qua trạm chờ xe buýt và đi bộ quay về nhà trọ, theo vỉa hè dọc ranh giới phía Nam của Tiergarten.
Paul chuếnh choáng say loại rượu gã hiếm khi uống. Cảm giác thật tuyệt, ngon hơn cả rượu whisky ngô cay nồng. Làn gió nhẹ ấm áp khiến gã cảm thấy dễ chịu, cả sức nặng cánh tay của Kàthe khi tựa vào vai gã.
Bước đi bên nhau, hai người tâm sự về những cuốn sách, hoạt động chính trị, tranh cãi một hồi, cười ngặt nghẽo một hồi, cặp đôi trái khoáy này cứ thế lang thang qua những con phố trong thành phố đẹp đến hoàn hảo.
Paul nghe thấy những giọng nói, có mấy người đàn ông tiến về phía họ. Trước mặt khoảng 30 mét, gã trông thấy ba tên lính Xung Kích. Chúng đang cười đùa ầm ĩ. Từ bộ đồng phục nâu, những gương mặt búng ra sữa trông chúng chẳng khác gì những cậu học trò vui vẻ. Không giống những thằng du côn hiếu chiến gã đã hạ gục vào lúc đầu ngày, bộ ba tên này chi muốn hưởng thụ một đêm tuyệt vời. Chúng chẳng buồn chú ý gì đến bất kỳ ai khác trên phố.
Paul cảm thấy Käthe bước chậm lại. Gương mặt cô như mặt nạ, cánh tay cô bắt đầu run rẩy.
“Có chuyện gì thể?”
“Tôi không muốn bước ngang qua chúng.”
“Cô không việc gì phải lo đâu.”
Cô nhìn sang bên trái, hốt hoảng. Giao thông trên phố rất nhộn nhịp, họ chỉ còn cách vạch kẻ đường cho khách bộ hành vài khối nhà nữa. Muốn tránh những tên Áo Nâu, họ chỉ còn duy nhất một lựa chọn: lối Tiergarten.
Gã nói, “Thật đấy, cô an toàn mà. Không cần phải lo.”
“Tôi có thể thấy cánh tay anh, Paul. Tôi có thể cảm thấy anh sẵn sàng đánh nhau với chúng.”
“Đó là lý do tại sao cô an toàn.”
“Không.” Cô nhìn cánh cổng dẫn vào công viên. “Đi lối này.”
Họ rẽ vào công viên. Tán lá dày cản bớt đi rất nhiều âm thanh giao thông, chẳng bao lâu tiếng kêu rinh rích của lũ côn trùng, tiếng gọi ồm ộp của cóc nhái từ dưới hồ lấp đầy màn đêm. Những tên lính Xung Kích tiếp tục đi dọc vỉa hè, chẳng chú ý đến cái gì ngoài cuộc nói chuyện sôi nổi và tiếng hát của chúng. Ba tên đi lướt qua mà không hề liếc vào công viên. Dáng đi của cô gợi Paul nhớ đến cách gã bước đi sau khi gãy xương sườn trong một trận ẩu đả.
“Cô không sao chứ?” gã hỏi. Im lặng.
Cô nhìn quanh, run bắn.
“Ở đây cô có sợ không” gã hỏi. “Có muốn rời khỏi đây không?”
Thế nhưng cô không nói gì. Họ đi đến một ngã tư, một trong số các lối này dẫn họ về bên trái, phía Nam, ra khỏi công viên và quay về nhà trọ. Cô dừng lại. Một lúc sau cô nói, “Đi thôi. Lối này.” Quay lưng đi, Käthe dẫn gã đi sâu hơn vào công viên, phía Bắc, dọc theo những lối đi quanh co. Cuối cùng, họ đến một căn nhà thuyền nhỏ trên mặt hồ. Hàng tá chiếc thuyền cho thuê nằm úp sấp tựa vào nhau. Giờ đây, trong buổi tối nóng nực, khu này vắng tanh.
“Tôi chưa vào Tiergarten đã ba năm rồi,” cô thì thầm.
Paul không nói gì.
Cuối cùng cô nói tiếp. “Người đàn ông chiếm trọn trái tim tôi?”
“Phải. Anh bạn nhà báo của cô.”
“Michael Klein. Anh ấy là phóng viên của tờ Munich Post. Hitler đã bắt đầu ở Munich. Michael theo dõi sự vươn lên của y và viết rất nhiều bài về y, về những chiến thuật của y - dọa dẫm, đánh đập và giết người. Michael giữ một bản mô tả liên tục về những vụ giết người phản đối Đảng. Thậm chí, anh ấy còn tin rằng Hitler cho giết chính cháu gái của y mới ba mươi hai tuổi, chỉ vì y bị ám ảnh với cô ấy nhưng cô ấy đem lòng yêu người khác.
“Đảng cùng bọn lính Xung Kích đã đe dọa anh ấy cùng tất cả mọi người trong tòa báo Munich Post. Chúng gọi tờ báo này là “Căn Bếp Độc Hại.” Nhưng trước khi Quốc Xã lên nắm quyền, chúng không hề đụng đến anh ấy. Thế rồi có một vụ Reichstaghre… À, nhìn đi, anh cũng thấy được đấy. Đằng kia.” Cô chỉ tay về hướng Đông nam. Paul nhìn lướt qua một tòa nhà cao có mái vòm. “Quốc hội của chúng tôi. Chỉ vài tuần sau khi Hitler làm Thủ tướng, ai đó đã châm lửa đốt từ bên trong. Hitler và Göring đổ lỗi cho bên Cộng sản làm và chúng liền ra tay bắt bớ hàng nghìn người Cộng sản, cả Dân chủ Xã hội nữa. Họ bị bắt theo một sắc lệnh khẩn cấp được ban ra. Michael cũng nằm trong số họ. Anh ấy bị đưa đến một trong số các nhà tù tạm thời mọc lên khắp thành phố. Bọn chúng giam anh ấy ở đấy suốt nhiều tuần. Tôi đã hoảng loạn. Không ai nói cho tôi biết đã xảy ra chuyện gì, không ai nói anh ấy ở đâu. Điều đó thật khủng khiếp. Về sau, anh ấy kể với tôi, chúng đánh đập anh ấy, chỉ cho ăn một bữa một ngày là nhiều, bắt anh ấy ngủ trần truồng trên sàn bê tông. Cuối cùng, một thẩm phán thả anh ấy ra vì anh ấy không phạm bất kỳ tội ác nào cả.
“Sau khi được thả, tôi gặp anh ấy tại một căn hộ cách không xa đây lắm. Đó là một ngày mùa xuân tháng Năm, một ngày đẹp tuyệt. Hai giờ chiều. Chúng tôi đi thuê một chiếc thuyền. Ở ngay đây, trên mặt hồ này. Tôi mang theo một ít bánh mỳ ôi cho chim ăn. Chúng tôi đang đứng đó thì bốn tên lính Xung Kích bước đến chỗ chúng tôi, đẩy tôi ngã xuống đất. Chúng đã theo dõi chúng tôi. Chúng nói rằng chúng đang theo dõi anh ấy kể từ lúc anh ấy được thả. Chúng bảo với anh ấy rằng thẩm phán đã hành động trái luật pháp trong việc thả tự do cho anh ấy, rằng bây giờ chúng sẽ thi hành bản án.” Cô nấc nghẹn một lúc lâu. “Chúng đánh anh ấy đến chết ngay trước mắt tôi. Ở ngay đó. Tôi có thể nghe thấy tiếng xương anh ấy bị gãy. Anh thấy đó…”
“Ôi, Käthe. Không…”
“… Anh thấy viên gạch bê tông kia không? Đó là nơi anh ấy ngã xuống. Đúng thế. Viên gạch bê tông thứ tư tính từ bãi cỏ. Đó là nơi đầu Michael gục xuống khi anh ấy chết.”
Gã vòng tay ôm lấy cô. Cô không cưỡng lại. nhưng cô cũng không tìm thấy sự dễ chịu nào trong lần tiếp xúc này, cô đã hóa đá.
“Tháng Năm giờ là tháng tồi tệ nhất,” cô thì thầm. Rồi cô nhìn xung quanh, nhìn vào vòm lá đan kín của cây cối mùa hè. “Công viên này có tên là Tiergarten.”
“Tôi biết.”
Cô nói bằng tiếng Anh, ‘“Tier’ nghĩa là ‘động vật’ hoặc ‘dã thú.’ Và ‘Garten,’ dĩ nhiên là “khu vườn” rồi. Nên đây được gọi là vườn của dã thú, nơi những gia đình hoàng gia của hoàng đế Đức đến đi săn. Nhưng theo tiếng lóng, ‘Tier’ cũng mang nghĩa là kẻ du côn, như kiểu một tên tội phạm. Và đó chính là kẻ đã giết người yêu của tôi, những tên tội phạm.” Giọng cô trở nên lanh lẽo. “Ở đây, ngay trong khu vườn của dã thú này.”
Gã càng ôm cô chặt hơn.
Cô liếc nhìn một lần nữa mặt hồ, rồi vào viên gạch bê tông thứ tư tính từ bãi cỏ. Käthe nói, “Xin anh đưa tôi về nhà đi, Paul.”
Trong tiền sảnh ngoài cửa, họ dừng lại.
Paul thọc tay vào túi gã tìm chìa khóa. Gã nhìn cô. Nhưng Käthe nhìn chằm chằm xuống sàn nhà.
“Chúc ngủ ngon,” gã thì thầm.
“Em đã quên quá nhiều thứ,” cô nói, ngước mắt lên. “Dạo bước qua thành phố, ngắm nhìn những cặp tình nhân trong quán cà phê, kể những câu chuyện cười, ngồi ở nơi những nhà văn, nhà tư tưởng nổi tiếng đã ngồi… niềm vui trong những việc như thế. Em đã quên những niềm vui ấy như thế nào. Đã quên nhiều quá…”
Bàn tay gã lần đến mảnh vải bé xíu che phủ bờ vai cô rồi đến cổ, cảm nhận làn da cô di chuyển trên lớp xương. Mỏng manh thật, gã nghĩ. Quá mỏng manh.
Bàn tay kia của gã ve vuốt mái tóc cô rủ xuống gương mặt. Rồi gã hôn cô.
Bất thần, cô cứng người lại, gã nhận ra mình vừa phạm sai lầm. Cô là người dễ bị tổn thương, đã chứng kiến cảnh người yêu mình phải chết, cô đã bước qua khu vườn dã thú. Gã dợm bước lùi lại nhưng bất thần cô vòng tay quanh người gã, hôn gã thật mạnh, răng cô cắn vào môi gã, gã cảm thấy nó chảy máu. “Ối,” cô nói, choáng váng. “Em xin lỗi.” nhưng gã khẽ bật cười, rồi cô cũng vậy. “Em đã bảo em quên nhiều thứ quá mà,” cô thì thầm. “Em e rằng đây lại là một điều nữa mất đi trong hồi ức của em.”
Gã kéo cô lại gần hơn nữa, họ vẫn đứng trong tiền sảnh tối mờ, hai tay và làn môi họ gấp gáp. Những hình ảnh vụt thoáng qua: một vầng hào quang quanh mái đầu vàng óng của cô từ ngọn đèn sau lung, váy ngủ bằng ren màu kem phủ ngoài áo ngực cũng bằng ren, bàn tay đang tìm kiếm vết sẹo gây ra do viên đạn bắn ra từ khẩu Derringer giấu kín của Albert Reilly, một viên chỉ 22mm nhưng nó bật lại khi chạm vào xưong, đi ra qua một bên bắp tay, tiếng rên rỉ mãnh liệt của cô, hơi thở nóng bỏng, cảm giác sờ vào lụa, sờ vào cotton, bàn tay gã trượt xuống tìm thấy nhũng ngón tay cô đang chờ dẫn dắt gã đi qua từng lớp, tùng lớp quần áo, dây đai rồi nịt bít tất vốn đã mòn xơ cả chỉ được khâu dính vào nhau.
“Vào phòng anh,” gã thì thầm. Trong vài giây, cánh cửa bật mở, hai người lê bước vào trong, nơi bầu không khí dường như nóng hơn cả một hành lang hầm hập.
Giường còn cách xa mấy mét, nhưng đi văng màu hoa hồng với những tay vịn hình chữ M bất thần nằm ngay dưới họ. Gã ngã về phía sau xuống những tấm nệm, nghe thấy tiếng gỗ kêu cót két. Käthe nằm trên người gã, đang ôm siết lấy gã trong đôi cánh tay, như thể nếu cô buông tay, gã có thể chìm nghỉm xuống dưới mặt nước màu nâu của Kênh đào Landvvehr.
Một nụ hôn mạnh bạo, cô vùi mặt xuống cổ gã. Gã nghe thấy tiếng cô thì thầm với mình, với chính cô và với chẳng ai cả, “Đã bao lâu rồi nhi?” Cô bắt đầu điên cuồng cởi cúc áo sơ mi của gã. “Ôi, bao năm rồi, bao năm rồi.”
Ồ, gã nghĩ riêng với gã thì không lâu đến thế. Nhưng khi gã cởi váy của cô, cởi váy ngủ bằng một cử chỉ dịu dàng, đôi bàn tay gã trượt xuống eo lưng cô đang đẫm mồ hôi, gã nhận ra rằng, phải, trong khi mới đây gã đã trải qua những cảm xúc đó, nhưng bất kỳ điều gì giống thế này thì phải bao nhiêu năm rồi gã mới lại cảm thấy.
Thế rồi, hai bàn tay ôm siết lấy gương mặt cô, kéo cô lại gần hơn, gần hơn nữa, hoàn toàn quên đi chính bản thân mình, một lần nữa con người gã lại thay đổi.
Lần này có thể là mãi mãi.