CHƯƠNG 16
Thanh tra Willi Kohl ngồi tại bàn làm nhà Alex tối tăm, đang cố gắng hiểu điều không lý giải nổi, một trò chơi chẳng đâu chơi ngoài những đồn cảnh sát khắp nơi.
Về bản chất, ông đã luôn là kẻ hiếu kỳ, nói cách khác là thấy ngạc nhiên với cách pha trộn đơn giản chì than, lưu huỳnh và nitrate tạo ra thuốc súng, cách những con tàu hoạt động dưới mặt nước như thế nào, tại sao những con chim lại rủ nhau đậu trên các đoạn khác nhau của những đường dây điện tín, điều gì xảy ra trong trái tim con người mà lôi kéo các công dân kia vào cơn điên rồ, khi một tên Quốc Xã ranh mãnh nào đó phát ngôn tại một cuộc mít tinh lớn.
Tâm trí ông hiện đang bận rộn với câu hỏi loại người gì có thể đoạt mạng sống của người khác? Và tại sao?
Và dĩ nhiên, lúc này khi thì thầm thành tiếng từ “Ai?”, ông đang nghĩ đến bức vẽ của tay nghệ sĩ đường phố trên Quảng trường Tháng 11 năm 1923. Janssen giờ đang ở dưới nhà cũng gấp rút in các bức vẽ ra, sau khi in xong bức ảnh nạn nhân. Kohl tự nhủ, dù thế nào đó cũng không phải là bức vẽ tồi. Có những dấu hiệu tẩy xóa các nét vẽ ban đầu không tốt và các chỉnh sửa, tuy nhiên vẫn hiện lên khuôn mặt đặc biệt: quai hàm vuông, đẹp trai, cổ dày, tóc hơi quăn, một vết sẹo trên cằm và một miếng băng dán trên má.
“Mày là ai?” ông thì thầm.
Willi Kohl biết những sự thật: rằng kích cỡ cơ thể, tuổi tác và màu tóc của con người có thể nói lên quốc tịch, thậm chí có thể nói đến thành phố cư trú. Nhưng nhờ những tháng năm làm nhân viên điều tra, ông cũng biết rằng để tìm ra những tội phạm nhất định, ông cần nhiều chi tiết hơn thế. Để thực sự hiểu được chúng, phải cần thêm điều gì đó nữa, những cái nhìn thấu suốt bằng trực giác. Đây là một trong những tài năng tuyệt vời nhất của Kohl. Tấm trí ông đưa ra những liên kết, những bước nhảy đôi khi khiến chính ông phải giật mình. Nhưng giờ đây chẳng có gì sắp xảy ra hết. Điều gì đó về vụ này còn khó hiểu.
Ông lại ngồi xuống, xem những ghi chép của mình khi hút tẩu thuốc nóng (một lợi thế khi làm việc với Cảnh sát Hình sự bị tẩy chay, đó là lệnh cấm hút thuốc của Hitler không đến được những hành lang tội lỗi này). Ông nhả khói lên trần nhà thở dài.
Kết quả từ những đề nghị hước của ông chưa thấy đâu. Nhân viên kỹ thuật phòng thí nghiệm vẫn chưa tìm được bất kỳ dấu tay nào trên cụốn sách hướng dẫn Thế vận hội tìm thấy tại hiện hường vụ ẩu đả với lính Xung Kích, và FPE (phải, Kohl giận dữ để ý, chỉ có một nhân viên khám nghiệm) vẫn không tìm thấy những sự trùng khớp với các dấu vết từ ngõ Dresden. Bên phòng điều tra, những cái chết bất thường vẫn chưa thấy gì. Mổ một ai đó ra rồi phân tích mẫu máu của anh ta mất bao nhiêu lâu vậy?
Trong số hàng tá báo cáo người mất tích hôm nay tràn ngập phòng Cảnh sát Hình sự, không hề thấy ai khớp với mô tả về nạn nhân, chắc chắn là một đứa con trai và có thể là một người cha, một người chồng hay có thể là một người tình…
Vài bức điện tín được gửi đến từ các đồn cảnh sát quanh Berlin báo cáo tên những người đã mua súng ngắn Star Modelo A của Tây Ban Nha, hoặc đạn Largo trong một năm qua. Tuy nhiên, đáng tiếc là danh sách chưa hoàn chỉnh, Kohl thấy nản lòng khi biết rằng mình đã nhầm: vũ khí giết người này không hiếm như ông nghĩ. Có lẽ vì mối liên kết chặt chẽ giữa các lực lượng Xã hội Chủ nghĩa của Đức và Pháp tại Tây Ban Nha, mà nhiều khẩu súng mạnh mẽ và hiệu quả này được bán ở đây. Danh sách tính đến lúc này bao gồm tổng cộng 56 người tại Berlin và những vùng lân cận, cùng một số cửa hàng bán súng được thăm dò. Các sĩ quan cũng báo cáo rằng có vài cửa hàng không còn giữ lại ghi chép cũ, hoặc đóng cửa vào dịp cuối tuần.
Thêm nữa, nếu kẻ này chỉ mới đến thành phố hôm qua, như có vẻ thế, nhiều khả năng nhất là hắn không tự mang” súng theo. (Cho dù danh sách có thể vẫn chưa chứng tỏ sự giá trị. Hung thủ có thể đã ăn cắp súng, lấy của chính nạn nhân hoặc có được nó từ một đồng chí đã ở Berlin được một thời gian.)
Thấu hiểu điều không thể lý giải nổi…
Vẫn đang hy vọng vào bản kê khai danh sách hành khách trên tàu Manhattan, Kohl đã gửi điện tín đến các quan chức bến cảng tại Hamburg và Hãng Tàu United States Lines đề nghị gửi cho ông một bản sao kê khai. Nhưng Kohl không lạc quan, thậm chí ông còn không chắc chủ tàu có bản sao hay không. Liên quan đến chính hãng vận chuyển, họ hẳn sẽ phải xác định vị trí tài liệu đó, tạo một bản sao và sau đó gửi bưu điện, hoặc gửi theo điện báo đến các trụ sở Cảnh sát Hình sự, có thể phải mất vài ngày. Trong bất kỳ trường hợp nào, đến giờ này các đề nghị trên vẫn chưa nhận được câu trả lời.
Thậm chí, ông còn gửi một điện tín đến cửa hàng Thời trang Nam giới Manny tại New York hỏi về khách hàng mua mũ Mity-Lites Steson gần đây. Cả yêu cầu này cũng chưa thấy hồi âm.
Ông sốt ruột liếc nhìn chiếc đồng hồ bằng đồng trên bàn làm việc. Ngày đã dần tối và ông đang đói ngấu. Kohl ước gì được nghỉ một lát, hoặc được về nhà ăn tối với gia đình.
Konrad Janssen bước vào cửa phòng ông. “Tôi in ra hết rồi, thưa sếp.”
Cậu ta giơ lên một tờ giấy in tác phẩm của tay nghệ sĩ đường phố, hẵng còn thơm mùi mực in.
“Tốt… Bây giờ thật buồn, Janssen ạ, tối nay cậu có thêm một nhiệm vụ nữa.”
“Rõ, thưa sếp, bất kể việc gì tôi làm được.”
Thêm một phẩm chất nữa của Janssen nghiêm túc, đó là không ngần ngại làm việc vất vả.
“Cậu sẽ lấy chiếc DKW rồi quay lại làng Thế vận hội. Trình bức tranh của tay nghệ sĩ cho bất kỳ ai cậu tìm thấy, người Mỹ hay người nào đó, hỏi xem có ai nhận ra hắn không. Để lại vài bản sao cùng với số điện thoại. Nếu cậu không gặp may tại đó, mang vài bản sao đến đồn cảnh sát tại Lützow Plaza. Nếu họ tình cờ tìm thấy nghi phạm, bảo họ giữ hắn lại chỉ như một nhân chứng rồi gọi cho tôi ngay lập tức. Kể cả là gọi về nhà.”
“Rõ, thưa sếp.”
“Cảm ơn cậu, Janssen… Chờ đã, đây là cuộc điều tra án mạng đầu tiên của cậu, đúng không?”
“Vâng, thưa sếp.”
“À, cậu không bao giờ quên được vụ đầu tiên. Cậu đang làm rất tốt.”
“Cảm ơn sếp.”
Kohl trao cho cậu ta chìa khóa xe DKW. “Đặt nhẹ tay lên bướm gió thôi nhé. Nàng ấy ưa không khí cũng nhiều như ưa xăng. Có lẽ còn hơn đấy.”
“Rõ, thưa sếp.”
“Tôi sẽ về nhà đây. Gọi cho tôi khi có gì mới nhé.”
Sau khi cậu ta đi rồi, Kohl cởi luôn đôi giày đang mang. Ông mở ngăn kéo bàn làm việc, lôi ra một hộp đựng lông cừu và cuộn vài vòng quanh mấy ngón chân giúp giảm nhẹ đau đớn những vùng da nhạy cảm. Ông đặt thêm vài miếng xốp khéo léo vào cả hai chiếc giày, rồi nhăn nhó xỏ lại chân vào giày.
Ông liếc qua bức ảnh nghi phạm rồi những tấm ảnh mờ chụp hai vụ án mạng tại Gatow và Charlottenburg. Ông chẳng nghe thêm báo cáo gì từ hiện hường tội ác hoặc các cuộc thẩm vấn bất kỳ nhân chứng nào. Ông cho rằng câu chuyện hư cấu về âm mưu của Cộng sản ông kể cho Chánh Thanh tra Horcher không mang lại hiệu quả.
Ông nhìn trừng trừng các tấm ảnh: một thằng bé chết, một người phụ nữ đang cố nắm lấy chân một người đàn ông đang nằm xa tầm với, một công nhân đang nắm chặt cái xẻng đã mòn của anh ta… Đau tim. Ông nhìn chằm chằm một lúc lâu, biết rằng nếu theo đuổi vụ này sẽ rất nguy hiểm. Nếu không phải mạng sống của ông, thì sự nghiệp của ông chắc chắn sẽ gặp nguy hiểm. Nhưng ông không còn sự lựa chọn.
Tại sao? Ông tự hỏi. Tại sao ông luôn cảm thấy cơn bốc đồng muốn đóng lại một vụ án mạng?
Thật mỉa mai, Willi Kohl cho rằng trong cái chết, ông tìm thấy sự tỉnh táo. Hay chính xác hơn, trong quá hình lôi những kẻ sát nhân ra trước công lý. Ông cảm thấy đây là mục đích của ông trên trái đất này, quay lưng trước bất kỳ vụ giết người nào - người đàn ông béo trong một con ngõ, hay một gia đình người Do Thái -chính là làm trái với bản chất của ông và như thế sẽ là một tội lỗi.
Lúc này viên thanh tra cất hết các bức ảnh đi. Vớ lấy cái mũ, ông bước vào trong tiền sảnh tòa nhà cũ, bước dọc theo chiều dài mặt sàn lát gạch Phổ, đá và gỗ đã mòn theo năm tháng, nhưng vẫn sạch bóng. Ông bước qua những ánh nắng của mặt trời đỏ hồng đang xuống thấp, nguồn ánh sáng chính của trụ sở vào thời điểm này trong năm. Khách sạn Berlin đã trở thành biểu tượng cho sự tiêu xài hoang phí dưới triều đại Quốc Xã (“Súng và Bơ”, Göring không ngừng lải nhải câu này), các kỹ sư của tòa nhà đã làm tất cả những gì có thể nhằm bảo tồn các tài nguyên.
Vì Janssen đã dùng xe của ông nên Kohl đành bắt tàu điện ngầm về nhà. Ông tiếp tục đi xuống hai cầu thang dẫn ra cửa sau trụ sở, một lối tắt đến trạm chờ tàu.
Dưới chân cầu thang, những tấm biển chỉ đường đến các xà lim giam giữ của Cảnh sát Hình sự về bên trái và các phòng lưu trữ hồ sơ vụ án cũ thẳng phía trước. Ông thẳng tiến theo hướng đến các phòng này, nhớ lại hồi còn làm trợ lý thanh tra đã từng mất mấy ngày ở đây. Ông không chỉ đọc các hồ sơ để học từ các thanh tra của Phổ trong quá khứ, mà đơn giản vì ông thích ngắm nhìn lịch sử Berlin mà các nhà thi hành luật đã kể ông nghe.
Vị hôn phu của con gái ông, Heinrich là một viên chức nhưng nó đam mê công việc của cảnh sát. Kohl đã quyết định thi thoảng sẽ mang nó theo, hai bố con có thể cùng nhau xem qua các hồ sơ này. Thậm chí thanh tra có thể cho nó xem một số vụ án đích thân Kohl đã thụ lý những năm trước.
Tuy nhiên, ngay khi đẩy cửa vào, ông dừng phắt lại, các hồ sơ lưu đã biến mất. Kohl giật mình khi thấy chính ông đứng trong một hành lang đèn đuốc sáng trưng, cùng với 6 người có vũ trang. Tuy nhiên, chúng không mặc đồng phục xanh của Cảnh sát Đô thị mà mặc đồng phục đen của SS. Gần như đồng loạt chúng quay người lại nhìn ông.
“Xin chào ngài,” tên đứng gần ông nhất lên tiếng, dáng người hắn gầy còm với khuôn mặt dài đến kinh ngạc. Hắn dò xét Kohl chăm chú. “Ngài là…?”
“Thanh tra Kohl. Còn cậu là ai?”
“Nếu ngài đang muốn tìm các hồ sơ lưu, thì chúng ở tầng hai.”
“Không. Tôi chỉ muốn đi ra cửa sau thôi.” Kohl bước lên phía trước. Tên lính SS bước một bước nhẹ nhàng về phía ông. “Tôi rất tiếc phải thông báo rằng, lối đó không dùng được nữa.”
“Tôi không nghe nói chuyện đó.”
“Không ư? Thông báo được đưa ra vài ngày trước rồi. Ngài sẽ phải quay lên gác.”
Kohl nghe thấy một âm thanh lạ lùng. Gì thế nhỉ? Một tiếng lạch xạch, lạch xạch, lạch xạch…
Một chùm ánh nắng lấp đầy tiền sảnh khi hai tên SS mở cánh cửa phía xa, đưa vào hai chiếc xe kéo đẩy đang chở theo các thùng carton. Chúng rẽ vào một trong số những căn phòng cuối hành lang.
Ông nói với tên lính gác, “Đó là cánh cửa tôi đang nói đến. Có vẻ nó sử dụng được mà.”
“Không phải để dùng chung.”
Những âm thanh …
Lạch xạch, lạch xạch, lạch xạch và bên dưới kia, tiếng ầm ầm của động cơ hay máy móc…
Ông liếc nhìn sang bên phải, qua một cánh cửa mở hé thì thấy vài thiết bị cơ khí loại lớn. Một người phụ nữ mặc áo choàng trắng đang cho hàng chồng giấy vào một trong những thiết bị đó. Đây chắc là một phần máy móc trong phòng in ấn của Cảnh sát Hình sự. Nhưng rồi ông quan sát chúng, không phải là những tờ giấy, mà là các thẻ được đục lỗ và đang được cái thiết bị kia phân loại.
À, Kohl hiểu rồi. Một bí ẩn cũ đã được bật mí. Một thời gian trước đó, ông đã nghe nói Chính phủ đang cho thuê các máy phân loại và máy tính lớn, có tên là DeHoMags đặt theo tên công ty chế tạo ra chúng, một công ty con tại Đức của công ty mẹ ở Mỹ, International Business Machines. Các thiết bị này sử dụng thẻ bị đục lỗ nhằm phân tích và tra chéo thông tín. Kohl rất vui sướng khi biết được những máy móc cho thuê này. Các máy móc có thể chứng tỏ sự hữu ích vô giá trong những cuộc điều tra hình sự. Chúng có thể thu hẹp các hạng mục dấu vân tay, hoặc thông tin đạn đạo nhanh hơn nhân viên kỹ thùật thao tác bằng tay 100 lần. Ngoài ra, chúng có thể tra chéo các thủ đoạn phạm tội để liên kết tội phạm và tội ác, có thể lần theo dấu những người được tha bổng hoặc những kẻ phạm tội tái phạm.
Tuy nhiên, sự nhiệt tình của thanh tra sớm biến thành nỗi chua chát, khi ông biết những thiết bị này không dành cho Cảnh sát Hình sự. Ông tự hỏi ai sở hữu chúng và chúng được đặt ở đâu. Nhưng giờ đây, trước sự choáng váng của ông, có vẻ ít nhất hai hoặc ba chiếc ở đây cách văn phòng ông chưa đầy 100 mét và được SS bảo vệ.
“Mục đích của chúng là gì?”
Ông hỏi tên lính.
“Tôi không được phép nói, thưa ngài,” hắn trả lời bằng giọng khô khốc. “Tôi không được thông báo.”
Từ bên trong căn phòng, người phụ nữ mặc áo trắng nhìn ra ngoài. Bà ta ngừng tay, nói chuyện với ai đó. Kohl không thể nghe được họ nói gì, cũng như không thấy bà ta đang nói chuyện với ai. Cánh cửa từ từ đóng chặt lại như thể có ma thuật.
Tên lính với khuôn mặt dài thuỗn bước qua Kohl mở cánh cửa dẫn lên cầu thang. “Một lần nữa, thưa Thanh tra, như tôi đã nói, không có lối ra ở đây. Ngài sẽ tìm thấy một cánh cửa khác dẫn lên một cầu thang và…”
“Tôi biết tòa nhà này,” Kohl bực mình nói, quay lên gác.
“Tôi mang cho cô một thứ,” gã nói.
Đứng trong phòng khách của Paul trong căn nhà trọ ngõ Magdeburger, Käthe Richter nhận lấy gói quà nhỏ với ánh mắt tò mò, sợ hãi thận trọng như thể đã bao nhiêu năm rồi cô chưa được ai tặng quà. Hai ngón tay cái của cô rờ trên lớp giấy nâu bao phủ một thứ Otto Webber đã tìm cho gã.
“Ôi.” Cô khẽ thốt lên khi nhìn thấy cuốn sách bọc bìa da, trên bìa sách là dòng chữ in Những Bài Thơ Tuyển Chọn của Johann Wolfgang von Goethe.
“Bạn tôi nói rằng cuốn này không phải là sách cấm, nhưng cũng không hợp pháp. Như thế có nghĩa là nó sắp thành sách cấm.”
“Lửng lơ,” cô nói và gật đầu. “Tương tự như nhạc Jazz của Mỹ tại đây một thời gian, giờ cũng bị cấm rồi.” Tiếp tục mỉm cười, Käthe lật đi lật lại cuốn sách trong tay cô.
Gã nói, “Tôi không biết ông ta lại mang tên của gia đình tôi.”
Cô ngước lên nhìn gã thắc mắc.
“Ông nội tôi tên là Wolfgang. Bố tôi tên là Johann.”
Käthe mỉm cười trước sự trùng hợp, lật qua mấy trang cuốn sách.
“Tôi đang tự hỏi,” gã nói. “Nếu cô không bận, ăn tối đi.”
Gương mặt cô trở nên nghiêm túc. “Như tôi đã nói với anh, tôi chỉ phục vụ anh bữa sáng, chứ không…”
Gã phá lên cười. “Không, không. Tôi muốn đưa cô ra ngoài ăn tối. Có lẽ đi ngắm mấy phong cảnh tại Berlin.”
“Anh muốn…”
“Tôi muốn đưa cô đi chơi.”
“Tôi… Không, không. Tôi không thể.”
“Ôi, nếu cô có bạn trai hay có chồng…” Liếc nhìn bàn tay cô, gã không thấy nhẫn cưới. Nhưng gã không chắc tại Đức người ta hứa hôn như thế nào. “Xin cô đấy, rủ cả anh ấy đi cùng.”
Käthe dường như không thể nói lên lời. Cuối cùng cố nói, “Không, không. Tôi chưa có ai. Nhưng…”
Paul nói chắc nịch. “Không nhưng nhị gì hết. Lâu lắm rồi tôi không đến Berlin. Tôi có thể nhờ ai đó dẫn tôi đi quanh thành phố.” Gã nở nụ cười với cô, nói bằng tiếng Anh. “Thưa cô, tôi sẽ nói với cô, rằng tôi không chấp nhận câu trả lời là không.”
“Tôi không hiểu chữ ‘ain’t’”, cô nói. “Nhưng đã lâu tôi không đi nhà hàng rồi. Có lẽ, một buổi tối như thế này có thể thú vị.”
Paul nhíu mày. “Cô dùng sai từ tiếng Anh rồi.”
“Ối, thế phải nói thế nào?” cô hỏi.
“Từ đúng phải là ‘sẽ’ thú vị, không phải là ‘có thể’.”
Cô phá lên cười, đồng ý gặp lại gã trong nửa giờ nữa. Cô quay về phòng mình trong khi Paul đi tắm và thay quần áo.
Ba mươi phút sau, có tiếng gõ cửa. Khi mở cửa, gã chớp mắt. Cô như là một người hoàn toàn khác.
Käthe đang mặc một chiếc đầm đen mà có lẽ sẽ khiến ngay cả nữ thần thời trang Marion ở Manhattan cũng phải mê mẩn. Vừa vặn đến hoàn hảo, chất liệu bóng, một đường xẻ táo bạo dọc sườn với hai ống tay áo bé xíu làm lộ đôi bờ vai. Bộ đầm tỏa ra mùi hương băng phiến nhẹ nhàng. Dường như cô thấy khó chịu, gần như là ngượng ngùng khi ăn mặc bộ đầm phong cách đến thế, như thể dạo gần đây cô toàn mặc quần áo trong nhà. Nhưng đôi mắt cô rực sáng, ý nghĩ trước đó của gã về cô quay trở lại: một sắc đẹp, một cảm xúc thật dịu dàng toát ra từ bên trong cô, hoàn toàn làm lu mờ làn da mờ xỉn, những khớp ngón tay xương xẩu, nước da nhợt nhạt và lông mày hẹp.
Riêng đối với Paul, mái tóc của gã vẫn đen vì tinh dầu nhưng giờ đây đã được chải khác đi. (Và khi ra ngoài, gã sẽ không đội mũ Stetson màu nâu: thay vào đó, là mũ nỉ mềm đen thẫm, vành rộng gã đã mua vào buổi chiều sau khi chia tay Morgan.) Gã đang mặc bộ vest hai lớp bằng vải lanh màu xanh, đeo cà vạt màu bạc ngoài chiếc áo sơ mi Arrow màu trắng. Tại cửa hàng bách hóa nơi mua mũ, gã cũng đồng thời trang điểm nhiều hơn, che đi vết bầm và vết xước. Gã đã bỏ đi miếng băng cá nhân.
Käthe cầm lên cuốn sách thơ bỏ lại trong phòng gã để đi thay đồ, lật qua vài trang. “Đây là một trong những bài thơ tôi thích, có tên là “Sự Gần Gũi Của Người Thương.” Cô liền đọc to nó lên:
Anh nghĩ về em, khi từ phía biển
Mặt trời rọi lên tia sáng nhạt mờ
Anh nghĩ về em, khi vầng trăng hiển hiện
Vẽ tự nguồn - ánh sáng xa mơ
Anh thấy em, khi nẻo đường xa ấy
Hạt bụi dâng giữa trời
Đêm về khuya, khách lữ hành run rẩy
Trên nhịp cầu chơi vơi
Anh nghe em, khi trào lên ngọn sóng
Tiếng xa nghe đục mờ
Anh thường lắng trong đêm rừng vắng
Khi bốn bên lặng ngắt như tờ.
Cô đọc thơ bằng một giọng thấp, Paul có thể hình dung cô đang đứng trước một lớp học. Học sinh của cô bị mê hoặc bởi tình yêu chân thành của cô với những vần thơ.
Käthe phá lên cười, đôi mắt cô bừng sáng. “Anh thật tử tế.” Nói rồi cô cầm cuốn sách trong hai bàn tay mạnh mẽ, xé lớp bìa da bọc ngoài ném vào thùng rác.
Gã nhìn cô chằm chằm, nhíu mày.
Cô cười buồn. “Tôi sẽ giữ lại những bài thơ, nhưng phải hủy phần đập vào mắt là tựa sách và tên tác giả. Như thế ai đến thăm hoặc khách trọ sẽ không vô tình nhìn thấy tên người viết, và sẽ không tố cáo tôi. Ôi, cái thời đại chúng ta sống! Hiện giờ, tôi sẽ để lại cuốn sách trong phòng anh. Tốt nhất là anh không nên mang mấy cuốn này ra phố, kể cả khi anh đã xé bìa rồi. Giờ thì đi chơi thôi!” cô nói với sự phấn khích rất con gái. Cô nói tiếp bằng tiếng Anh, “Tôi muốn đi xem thành phố. Anh đã nói thế đúng không?”
“Vâng. Đi xem thành phố. Cô muốn đi đâu?… Nhưng tôi có hai yêu cầu.”
“Vâng?”
“Thứ nhất, tôi đang đói và sẽ ăn nhiều lắm. Và thứ hai, tôi muốn đi xem Phố Wilhelm nổi tiếng của cô.”
Gương mặt cô lại trở nên nghiêm túc. “Ôi, phố đấy là của Chính phủ mà.”
Gã cho rằng với một người đang bị những kẻ Quốc Xã quấy rầy, cô sẽ không hứng thú với địa điểm đặc biệt ấy. Thế nhưng gã cần phải tìm ra địa chỉ tốt nhất để hóa kiếp Ernst, và gã biết rằng một kẻ như gã nếu không đi kèm một bóng hồng tới đó, sẽ đáng ngờ hơn nhiều. Hôm nay, đây là nhiệm vụ thứ hai Reggie Morgan giao cho gã - không chỉ tìm hiểu quá khứ của Otto Webber mà còn nắm được đường dây của Käthe Richter nữa. Thực sự cô ấy đã bị cấm giảng dạy, bị gắn mác là một người trí thức và theo Chủ nghĩa Hòa bình. Không có bằng chứng nào cho thấy cô ấy mật báo cho bọn Quốc Xã.
Giờ đây, thấy ánh mắt cô nhìn cuốn sách thơ, gã cảm thấy cắn rứt khi lợi dụng cô theo cách này, nhưng gã tự an ủi mình với ý nghĩ rằng cô không ủng hộ Phát xít. Qua việc vô tình giúp đỡ gã, cô ấy đã góp phần ngăn chặn cuộc chiến Hitler đang âm mưu.
Cô nói, “Vâng, dĩ nhiên tôi sẽ dẫn anh đi xem. Với yêu cầu đầu tiên của anh, tôi nghĩ đến ngay một nhà hàng. Anh sẽ thích cho xem.” Nở nụ cười bí ẩn, cô nói thêm. “Đó đúng là nơi cho những kẻ như anh và tôi.”
Anh và tôi…
Gã tự hỏi cô ấy muốn nói gì.
Họ bước vào nhà hàng trong buổi tối ấm áp. Gã thích thú nhận thấy ngay bước chân đầu tiên lên vỉa hè, hai mái đầu nhất loạt nhìn sang bên xem có ai bám theo không.
Khi cùng sóng đôi, họ nói chuyện về hàng xóm, thời tiết, những túng thiếu rồi lạm phát, về gia đình cô. Bố mẹ cô đều đã qua đời và cô còn một người em gái sống tại Spandau gần đó cùng chồng và bốn đứa con. Cô cũng hỏi gã về cuộc đời gã, tuy nhiên tay sát thủ thận trọng chỉ trả lời mơ hồ, liên tục lái câu chuyện quay về cuộc đời cô.
Phố Wilhelm quá xa không thể đi bộ, cô giải thích. Paul hiểu khi nhớ lại bản đồ. Gã rất cẩn trọng trong chuyện bắt taxi, nhưng hóa ra chẳng còn chiếc taxi nào, vì hôm nay là cuối tuần trước khi khai mạc Thế vận hội, ai ai cũng muốn vào thành phố. Käthe gợi ý đi xe buýt hai chiều. Họ lên một xe rồi bước lên tầng trên cùng, ngồi sát nhau trên chiếc ghế bọc da sạch tinh tươm.
Paul thận trọng nhìn quanh nhưng không ai tỏ ra chú ý đặc biệt đến họ (cho dù một phần trong gã mong được thấy hai cảnh sát viên đang bám theo gã suốt ngày, tay cảnh sát dáng người thô kệch mặc áo vest màu trắng nhạt, cậu thanh niên gầy gò mặc áo vest màu xanh dương).
Xe buýt lắc lư khi họ đi qua Cổng Brandenburg, suýt va vào những lề đường đá, cùng nhiều khách bộ hành há hốc mồm trong cái giật mình hài hước như những người trên vòng đu quay tại Coney Island, gã cho rằng phản ứng này là truyền thống của Berlin.
Käthe kéo dây thừng, hai người xuống xe tại Under The Lindens ở Phố Wilhelm, rồi đi bộ tiếp về phía Nam dọc theo đại lộ rộng là trung tâm của chính quyền Phát xít. Nơi này không có gì nổi bật, với các tòa nhà văn phòng màu xám nguyên khối hai bên đường. Sạch sẽ và vô trùng, con phố tỏa ra sức mạnh đáng lo ngại. Paul đã xem các bức tranh Nhà Trắng và Nhà Quốc hội. Chúng dường như gây ấn tượng mạnh và nhã nhặn. Ở nơi này các mặt tiền và ô cửa sổ bé xíu của những tòa nhà bằng đá, bằng bê tông kề nhau san sát cho ta cảm giác nguy hiểm.
Và làm trầm trọng thêm vấn đề buổi tối nay, chúng được bảo vệ đến tận răng. Gã chưa bao giờ thấy an ninh nghiêm túc đến thế.
“Phủ Thủ tướng ở đâu?” gã hỏi.
“Đằng kia.” Käthe chỉ tay về phía một tòa nhà cũ kỹ, trang trí công phu với một giàn giáo gần như đang che khuất mặt tiền.
Paul thấy lo ngại. Đôi mắt nhanh nhẹn của gã tập trung vào nơi đó. Những tên lính bảo vệ có vũ trang đứng ở mặt tiền. Hàng tá tên SS và một bọn trông như những tên lính chính quy đang tuần tra trên phố, chặn người dân lại xét hỏi giấy tờ. Trên các sân thượng tòa nhà là những tên lính khác, được trang bị vũ khí.
Chắc phải có đến cả trăm tên không mặc đồng phục ở gần đó. Rõ ràng không thể tìm ra một vị trí bắn tỉa. Ngay cả nếu có tìm được, cũng không nghi ngờ rằng gã sẽ bị thộp cổ, hoặc bị giết khi đang cố gắng chạy trốn.
Gã bước chậm lại. “Tôi nghĩ xem thế đủ rồi.” Gã dò xét vài tên cao lớn, mặc đồng phục đen đang xét hỏi giấy tờ hai người đi trên vỉa hè.
“Không ấn tượng như anh nghĩ à?” Cô bật cười và định nói thêm gì đó - có thể là “Tôi nói rồi mà,” nhưng rồi lại thôi. “Yên tâm đi, nếu anh có thêm thời gian, tôi có thể đưa anh đi xem nhiều nơi trong thành phố của chúng tôi, thực sự rất đẹp. Giờ thì chúng ta đi ăn tối chứ?” cô hỏi.
“Vâng, đi thôi.”
Cô đưa gã quay lại trạm chờ xe buýt trên phố Under the Lindens. Họ lên xe đi một quãng ngắn, sau đó xuống xe đi theo hướng cô chỉ.
Käthe hỏi trong cả quãng thời gian ngắn ngủi ở đây đến giờ, gã nghĩ gì về Berlin. Một lần nữa, Paul trả lời mơ hồ, hướng cuộc nói chuyện tập trung về cô. Gã hỏi, “Cô có đi với ai khác không?”
”’Đi?’”
Gã giải thích cho cô. “Ý tôi là liên quan đền yếu tố lãng mạn.”
Cô trả lời thẳng, “Gần đây nhất tôi đã có người yêu. Chúng tôi không còn bên nhau nữa. Nhưng anh ấy vẫn chiếm trọn trái tim tôi.”
“Anh ấy làm gì?” gã hỏi.
“Một phóng viên. Giống như anh.”
“Tôi thực sự không phải là phóng viên. Tôi viết những câu chuyện rồi bán chúng. Có thể nói là những vấn đề nóng hổi.”
“Anh có viết về chính trị không?”
“Chính trị à? Không. Tôi viết về thể thao.”
“Thể thao.” Giọng cô tỏ ý xem thường.
“Cô không thích thể thao?”
“Rất tiếc phải nói rằng tôi không thích thể thao.”
“Tại sao?”
“Bởi vì có nhiều vấn đề quan trọng chúng ta phải đối mặt, không chỉ ở đây mà ở khắp nơi trên thế giới này. Thể thao là… à, chúng thật phù phiếm.”
Paul đáp, “Giả sử như việc đi dạo trên các con phố Berlin vào một buổi tối hè đẹp thế này. Nhưng chúng ta đang làm đấy thôi.”
“Chà,” Käthe bực mình nói. “Vấn đề duy nhất trong giáo dục tại Đức bây giờ, đó là xây dựng những cơ thể khỏe mạnh, chứ không phải tư duy lành mạnh. Những thằng bé chơi trò chơi chiến tranh, chúng diễu hành ở khắp nơi. Anh đã nghe nói chúng tôi bắt đầu chế độ cưỡng bức tòng quân chưa?”
Paul nhớ lại Bull Gordon đã mô tả kế hoạch quân sự của Đức cho gã nghe. Nhưng gã đáp, “Chưa.”
“Cứ ba thằng thì có một thằng trượt vì nó không có được bàn chân phẳng do diễu hành suốt tại trường. Đó là một nỗi nhục nhã.”
“Cô quan trọng hóa vấn đề lên rồi,” gã nêu rõ. “Tôi thích thể thao.”
“Vâng, trông anh có vẻ vạm vỡ. Anh có tập thể hình không.”
“Một chút. Chủ yếu là đấm bốc.”
“Đấm bốc? Ý anh là cái nơi anh đánh người ta à?”
Gã phá lên cười. “Thì đấm bốc chỉ có thế thôi mà.”
“Man rợ.”
“Có thể - nếu cô không biết phòng thủ.”
“Anh đùa à,” cô nói. “Nhưng sao anh có thể khuyến khích người ta đánh lẫn nhau chứ?”
“Thật sự tôi không thể nói được. Nhưng tôi thích nó. Vui lắm.”
“Vâng, vui,” cô chế giễu.
“Thì vui mà,” gã nói, cũng ngày càng thấy tức giận. “Cuộc sống khó khăn. Đôi khi cô cần phải bám vào cái gì đó vui vẻ, khi phần còn lại của thế giới xung quanh hành hạ cô… Tại sao lúc nào đó cô không đi xem một trận đấm bốc? Đi xem Max Schmeling đi. Uống một chút bia, la hét cho đến khi khản giọng. Có thể cô sẽ thích.”
“Kakfif, “cô thẳng thừng nói.
“Gì cơ?”
“Kakfif,” Käthe lặp lại. “Một từ viết tắt của ‘Không Bao Giờ”.
“Tùy cô thôi.”
Cô im lặng một lúc, rồi nói, “Tôi là một người yêu hòa bình như hôm nay đã nói với anh. Tất cả bạn bè tôi tại Berlin đều yêu hòa bình. Chúng tôi không kết hợp ý tưởng vui vẻ với việc làm tổn thương người khác.”
“Tôi không đi dạo quanh đây như một tên lính Xung Kích đánh đập người vô tội. Những thằng đánh nhau với tôi? Chúng muốn làm thế đấy.”
“Anh cổ vũ chuyện gây đau đớn à.”
“Không, tôi ngăn cản người ta đánh tôi. Đánh nhau là thế đấy.” “Như trẻ con,” cô lẩm bẩm. “Anh như trẻ con ý.”
“Cô không hiểu.”
“Và tại sao anh nói thế? Bởi vì tôi là phụ nữ?“cô ngắt lời.
“Có thể. Phải, có thể là thế.”
“Tôi không ngu.”
“Tôi không nói về chuyện trí tuệ. Tôi chỉ muốn nói rằng phụ nữ không có thiên hướng thích đánh nhau.”
“Chúng tôi không có thiên hướng bạo lực. Chúng tôi sẽ chiến đấu để bảo vệ ngôi nhà của mình.”
“Đôi khi, sói không ở trong nhà cô đâu. Chẳng lẽ cô không đi tìm và giết nó trước à?”
“Không.”
“Cô mặc kệ nó và hy vọng nó sẽ bỏ đi?”
“Đúng. Chính xác. Và anh dạy nó rằng anh không cần phải hủy diệt nó.”
“Thật lố bịch,” Paul nói. “Cô không thể nói chuyện với một con sói đội lốt cừu.”
“Nhưng tôi nghĩ anh có thể nếu anh muốn,” cô nói. “Và nếu anh thực sự cố gắng làm việc đó. Tuy nhiên, quá nhiều người đàn ông không muốn thế. Họ muốn đánh nhau. Họ muốn hủy diệt bởi vì điều đó mang lại cho họ khoái cảm.” Sự im lặng nặng nề chen giữa họ một lúc lâu. Rồi cô lên tiếng, giọng dịu dàng hơn, “Chà, Paul này, tha lỗi cho tôi. Anh đang làm bạn đồng hành của tôi ở đây, đang cùng tôi đi ngắm thành phố này. Một việc tôi đã không làm suốt mấy tháng. Thế mà tôi trả ơn anh bằng cách biến mình thành một ả đanh đá. Phụ nữ Mỹ có đanh đá giống tôi không?”
“Vài người đanh đá, vài người thì không. Cô không phải là người như họ.”
“Tôi là một người khó chiều mà. Anh phải hiểu, Paul -nhiều phụ nữ tại Berlin là như thế. Chúng tôi phải thế. Sau Thế Chiến thứ I, trong nước chẳng còn người đàn ông nào cả. Chúng tôi phải trở thành đàn ông, phải cứng rắn như họ. Tôi xin lỗi.”
“Không. Tôi thích tranh luận mà. Chỉ là một cách đánh nhau khác.”
“Chà, đánh nhau! Và tôi là người yêu hòa bình!” Cô bật cười như thiếu nữ.
“Các bạn cô sẽ nói gì?”
“Thực sự anh muốn biết cái gì?” cô nói rồi cầm tay gã sang đường.