Phần IV CUỘC ĐUA SÁU CHỌI NĂM CHƯƠNG 20 Chủ nhật, ngày 26 tháng 07 đến Thứ Hai, ngày 27 tháng 07 năm 1936
Willi Kohl ngồi trong văn phòng tại Alex chừng một tiếng kể từ 5 giờ sáng, vất vả viết ra một bức điện tín bằng tiếng Anh ông đã soạn sẵn trong đầu, khi nằm thao thức trên giường bên cạnh Heidi đang say giấc nồng, thơm ngát mùi phấn bà thoa trước khi đi ngủ.
Lúc này, ông nhìn lại văn bản viết tay của mình:
TÔI, THANH TRA CAO CẤP WILLI KOHL CỦA KRIMINALPOLIZEI (CẢNH SÁT HÌNH SỰ) TẠI BERLIN. CHÚNG TÔI ĐANG MUỐN TÌM KIẾM THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN MỘT NGƯỜI MỸ CÓ KHẢ NĂNG ĐẾN TỪ NEW YORK ĐANG CƯ TRÚ TẠI BERLIN, PAUL SCHUMANN, CÓ LIÊN QUAN ĐẾN MỘT VỤ ÁN MẠNG. HẮN ĐẾN CÙNG ĐỘI TUYỂN OLYMPIC CỦA MỸ. VUI LÒNG CHUYỂN CHO TÔI THÔNG TIN VỀ NGƯỜI NÀY ĐẾN TRỤ SỞ CẢNH SÁT HÌNH SỰ ALEXANDERPLATZ, BERLIN, GHI RÕ GỦI THANH TRA WILLy KOHL. TỐI KHẨN. CẢM ƠN ĐÃ QUAN TÂM.
Ông đã rất vất vả với cách dùng từ. Cơ quan có các biên dịch viên nhưng không ai làm việc vào ngày Chủ nhật và ông muốn gửi điện tín đi ngay lập tức. Nó sẽ đến vào lúc đầu ngày tại Mỹ, ông không chắc lắm về chuyện múi giờ, nên ông đoán tại Mỹ chắc vào khoảng nửa đêm. Ông hy vọng rằng các nhà thi hành luật pháp cũng đang đảm nhận các ca trực dài tương tự như cảnh sát tất cả các nước khác.
Kohl đọc lại điện tín lần nữa, cho dù còn lỗi sai nhưng ông khẳng định viết như thế là tốt lắm rồi. Trên một tờ giấy khác, ông viết những chi dẫn gửi điện tín đến ủy ban Olympic Quốc tế, Sở Cảnh sát Thành phố New York và Cục Điều tra Liên bang Mỹ. Ông bước xuống văn phòng gửi điện tín, nhưng thất vọng khi không thấy ai trực. Ông giận dữ quay lại phòng làm việc.
Sau khi ngủ vài tiếng, Janssen hiện đang trên đường quay lại làng Thế vận hội xem có phát hiện ra thêm đầu mối nào nữa không. Còn bản thân Kohl thì làm gì nữa? Ông chẳng nghĩ ra được gì trừ thúc giục nhân viên giám định pháp y tiến hành mổ tử thi và bên FPE nhanh chóng phân tích dấu vân tay. Nhưng dĩ nhiên, họ cũng đang không ở văn phòng và có thể chẳng ma nào đi làm ngày Chủ nhật.
Ông cảm thấy phẫn nộ đến cực điểm.
Đôi mắt ông nhìn xuống bức điện tín vất vả lắm mới viết được.
“Chà, chuyện này thật ngớ ngẩn.” Ông sẽ không chờ nữa. Sử dụng một máy gửi điện báo khó khăn đến chừng nào? Kohl đứng dậy lại lao xuống phòng điện tín, nhủ thầm rằng đích thân ông sẽ cố gắng hết sức chuyển điện tín sang Mỹ. Ngay cả nếu do những ngón tay vụng về của mình, ông có 15 gửi điện tín này đến hàng trăm nơi khác tại Mỹ, thế thì càng tốt.
Cô đã lui về phòng không lâu trước đó khoảng 6 giờ sáng. Và giờ cô quay lại phòng của gã, trên người la chiếc áo mặc ở nhà màu xanh thẫm, tóc búi gọn sau gáy bằng ghim và trên đôi má cô phớt hồng. Paul đứng trên ngưỡng cửa, đang lau đi chút kem cạo râu trên mặt. Gã đậy nắp thiết bị cạo râu, bỏ vào trong chiếc túi vải bẩn thỉu.
Käthe mang cà phê và bánh mỳ nướng đến cùng một ít bơ thực vật nhạt, xúc xích khô và mứt cam như súp. Cô bước qua luồng ánh nắng chiếu thấp, màu xám nhạt vào trong ô cửa sổ trước phòng khách của gã, đặt khay bữa sáng lên chiếc bàn cạnh bếp.
“Kia,” cô tuyên bố, hất đầu về phía cái khay. “Anh không cần phải đến phòng ăn sáng đâu.” Cô liếc xéo gã lần nữa, rồi quay đi. “Em đi làm việc nhà đây.”
“Không, em vẫn liều chứ?” Gã hỏi bằng tiếng Anh.
“‘Liều’ gì cơ?”
Gã hôn cô. “Có nghĩa là câu anh hỏi em đêm qua. Em vẫn sẵn sàng đi với anh chứ?”
Cô sắp xếp lại thứ tự chén tách sứ trên khay, trong con mắt gã chúng vốn đã hoàn hảo. “Em liều. Còn anh?”
Gã nhún vai. “Anh sẽ không để em đổi ý đâu. Sẽ là Kakfif. Không nghi ngờ gì nữa.”
Cô phá lên cười, rồi nhíu mày. “Có một chuyện em phải nói.”
“Sao?”
“Em rất thường xuyên nêu ý kiến.” Cô nhìn xuống. “Và rất mạnh mẽ. Michael đã từng gọi em là cơn lốc. Liên quan đến vấn đề thể thao, em muốn nói: Em cũng có thể học cách yêu thích chúng.”
Paul lắc đầu. “Anh muốn em không thích thì hơn.”
“Không ư?”
“Rồi anh sẽ cảm thấy em thích thơ thì tốt hơn.”
Cô ép đầu mình vào ngực gã. Gã tin rằng cô đang mỉm cười.
“Em sẽ thích nước Mỹ,” gã nói. “Nhưng nếu không thích, khi tất cả những chuyện này kết thúc, em có thể trở về. Em không nhất thiết phải rời khỏi đất nước này mãi mãi.”
“À, anh chàng ký giả thông minh của em. Anh nghĩ rằng điều này - màn diễn này - sẽ kết thúc sao?”
“Phải, anh nghĩ vậy. Anh nghĩ chúng sẽ không nắm quyền được lâu nữa đâu.” Gã nhìn đồng hồ. Đã gần bảy rưỡi. “Giờ anh phải đi gặp đồng chí của mình.”
“Vào sáng Chủ nhật à? Chà, cuối cùng em hiểu được bí mật của anh.”
Gã nhìn cô với nụ cười đề phòng.
“Anh đang viết bài về những mục sư chơi thể thao!” Cô bật cười. “Đó là câu chuyện lớn của anh?” Rồi tiếng cười của cô nhạt dần. “Vậy tại sao anh phải bỏ đi nhanh như thế, nếu anh đang viết về thể thao, hay những mét khối bê tông xây?”
“Anh không phải bỏ đi nhanh thế. Mà là anh có vài cuộc họp quan trọng ở Mỹ.” Paul uống nhanh cốc cà phê, ngoạm một miếng bánh mỳ và xúc xích. “Còn lại em giải quyết nốt nhé. Giờ anh không đói.”
“Chóng quay về với em nhé. Em sẽ gói ghém đồ đạc, chỉ cần một túi thôi. Nếu em lỡ mang nhiều đi, có lẽ bóng ma ấy sẽ trốn vào trong mất.” Một tiếng cười. “Chà, em ăn nói như thể một người bước ra khỏi câu chuyện của anh bạn E.T.A Hoffmann khủng khiếp của chúng ta.”
Gã hôn cô rồi rời căn nhà trọ, bước vào buổi sáng trời đã kịp nóng, phủ lên làn da một tấm áo choàng ẩm ướt. Liếc nhìn khắp con phố vắng vẻ, gã tiến về phía Bắc, đi qua con kênh và bước vào Tiergarten, Khu Vườn Dã Thú.
Paul thấy Reggie Morgan đang ngồi trên ghế dài trước mặt hồ, nơi người yêu của Käthe Richter bị đánh đến chết ba năm trước.
Cho dù trời vẫn còn sớm, hàng tá người đã đến đây. Một số người đi bộ và đi xe đạp. Morgan đã cởi áo khoác, hai ống tay áo sơ mi đã xắn lên một phần.
Paul ngồi xuống cạnh ông. Morgan vỗ nhẹ vào chiếc phong bì trong túi áo khoác. “Lấy được tiền mặt rồi,” ông thì thầm bằng tiếng Anh.
Họ chuyển sang nói tiếng Đức. “Họ đổi tiền mặt ngay tối thứ Bảy à?” Paul hỏi, bật cười. “Tôi đang sống trong một thế giới mới mẻ làm sao.”
“Cậu nghĩ Webber sẽ xuất hiện chứ?” Morgan nghi ngờ hỏi.
“À vâng. Nếu liên quan đến tiền thì anh ta sẽ đến đây. Nhưng tôi không chắc anh ta sẽ giúp ích được bao nhiêu. Đêm qua, tôi đã quan sát phố Wilhelm rồi. Có hàng tá lính bảo vệ, thậm chí đến hàng trăm tên. Sẽ là quá mạo hiểm nếu làm việc ở đó. Chúng ta sẽ phải xem Otto nói gì. Có thể anh ta sẽ tìm được một địa điểm khác.”
Họ ngồi trong im lặng một lúc.
Paul thấy ông nhìn quanh công viên. Morgan có vẻ đăm chiêu. Ông nói, “Tôi sẽ nhớ đất nước này rất nhiều.” Một lúc sau, gương mặt người đàn ông chìm sâu trong say mê, đôi mắt đen u buồn. “Có những người tốt ở nơi này. Tôi thấy họ còn tử tế hơn nhiều so với người Phổ, cởi mở hơn nhiều người London. Và họ dành nhiều thời gian hưởng thụ cuộc sống hơn người New York. Nếu chúng ta có thời gian, tôi sẽ dẫn cậu đến Công viên Lustgarten và Luna. Tôi thích đi bộ ở đây, trong Công viên Tiergarten này. Tôi thích ngắm nhìn lũ chim chóc.” Người đàn ông gầy còm dường như xấu hổ trước điều này. “Một lối chuyển chủ đề ngu ngốc.”
Paul tự cười mình, nghĩ đến những chiếc máy bay mô hình đang ngự trên giá sách của gã tại Brooklyn. Thật ngu ngốc trong đôi mắt những người xem.
“Vậy là ông sẽ đi?” Paul hỏi.
“Tôi không thể ở lại. Tôi đã ở đây quá lâu rồi. Mỗi ngày, đều có cơ hội phạm một sai lầm, sự bất cẩn nào đó sẽ xảy đến với tôi. Và sau việc chúng ta định làm, chúng sẽ theo dõi chặt chẽ hơn từng người nước ngoài hiện đang làm ăn ở đây. Nhưng sau khi cuộc sống trở lại bình thường và Quốc Xã không còn nữa, tôi có thể trở lại.”
“Khi quay lại thì ông sẽ làm gì?”
Morgan vui sướng. “Tôi muốn là một nhà ngoại giao. Đó là lý do tại sao tôi làm trong ngành này. Sau những gì tôi đã thấy trọng các chiến hào…”Ông hất đầu về phía một vết sẹo do đạn bắn trên cánh tay. “Sau đó, tôi đã quyết định sẽ làm bất kỳ điều gì có thể để chấm dứt chiến tranh. Ngoại giao đoàn sẽ có ý nghĩa. Tôi đã gửi thư cho Thượng Nghị sĩ nói về chuyện này. Và ông ta gợi ý hãy đến Berlin. Ông gọi đây là một quốc gia đang trong cơn biến động liên tục. Và thế là tôi ở đây. Tôi hy vọng sẽ trở thành sĩ quan liên lạc trong vài năm. Sau đó làm đại sứ hay một lãnh sự. Như đại sứ Dodd của chúng ta ở đây. Ông ấy là một thiên tài, một chính khách thật sự. Tôi sẽ không được bổ nhiệm ở đây đâu, dĩ nhiên, ban đầu thì không. Một quốc gia quá quan trọng. Tôi có thể khởi đầu tại Hà Lan. Hay có thể là Tây Ban Nha, sau khi cuộc nội chiến kết thúc, đương nhiên. Nếu còn bất kỳ người Tây Ban Nha nào. Franco cũng tệ hại như Hitler. Sẽ thật tàn bạo. Nhưng đúng, tôi muốn quay lại đây khi mọi ô uế đã không còn.”
Một lúc sau, Paul nhận ra Otto Webber đang xuống con đường mòn, bước đi thật chậm, hơi bối rối một chút và nheo mắt vì ánh nắng quá chói chang.
“Anh ta kia rồi.”
“Anh ta? Trông hắn cứ như Thị trưởng ý. Là kẻ tối ngày chỉ đắm mình vào rượu chè. Chúng ta phải phụ thuộc vào hắn à?”
Webber đến gần ghế dài, ngồi xuống thở nặng nhọc. “Một ngày nóng kinh. Tôi không biết buổi sáng trời có thể nóng thế này. Tôi hiếm khi dậy vào giờ này lắm. Nhưng thế này càng tốt, chúng ta có thể gặp nhau mà không phải lo lắng. Ông là đối tác của cậu John Dillinger?”
“Dillinger?” Morgan hỏi.
“Tôi là Otto Webber.” Anh ta bắt tay Morgan thật chặt. “Ông là?”
“Tôi sẽ giữ kín tên mình nếu anh không phiền.”
“Chà, với tôi thì không sao.” Webber dò xét Morgan chăm chú. “Thế này, tôi có vài bộ quần dài đẹp lắm. Tôi có thể bán với giá rẻ. Phải, phải, rất rẻ. Chất lượng tốt nhất. Hàng nhập từ Anh. Tôi có thể nhờ một trong mấy cô em của tôi sửa lại vừa khít với ông. Ingrid luôn sẵn sàng. Và rất tài năng. Cực kỳ xinh đẹp nữa. Một viên ngọc thật sự.”
Morgan nhìn xuống chiếc quần dài màu xanh vải flannel của mình. “Không. Tôi không cần thêm quần áo đâu.”
“Thế còn sâm panh? Vớ?”
“Otto,” Paul nói. “Tôi nghĩ món hàng duy nhất chúng tôi quan tâm liên quan đến câu chuyện giữa tôi và anh hôm qua.”
“À, phải, cậu John Dillinger. Ngoại trừ việc tôi có vài tin có thể cậu không thích. Tất cả các liên hệ của tôi báo rằng, một bức màn câm lặng đã phủ xuống Phố Wilhelm. Điều gì đó đã khiến chúng cảnh giác. An ninh được tăng cường hơn bao giờ hết. Và tất cả chuyện này diễn ra trong ngày hôm trước. Không ai có được thông tin nào về người cậu đang nói đến.”
Khuôn mặt Paul nhăn nhó trong thất vọng.
Morgan lẩm bẩm, “Tôi mất cả nửa đêm qua đi gom tiền đấy.”
“Tốt,” Webber vui mừng nói. “Tiền Mỹ đúng không?”
“Bạn tôi ơi,” tay người Mỹ mảnh mai cay độc nói thêm, “nếu chúng tôi không có được thông tin, anh sẽ chẳng nhận được gì hết.”
“Nhưng tình hình không phải là vô vọng. Tôi vẫn có thể được hỗ trợ mà.”
“Tiếp đi,” Morgan nóng ruột nói. Ông lại nhìn xuống quần mình, đỏ mặt khi thấy vết bẩn.
Tay người Đức nói tiếp. “Tôi không thể nói với ông con gà này ở đâu ra, nhưng ông sẽ nói sao nếu tôi dẫn ông vào chuồng gà, rồi ông tự tìm hiểu?”
“Con…” Anh ta hạ giọng. “Tôi có thể dẫn ông vào Phủ Thủ tướng. Vị trí của Ernst là nơi vị Bộ trưởng nào cũng phải ghen tị. Ai cũng muốn tiếp cận thật gần Little Man, muốn chuyển văn phòng mình vào trong tòa nhà, nhưng điều tốt nhất họ có thể làm đó là tìm không gian ở gần đó. Tuy nhiên, Ernst vẫn mãi là nỗi thống khổ đối với nhiều người.”
Paul nhăn nhó. “Tối qua, tôi đã xem xét nơi đó. Lính gác ở khắp nơi. Anh không thể đưa tôi vào trong được.”
“À, nhưng tôi có ý tưởng khác, bạn tôi ơi.”
“Thế quái nào anh làm được?” Paul chuyển sang dùng tiếng Anh. Gã lặp lại câu hỏi với tay người Đức.
“Chúng ta phải cảm ơn Little Man. Hắn ta bị ám ảnh với kiến trúc. Hắn ta đang cho trùng tu lại Phủ Thủ tướng kể từ khi hắn lên nắm quyền. Nhân công có 7 ngày được phép vào Phủ Thủ tướng. Tôi sẽ cung cấp bộ đồ nhân công, một chứng minh thư giả và hai thẻ ra vào để đưa cậu vào trong. Một trong số các liên hệ của tôi đang làm mảng trát vữa tại đó, anh ta được quyền tiếp cận toàn bộ các tài liệu.”
Morgan cân nhắc điều này rồi gật đầu, đến giờ ông đã bớt hoài nghi ý kiến này.
“Bạn tôi bảo rằng Hitler mong muốn có thảm trải sàn tại toàn bộ các văn phòng trên các tầng quan trọng. Sẽ bao gồm cả phòng của Ernst. Các nhà cung cấp thảm đang đo những văn phòng này. Vài văn phòng đã đo xong, vài phòng thì chưa. Chúng ta sẽ hy vọng trong số này có văn phòng của Ernst. Trong trường hợp đo xong rồi, cậu có thể viện cớ rằng mình phải đo lại. Thẻ ra vào tôi đưa cậu là lấy từ công ty nổi tiếng với chất lượng thảm tốt, so với nhiều công ty khác. Tôi sẽ cung cấp cho cậu một thước đo cùng một cuốn sổ tay.”
“Làm sao anh biết có thể tin tưởng người này?” Paul hỏi.
“Bởi vì hắn đang sử dụng vữa giá rẻ để ăn chênh lệch giữa tiền vữa và tiền công nhà nước trả. Đó là tội chết khi bạn xây chiếc ghế quyền lực của Hitler. Nên tôi có một vài ảnh hưởng đối với hắn, hắn sẽ không dám nói dối với tôi. Thêm vào đó, hắn chỉ nghĩ rằng chúng ta đang có âm mưu cắt xén giá thảm. Dĩ nhiên, tôi đã hứa chia cho hắn ít trứng.”
“Trứng?” Morgan hỏi.
Đến lượt Paul phải giải thích. “Là tiền.”
Ông có cân giò, bà thò chai rượu…
“Tính ra tốn khoảng 1.000 đô la.”
“Tôi muốn nói rõ rằng tôi không có 1.000 đô la.”
Morgan lắc đầu, thò tay vào túi lấy ra tờ 100 đô.
“Thế tốt rồi. Thấy chưa, tôi có tham đâu.”
Morgan trố mắt nhìn Paul. “Không tham? Sao hắn chẳng khác gì Göring.”
“Chà, tôi xem đó như một lời khen. Ngài Bộ trưởng Hàng không của chúng ta là một thương nhân rất thành đạt.” Webber quay sang Paul. “Bây giờ sẽ có vài quan chức trong tòa nhà, ngay cả vào ngày Chủ nhật. Nhưng người của tôi biết chúng là những quan chức cao cấp và đa phần sẽ chỉ ở trong phần tòa nhà cùng Lãnh tụ, phía bên trái nơi cậu không được phép tới gần. về bên phải là các văn phòng của những quan chức cấp thấp hơn - trong số này có văn phòng của Ernst. Các quan chức này cùng những thư ký và sĩ quan phụ tá có khả năng sẽ không có mặt. Cậu nên dành thời gian ngó qua văn phòng của hắn. Và nếu cậu may mắn, cậu có thể tìm được lịch làm việc, biên bản ghi nhớ hay ghi chú nào đó về những cuộc hẹn của hắn trong vài ngày tới.”
“Không tồi nhỉ,” Morgan nói.
Webber thêm vào, “Tôi sẽ cần một giờ hoặc hơn để sắp đặt mọi thứ, đi kiếm bộ áo liền quần, giấy tờ cho cậu và một chiếc xe tải. Tôi sẽ gặp cậu tại bức tượng gần đó, người phụ nữ có bộ ngực nở nang, vào lúc 10 giờ sáng. Tôi sẽ mang thêm cho ông mấy cái quần dài nữa,” anh ta nói thêm với Morgan. “20 mác. Giá hữu nghị đấy.” Anh ta mỉm cười, quay sang Paul. “Bạn cậu đây dò xét tôi bằng ánh mắt đặc biệt thật, cậu John Dillinger. Tôi không nghĩ ông ấy tin tưởng tôi.”
Reggie Morgan nhún vai. “Tôi sẽ nói anh nghe, anh Otto Wilhelm Friedrich Georg Webber.” Liếc mắt sang Paul. “Đồng nghiệp tôi đây đã kể anh nghe về những cảnh giác chúng tôi cần có, để hoàn toàn chắc chắn rằng anh không phản bội chúng tôi. Không, bạn tôi ạ, niềm tin không phải là vấn dề. Tôi đang nhìn anh như thế vì tôi muốn biết, điều quái gì khiến anh nghĩ quần dài của tôi không ổn thế?”
Hắn nhìn thấy hình bóng của Mark trên gương mặt thằng bé đứng trước mặt.
Dĩ nhiên người ta mong đợi nhìn thấy người cha ở đứa con trai. Nhưng vẫn gây ra bối rối.
“Đến đây, Rudy,” Reinhard Ernst nói với đứa cháu.
“Vâng, thưa ông.”
Buổi sáng Chủ nhật, trời hẵng còn sớm, người quản gia đang dọn dẹp bát đĩa bữa sáng trên chiếc bàn tắm trong ánh mặt trời vàng như phấn hoa. Gertrud ở trong bếp đang xem xét một con ngỗng đã bị vặt trụi lông sẽ làm cho bữa tối muộn trong ngày. Cô con dâu đang ở nhà thờ thắp nến cho lễ tưởng nhớ Mark Albrecht Ernst, ngài đại tá đang thấy chính người thanh niên trẻ tuổi ấy ở đứa cháu trai.
Hắn buộc lại dây giày cho Rudy. Liếc nhìn thằng bé một lần nữa, gã lại thấy Mark, cho dù lần này hắn để ý nét khác lạ trên gương mặt nó: tò mò, hiểu biết.
Thật kỳ lạ.
Ôi, hắn nhớ con trai hắn biết bao…
Đã 18 tháng rồi kể từ khi Mark nói lời tạm biệt với cha mẹ, vợ và Rudy, tất cả họ đang đứng đằng sau con đường ray tại Nhà ga Lehrter Station. Ernst đã đứng nghiêm chào chàng sĩ quan mới hai mươi bảy tuổi - một thế chào nghiêm đúng kiểu nhà binh, không phải chào theo kiểu Phát xít - khi con trai hắn đáp chuyến tàu đến Hamburg để nắm quyền chỉ huy tàu chiến.
Chàng sĩ quan trẻ hoàn toàn nhận thức được nguy hiểm của con tàu xiêu vẹo, rách nát nhưng vẫn chấp nhận hết.
Bởi vì đó chính là công việc của những người lính, những thủy thủ.
Không ngày nào Ernst không nghĩ đến Mark. Nhưng chưa bao giờ, linh hồn cậu con trai lại gần gũi với hắn như bây giờ, khi nhìn thấy những nét quen thuộc này trên gương mặt đứa cháu trai duy nhất, quá thẳng thắn, tự tin và tò mò. Chẳng phải đó là bằng chứng rằng thằng bé này mang tính cách của cha nó? Rudy sẽ phải tòng quân trong vòng 10 năm nữa. Đến lúc đó nước Mỹ sẽ như thế nào? Có chiến tranh? Hay hòa bình rồi? Liệu lúc đó Hitler biến đi chưa, một cỗ máy mạnh mẽ đến mức có nhanh chóng xiết chặt và thiêu cháy hắn không? Hay liệu Lãnh tụ vẫn nằm quyền chỉ huy, vẫn đánh bóng tầm nhìn của hắn về một nước Đức mới. Trái tim Ernst mách bảo rằng hắn nên cực kỳ để tâm tới những câu hỏi này. Thế nhưng hắn biết mình không thể lo lắng đến chúng. Hắn chỉ tập trung vào bổn phận của mình mà thôi.
Người ta phải làm tốt bổn phận của mình.
Ngay cả khi điều đó có nghĩa là chỉ huy một con tàu huấn luyện cũ rích không được mang theo thuốc súng và đạn pháo, với tạp chí về thay thế sửa chữa tạm thời để quá gần bếp nấu ăn hoặc buồng máy, hoặc dây cháy (mà chẳng ai biết). Với những hậu quả đó một khi tàu đang triển khai tập luyện quy mô lớn trên biển Baltic lạnh giá, giây phút sau nó đã biến thành đám mây khói cay xè trên mặt nước, thân xác tả tơi chìm trong vùng đen ngòm của nước xuống đến tận đáy biển.
Bổn phận…
Ngay cả nếu điều này có nghĩa là mất nửa ngày chiến đấu trong những con hào Phố Wilhelm, từ đầu đến cuối chiến đấu vì Lãnh tụ, nếu cần thiết vì những gì là tốt nhất cho nước Đức.
Ernst thắt nút dây giày cuối cùng cho Rudy để chắc chắn sẽ không tuột giày. Hắn đứng dậy, nhìn xuống phiên bản bé bỏng của con trai hắn. Trong cơn bốc đồng trái ngược với bản tính của Ernst, hắn hỏi, “Rudy này, sáng nay ta phải đi gặp một người. Nhưng sau đó, cháu có muốn đi với ta đến Olympic không? Cháu có thích không?”
“Dạ có ạ.” Gương mặt thằng bé nở nụ cười rạng tỡ. “Cháu có thể chạy vòng quanh sân.”
“Cháu chạy nhanh lắm.”
“Gunni ở trường cháu, cùng chạy đua với cháu từ cấy sồi đến hàng hiên, anh ấy hơn cháu hai tuổi, thế mà cháu vẫn thắng.”
“Giỏi, giỏi. Thế thì cháu sẽ thích buổi chiều hôm nay. Cháu sẽ đi cùng ông và cháu có thể chạy trên đúng đường chạy của những vận động viên Olympic. Sau đó, khi chúng ta xem khai mạc Thế vận hội vào tuần sau, cháu có thể bảo mọi người là cháu đã chạy trên đường chạy như thế. Sẽ vui lắm, đúng không?”
“Dạ, vâng ạ.”
“Giờ ông phải đi đã. Nhưng ông sẽ quay về vào buổi trưa và đón cháu.”
“Cháu sẽ tập chạy.”
“Ừ, cháu tập đi.”
Ernst bước vào phòng riêng thu thập vài hồ sơ về Nghiên cứu Waltham, sau đó thấy vợ ông trong phòng để đồ dùng ăn uống. Ông nói với bà rằng ông sẽ đón Rudy sau. Còn bây giờ? Phải, phải, hôm nay là sáng Chủ nhật, nhưng ông vẫn phải giải quyết mấy vấn đề hệ trọng. Và, không, chúng không thể đợi được.
Mặc kệ người ta có nói gì về mình, Hermann Göring cũng không thấy mệt.
Chẳng hạn, ngày hôm nay lão đã đến văn phòng tại Bộ Hàng không vào 8 giờ sáng. Một ngày Chủ nhật, không hơn. Và lão phải dừng lại giữa đường.
Mồ hôi vã ra như tắm, lão tiến vào Phủ Thủ tướng nửa giờ trước đó và đang bước vào văn phòng của Hitler. Có lẽ Sói Xám đã thức giấc - tức là, vẫn tỉnh táo. Bị mắc chứng mất ngủ, người đàn ông này thường thức trắng đến quá bình minh. Nhưng không, Lãnh tụ vẫn đang nằm trên giường. Tên lính gác báo cáo rằng y quay vào ngủ lúc khoảng 5 giờ sáng, có dặn lại không được làm phiền.
Göring suy nghĩ một lúc, ghi nguệch ngoạc lên một tờ giấy, trao lại cho tên lính gác.
Thưa Lãnh tụ,
Tôi biết một vấn đề đáng được quan tâm ở mức cao nhất. Có thể liên quan đến sự phản bội. Các kế hoạch tưomg lai hệ trọng đang lâm nguy. Tôi sẽ tường thuật thông tin trực tiếp với ngài càng sớm càng tốt.
Goring.
Biết lựa chọn từ ngữ đấy. “Sự phản bội” luôn luôn là một ngòi nổ. Những kẻ Do Thái, Cộng sản, Dân chủ Xã hội và Cộng hòa - nói ngắn gọn, những kẻ đâm sau lưng - đã bán đứng đất nước này cho Đồng Minh khi kết thúc Thế Chiến thứ I và vẫn đe dọa sẽ đóng vai Thủ hiến Pilate hành hình chúa Jesus của Hitler.
Ồi, Sói Xám hẳn sẽ nộ khí xung thiên khi nghe từ đó.
“Những kế hoạch tương lai” nghe cũng hay nữa. Bất kể điều gì đe dọa kéo lùi tầm nhìn của Hitler về ĐỆ TAM ĐẾ CHẾ sẽ lập tức thu hút sự chú ý của y.
Cho dù đường đến Phủ Thủ tướng không xa lắm, nhưng với một lão béo trong một buổi sáng nóng như thế này, hành trình đó cũng là cả một vấn đề. Tuy nhiên, Göring không còn lựa chọn nào khác. Lão không thể gọi điện hoặc sai một người đưa tin. Reinhard Ernst không phải là kẻ vận động ngầm đủ trình độ xây dựng một mạng lưới tình báo riêng để do thám đồng nghiệp, trái lại nhiều kẻ khác lại rất sung sướng được lấy cắp tiết lộ của Göring về xuất thân Do Thái của Ludwig Keitel trao cho Lãnh tụ, như thể đó là khám phá của riêng chúng. Chẳng hạn như Goebbels, đối thủ chính của Göring trong cuộc tranh giành sự chú ý của Sói Xám, lão ta sẽ làm ngay mà chẳng tốn một giây cân nhắc.
Lúc này đã gần 9 giờ sáng, tên Bộ trưởng đang hướng sự chú ý đến một hồ sơ dày khiến người ta nản lòng về việc Aryan một công ty hóa chất lớn ở phía Tây, sáp nhập nó vào Tập đoàn Công ty Hermann Göring Works. Điện thoại của lão đổ chuông.
Từ trong phòng chờ, trợ lý của lão trả lời. “Văn phòng Bộ trưởng Göring đây.”
Tên Bộ trưởng vươn người ra phía trước, nhìn ra ngoài. Lão có thể thấy anh ta đang đứng nghiêm khi nói chuyện. Tay trợ lý gác máy rồi bước vào văn phòng. “Lãnh tụ sẽ gặp ngài trong vòng nửa tiếng, thưa ngài.”
Göring gật đầu bước đến chiếc bàn đối diện văn phòng. Ngồi xuống bàn, lão tự phục vụ mình bữa ăn trên chiếc khay cao ngất. Tay trợ lý rót cà phê. Tên Bộ trưởng Hàng không lật qua vài trang thông tin tài chính về công ty hóa chất, nhưng lão thấy khó tập trung, trên các cột số luôn hiện lên hình ảnh Reinhard Ernst bị hai sĩ quan Gestapo áp giải ra khỏi Phủ Thủ tướng, một nét hoang mang và thất bại trên khuôn mặt lãnh đạm đến phát bực của tay đại tá.
Một ảo ảnh phù phiếm, đúng nhưng nó mang lại sự phân tâm dễ chịu, trong khi lão xử lý một đĩa xúc xích trứng khổng lồ.