← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 21

Trong căn hộ rộng rãi nhưng bẩn thỉu và nhếch nhác của mình trên phố Krausen, tồn tại từ thời Bismarck và Wilhelm, cách các tòa nhà Chính phủ nửa cây số về phía Đông nam, hai thanh niên ngồi tại một bàn ăn tối trang trí công phu. Họ đã tranh luận với nhau suốt mấy tiếng liền. Cuộc thảo luận sôi nổi, kéo dài do chủ đề chẳng gì khác hơn ngoài sự sống còn của họ.

Cũng như với nhiều vấn đề của ngày nay, câu hỏi căn bản khiến họ đang trăn trở, đó là câu hỏi về niềm tin.

Phải chăng người đó sẽ đưa họ đến sự cứu rỗi, hay họ sẽ bị phản bội và phải trả giá cho sai lầm đó bằng mạng sống của mình?

Keng, keng, keng…

Kurt Fischer, người nhiều tuổi hơn trong hai anh em có mái tóc vàng nói, “Đừng làm ồn thế nữa đi.”

Hans đang gõ con dao xuống đĩa đựng lõi táo cùng ít bề mặt cứng của pho mát, những gì còn sót lại trong bữa sáng nghèo nàn của họ. Cậu ta tiếp tục tạo nên những âm thanh keng keng một lúc nữa rồi bỏ con dao xuống.

Hai anh em đã xa cách nhau 5 năm, nhưng giờ đây vẫn còn những hố sâu khác ngăn cách họ.

Hans nói, “Hắn có thể tố cáo chúng ta vì tiền. Hắn có thể, vì hắn đắm đuối với Chủ nghĩa Phát xít. Vì hôm nay là Chủ nhật và hắn chỉ đơn giản là thích tố cáo ai đó.”

Điều này chắc chắn đúng.

“Và như em đã luôn nói, vội gì chứ? Sao lại là hôm nay? Em muốn đi gặp lại Ilsa. Anh nhớ cô ấy, đúng không? Ôi, cô ấy xinh đẹp như Marlene Dietrich vậy.”

“Mày đang nói giỡn phỏng?” Kurt cáu tiết đáp. “Chúng ta đang quan tâm đến mạng sống của mình, còn mày vẫn héo hon vì con bé ngực bự mới quen chưa đầy một tháng.”

“Ngày mai chúng ta hãy đi. Hay tại sao không để tới sau Thế vận hội? Mọi người sẽ bỏ Thế vận hội ra về sớm, vứt lại những tấm vé ban ngày. Chúng ta có thể tham dự các sự kiện buổi chiều.”

Đây nhiều khả năng nhất chính là mấu chốt vấn đề: Thế vận hội. Đối với một thanh niên đẹp trai như Hans, một người đẹp như Ilsas trong cuộc đời cậu sẽ không thiếu, cô bé không quá xinh cũng không tỏa sáng (đặc biệt cho dù cô bé không đáp ứng tiêu chuẩn của Quốc Xã). Nhưng điều khiến Hans phiền lòng nhất đó là trốn khỏi nước Đức, đồng nghĩa với việc để vuột mất Thế vận hội.

Kurt thở dài phẫn nộ. Em trai anh ta mới 19, cái tuổi nhiều thanh niên đã phải đảm nhận những vị trí đầy trọng trách trong quân đội hay thương mại. Nhưng em trai anh luôn luôn bốc đồng hay mơ mộng, chưa kể hơi lười nữa.

Làm gì đây? Kurt nghĩ, tự tranh luận với chính mình. Anh nhai một miếng bánh mỳ khô khốc. Một tuần nay họ không có bơ. Thực ra, trong nhà họ còn rất ít đồ ăn. Nhưng Kurt ghét phải đi ra ngoài. Thật mỉa mai, anh cảm thấy ra ngoài đó còn dễ bị tổn thương hơn - trong khi thực ra ru rú trong căn hộ còn nguy hiểm hơn nhiều, không nghi ngờ gì nữa, lũ Gestapo hay SD thi thoảng lại đến thăm.

Kurt lại tự nhủ: vấn đề quan trọng nhất chính là niềm tin. Chúng có đáng tin hay không?

“Chuyện gì thế?” Hans hỏi, nhướn một bên mày.

Kurt lắc đầu. Anh không nhận ra mình đã nói lớn tiếng. Câu hỏi dành cho hai người duy nhất trên thế giới đưa ra được câu trả lời thành thật và sự đánh giá đúng đắn. Đó là bố mẹ họ. Nhưng cả Albrecht lẫn Lotte Fischer đều không ở đây. Là những người Dân chủ Xã hội và yêu hòa bình, cặp vợ chồng đã tham dự một hội nghị hòa bình toàn thế giới tại London 2 tháng trước. Nhưng ngay trước khi quay về, qua một người bạn họ biết rằng tên họ đã nằm trong danh sách của Gestapo. Lực lượng cảnh sát mật đang âm mưu bắt giữ họ tại Tempelhof khi họ đến đó. Albrecht đã hai lần cố gắng lẻn về nước đưa hai con trai của họ ra ngoài, một lần qua ngả Pháp và một lần qua ngả Czech Sudetenland. Nhưng cả hai lần ông đều bị từ chối cho nhập cảnh, lần thứ hai còn suýt bị bắt.

Lủi thủi tại London, nương nhờ sự giúp đỡ của những lão giáo sư hẹp hòi, nhận việc bán thời gian dịch thuật và giảng dạy, cặp vợ chồng phiền muộn cố gắng xoay xở gửi vài tin nhắn về cho hai đứa con, thúc giục họ rời khỏi đất nước. Nhưng hộ chiếu của hai anh em không được gia hạn, chứng minh thư thì bị đánh dấu. Không chỉ vì họ là con của những người yêu hòa bình và dân chủ Xã hội nhiệt thành mà có vẻ như lực lượng Gestapo còn giữ các hồ sơ về bản thân những chàng trai này. Nào là họ giữ vững những niềm tin chính trị của cha mẹ, cảnh sát còn để ý đến sự có mặt của họ tại những Câu lạc bộ nhạc Jazz và swing bị cấm đoán vì chơi nhạc của người Mỹ da màu, con gái thì hút thuốc rồi uống rượu punch kèm với vodka Nga. Nào là họ kết bạn với những nhà hoạt động vì hòa bình.

Hầu như không có dấu hiệu bị săn đuổi. Nhưng chỉ còn là vấn đề thời gian cho đến khi họ bị bắt. Hoặc chết đói. Kurt đã bị sa thải khỏi chỗ làm. Hans vừa hoàn tất 6 tháng lao động công ích bắt buộc và quay về nhà. Cậu bị đuổi khỏi trường đại học - Gestapo cũng quan tâm đến chuyện này - và cậu cũng thất nghiệp giống ông anh trai. Tương lai của hai anh em nhiều khả năng là phải đi ăn xin trên Quảng trường Alexander Plaza hoặc Oranienburger.

Câu hỏi về niềm tin một lần nữa dấy lên. Albrecht Fischer cố gắng liên hệ với tay đồng nghiệp cũ, Gerhard Unger ở trường Đại học Berlin. Bản thân cũng là người yêu hòa bình và Dân chủ Xã hội, Unger đã bỏ việc giảng dạy không lâu sau khi Quốc Xã lên nắm quyền, quay về đảm trách công ty bánh kẹo của gia đình. Ông hay có những chuyến đi lên các vùng biên giới. Với tinh thần chống Hitler, ông rất hạnh phúc giúp nhiều chàng trai thoát khỏi nước Đức bằng một trong những chiếc xe tải của ông. Sáng Chủ nhật nào cũng vậy, Unger đều chạy xe lên Hà Lan giao hàng bánh kẹp và mua nguyên liệu. Có cảm tưởng rằng, với số lượng du khách tràn vào nước dịp Thế vận hội, lính gác vùng biên sẽ bận rộn, không để ý đến xe tải thương mại rời khỏi đất nước theo lịch trình cố định.

Nhưng liệu họ có nên hoàn toàn tin tưởng để đặt mạng sống của mình vào tay ông ta?

Chẳng có lý do rõ ràng nào để không tin cả. Unger và Albrecht là những người bạn. Họ tương đồng với nhau về suy nghĩ. Ông ta cũng căm ghét Quốc Xã.

Thế nhưng thời buổi này đầy rẫy những lời xin lỗi vì phản bội.

Ông ta có thể tố cáo chúng ta vì hôm nay là Chủ nhật…

Và còn một lý do khác đằng sau sự dùng dằng của Kurt Fischer. Chàng thanh niên trở thành một người yêu hòa bình, là nhà Dân chủ Xã hội phần lớn do ảnh hưởng từ cha mẹ và bạn bè chứ bản thân anh chưa bao giờ là người tích cực về mặt chính trị.

Cuộc sống đối với anh là đi xe đạp đường dài, là những cô nàng, là du lịch và trượt tuyết. Nhưng bây giờ, khi Quốc Xã lên nắm quyền, anh ngạc nhiên khi thấy trong mình là khao khát manh mẽ muốn chiến đấu với chúng, muốn thức tỉnh mọi người về sự tàn bạo và ác độc của chúng. Anh lưỡng lự có nên ở lại chiến đấu để lật đổ chúng.

Nhưng chúng quá mạnh mẽ, xảo quyệt. Và đáng sợ.

Kurt nhìn đồng hồ trên bệ lò sưởi. Nó chết hẳn rồi. Anh và Hans lúc nào cũng quên lên dây cho nó. Đây vốn là công việc của người cha và hình ảnh đồng hồ chết khiến đầu Kurt đau nhức. Anh rút đồng hồ bỏ túi ra xem giờ. “Chúng ta phải đi ngay bây giờ hoặc gọi cho ông ta bảo chúng ta không đi nữa.”

Keng, keng, keng… Con dao vẫn tiếp tục phát ra âm thanh khi chạm vào đĩa.

Một khoảng im lặng dài.

“Em nói chúng ta ở lại,” Hans nói. Nhưng cậu nhìn anh trai đầy mong đợi, luôn luôn có sự cạnh tranh giữa hai anh em, thế nhưng người em sẽ tuân thủ mọi quyết định người anh đưa ra.

Nhưng liệu mình có quyết định chính xác không?

Sinh tồn…

Cuối cùng, Kurt Fischer nói, “Bọn mình đi thôi. Chuẩn bị đồ đi.”

Keng, keng…

Kurt quàng ba lô lên vai, nhìn cậu em trai như thách thức. Nhưng tâm trạng của Hans hay thay đổi như thời tiết mùa xuân. Cậu ta bất ngờ phá lên cười, hất đầu về phía quần áo của hai anh em. Họ đang mặc quần cộc, áo sơ mi ngắn tay và ủng đi bộ đường dài. “Nhìn chúng ta xem. Chi cần làn da nâu nữa là thành Đoàn thanh niên Hitler ngay!”

Kurt không nhịn được cười. “Đi thôi, đồng chí,” anh châm biếm bắt chước câu nói được bọn lính Xung Kích, Đoàn thanh niên ưa dùng với đồng bọn.

Ép mình không nhìn căn hộ lần cuối cùng vì sợ rằng sẽ khóc, Kurt Fischer mở cửa ra vào. Hai anh em cùng bước vào hành lang.

Bên kia sảnh là bà Lutz dáng người chắc hịch, má tròn và ửng hồng. Bà ta là góa phụ thời Thế Chiến thứ I, đang giặt thảm chùi chân. Người phụ nữ này thường sống khép mình, nhưng đôi khi ghé thăm nhà các khách trọ nhất định - chỉ những ai đáp ứng được những tiêu chuẩn hàng xóm láng giềng nghiêm ngặt của bà ta, bất kể những tiêu chuẩn đó là gì - và mang cho họ những món ăn diệu kỳ của mình. Bà ta xem anh em nhà Fischer là bạn bè, suốt bao năm qua bà đã tặng họ nào là bánh pudding phổi cừu, bánh hấp mận khô, thịt ướp nấu đông, dưa chuột ngâm, xúc xích tỏi của Ý và mỳ lòng bò. Lúc này vừa nhác thấy bà ta, Kurt đã thèm nhỏ dãi.

“Ôi, hai cậu nhà Fischer!”

“Chào bà Lutz. Mới sáng mà bà đã chăm chỉ thế.”

“Tôi nghe nói trời sẽ lại nóng nữa. Chà, nóng thì lại mưa.”

“Ồ, chúng tôi không hề muốn điều gì cản trở Thế vận hội,” Hans nói với ý mỉa mai. “Chúng tôi rất mong được xem.”

Bà ta bật cười. “Những thằng ngốc mặc đồ lót chạy nhảy choi choi! Ai cần đến chúng khi những cái cây tội nghiệp của tôi đang chết khát? Hãy nhìn đám bồ công anh của tôi ngoài cửa kìa. Và những cây thu hải đường nữa! Giờ nói tôi nghe, bố mẹ các cậu đâu rồi? Vẫn đang trong chuyến du ngoạn à?”

“Vâng, tại London.” Những khó khăn về chính trị của bố mẹ họ không phải là chuyện để tám, lẽ tự nhiên hai anh em thấy miễn cưỡng khi phải nói chuyện đó với bất kỳ ai.

“Đã vài tháng rồi. Lẽ ra họ phải về nhà sớm nếu không sẽ nhận không ra hai cậu nữa. Giờ hai cậu đi đâu đấy?”

“Đi bộ đường dài. Tại Grünewald.”

“À, nơi đó đẹp lắm đấy. Và mát hơn nhiều ở thành phố.” Bà ta lại quay sang chú tâm giặt đồ.

Khi bước xuống cầu thang, liếc sang cậu em trai, Kurt thấy Hans lại nhanh chóng mang bộ mặt đưa đám.

“Có chuyện gì thế?”

“Dường như anh cho rằng thành phố này là sân chơi của quỷ. Nhưng không phải thế. Có hàng triệu người giống bà ấy.” Cậu hất đầu lên gác. “Những người tốt, những người tử tế. Và chúng ta đang bỏ lại họ. Để đến với cái gì? Một nơi chúng ta chẳng quen biết ai, nơi chúng ta không biết nói tiếng của họ, nơi chúng ta không có việc làm, nơi chúng ta vừa chiến tranh với họ 20 năm trước? Làm sao anh nghĩ chúng ta sẽ được tiếp nhận?”

Kurt không phản đối câu hỏi này. Em trai anh nói rất chuẩn. Và có khả năng xuất hiện hàng tá tranh luận phản đối việc họ ra đi.

Ra ngoài, họ nhìn ngược xuôi khắp phố. Không ai trong số vài người ra ngoài vào giờ này chú ý đến họ. “Đi thôi.” Kurt nói rồi đi xuống vỉa hè, tự nhủ rằng về mặt nào đó, anh đã nói thật với bà Lutz. Họ sẽ phải đi bộ - không chỉ đến bất kỳ một nhà trọ bẩn thỉu nào trong những cánh rừng gỗ thơm phía Tây Berlin, mà còn đi đến một cuộc sống mới bất định trên một mảnh đất hoàn toàn xa lạ.

Ông nhảy dựng lên vì tiếng chuông điện thoại.

Hy vọng đó là nhân viên khám nghiệm pháp y vụ ngõ Dresden, ông chộp lấy ống nghe. “Kohl đây.”

“Đến gặp tôi ngay, Willi.”

Cạch.

Một lúc sau, với trái tim đang đập liên hồi, ông bước lên sảnh tới văn phòng của Friedrich Horcher.

Giờ thì sao đây? Tay chánh thanh tra có mặt ở trụ sở vào sáng Chủ nhật sao? Phải chăng Peter Krauss đã biết rằng Kohl bịa ra câu chuyện về Reinhard Heydrich và Göttburg (thực ra ông ta đến từ Halle) để cứu mạng nhân chứng, lão Rosenbaum bán thịt? Phải chăng có ai nghe trộm lời nhận xét vô ý của ông với Janssen? Phải chăng có lệnh từ trên xuống rằng việc thanh tra tìm hiểu về các nạn nhân Do Thái chết tại Gatow sẽ bị khiển trách?

Kohl bước vào văn phòng của Horcher. “Thưa sếp?”

“Vào đi, Willi.” Ông ta đứng dậy đóng cửa lại, ra hiệu cho Kohl ngồi xuống.

Tay thanh tra làm theo. Ông cũng nhìn vào mắt ông sếp, như cách ông bảo hai cậu con trai phải làm hễ khi nào chúng nhìn ai có thể khiến chúng khó chịu.

Một phút im lặng khi Horcher về chỗ ngồi, đu đưa tới lui trên chiếc ghế da xa hoa, lơ đãng nghịch nghịch dải băng đỏ tuyệt vời trên cánh tay trái. Ông ta là một trong số ít quan chức Cảnh sát Hình sự cấp cao thực sự được đeo băng đỏ tại Alex.

“Vụ ngõ Dresden… khiến anh bận rộn đúng không?”

“Đây là một vụ thú vị.”

“Tôi nhớ những ngày điều tra, Willi.”

“Vâng, thưa sếp.”

Horcher tỉ mỉ sắp xếp giấy tờ trên bàn làm việc. “Anh sẽ đi xem Thế vận hội chứ?”

“Tôi đã mua vé 1 năm trước rồi.”

“Thế à? Lũ nhóc nhà anh chắc mong chờ lắm nhỉ?”

“Đúng vậy. Vợ tôi cũng thế.”

“Chà, tốt, tốt.”

Horcher chưa từng nghe Kohl nói câu nào về gia đình mình. Thêm một phút im lặng. Ông ta vuốt ve hàng ria mép mới cạo như một thói quen khi không nghịch dải băng đỏ. Rồi nói: “Willi ạ, đôi khi cần thiết phải làm những điều khó khăn. Đặc biệt trong công việc của chúng ta, cậu có nghĩ vậy không?” Horcher lảng tránh ánh mắt ông khi nói câu này. Qua nỗi lo lắng của ông ta, Kohl nghĩ: Đây là lý do tại sao người này không tiến xa được trong Đảng. Ông ta thực sự gặp rắc rối khi muốn truyền đạt tin xấu.

“Vâng, thưa sếp.”

“Nhiều người trong tổ chức đáng kính của chúng ta đã để ý đến cậu một thời gian.”

Giống như Janssen, Horcher không có khả năng châm biếm. “Đáng kính” sẽ mang nghĩa là trân trọng, cho dù việc ông ta đang nói đến tổ chức nào có thể vẫn là một điều bí ẩn xét theo hệ thống phân cấp phức tạp của Cảnh sát. Và ông kinh hoàng khi biết được câu trả lời cho câu hỏi, lúc Horcher nói tiếp. “SD đã lập hẳn hồ sơ nào đó về cậu, hoàn toàn độc lập với hồ sơ của Gestapo.”

Tin này khiến Kohl lạnh đến tận xương. Ai ai trong Chính phủ cũng đều trông đợi vào một hồ sơ Gestapo. Không có một hồ sơ nào hết sẽ là sự xúc phạm. Nhưng SD, Sở an ninh ưu tú nhất của SS? Và người lãnh đạo nó không ai khác ngoài đích thân Reinhard Heydrich. Như vậy là câu chuyện ông bịa ra với Krauss về quê hương của Heydrich đã quay lại. Tất cả chi nhằm cứu mạng một tên bán bánh Do Thái ông chưa hề quen biết.

Willi Kohl thở một cách nặng nhọc, hai lòng bàn tay chùi vào quần ướt đẫm mồ hôi, ông gật đầu khó hiểu khi dấu chấm hết cho sự nghiệp - và có lẽ là mạng sống của ông - bắt đầu mở ra trước mắt ông.

“Rõ ràng đã có những thảo luận về cậu ở cấp cao.”

“Vâng, thưa sếp.” Ông hy vọng giọng nói của mình không run. Ông nhìn như khoan vào mắt Horcher chỉ vài giây rồi chuyển phắt sang chỗ khác, lang thang lên bức tượng bán thân Hitler của Công ty Bakelite trên chiếc bàn gần cửa ra vào.

“Đã phát sinh vấn đề. Và thật không may tôi không thể làm được gì.”

Dĩ nhiên sẽ chẳng mong sự giúp đỡ gì của Friedrich Horcher rồi. Ông ta không chỉ là một Cảnh sát Hình sự đơn thuần, cấp bậc thấp nhất trong hàng ngũ Cảnh sát Đô thị mà còn là một tên hèn nhát nữa.

“Vâng, thưa sếp, có thể là vấn đề gì thế?”

“Có mong muốn… thực ra là lệnh: cậu đại diện cho chúng tôi tại ICPC ở London tháng Hai này.”

Kohl chậm rãi gật đầu, muốn được nghe nhiều hơn. Nhưng không, đó dường như là toàn bộ phần tin xấu.

Hiệp hội Cảnh sát Hình sự Quốc tế được thành lập tại Vienna trong những năm hai mươi là một mạng lưới hợp tác các lực lượng cảnh sát trên toàn thế giới. Họ cùng chia sẻ thông tin về tội ác, các tên tội phạm, các kỹ thuật thi hành luật pháp thông qua các ấn phẩm, điện tín và radio. Nước Đức là một thành viên và Kohl rất vui sướng được biết rằng cho dù Mỹ không phải là thành viên, nhưng các đại diện của FBI sẽ tham dự hội nghị với sự thèm muốn được gia nhập.

Horcher nhìn lướt qua mặt bàn làm việc. Từ các bức ảnh viền khung trên tường. Hitler, Göring và Himmler cũng đang nhìn trừng trừng.

Kohl thờ ra hít vào mấy lần để tự trấn tĩnh. Ông nói. “Đó sẽ là một vinh hạnh.”

“Vinh hạnh ư?” Horcher nhăn nhó. Rướn người về phía trước, ông nhẹ nhàng nói. “Cậu rộng lượng thật đấy.”

Kohl hiểu sự khó chịu của cấp trên. Tham dự một hội nghị chi tổ phí thời gian. Vì điều cuối cùng Hitler muốn là quảng bá Chủ nghĩa Phát xít như một nước Đức tự cường, một đồng minh của các tổ chức thi hành luật pháp quốc tế và chia sẻ thông tin. Có lý do để cho rằng “Gestapo” là từ viết tắt của “Cảnh sát nhà nước bí mật.”

Kohl được cử đến đó như một ông bù nhìn, đơn thuần chỉ chường mặt ra đó. Chẳng còn ai cấp cao hơn dám đi - đối với một quan chức Quốc Xã, việc rời khỏi đất nước trong vòng hai tuần, sẽ có thể đồng nghĩa với mất việc ngay sau khi quay về. Nhưng đối với Kohl, vì ông chỉ là một con ong thợ, không có ý đinh leo cao trong hàng ngũ Đảng, có thể biến mất trong vòng nửa tháng rồi quay về mà không mất mát gì - dĩ nhiên ngoài một vấn đề nhỏ, hàng tá vụ án sẽ bị trì hoãn, những kẻ hiếp dâm và giết người có thể được tự do.

Dĩ nhiên, họ không quan tâm đến việc này.

Horcher nhẹ nhõm trước phản ứng của tay thanh tra. Ông nhiệt tình hỏi, “Kỳ nghỉ cuối cùng của cậu là khi nào hả, Willi?”

“Heidi và tôi thường xuyên đến Wannsee và khu Rừng Đen.”

“Ý tôi là ra nước ngoài.”

“À, phải rồi… vào năm trước. Sang Pháp. Và một chuyến đi đến Brighton, Anh.”

“Cậu nên dẫn vợ cậu cùng đến London.”

Riêng đề nghị này thôi cũng đủ xóa tội cho Horcher, sau một lúc khôn ngoan, ông nói với Kohl. “Tôi nghe nói giá tàu xe hoàn toàn phải chăng vào thời điểm này trong năm.” Lại ngừng một lúc. “Dĩ nhiên, cho dù chúng tôi sẽ đài thọ chi phí ăn ở và đi lại của cậu.”

“Hào phóng quá.”

“Một lần nữa, tôi xin lỗi vì cậu phải chịu nỗi khổ này, Willi. Nhưng cậu sẽ được ăn và uống toàn món ngon. Bia Anh còn ngon hơn nhiều so với bia của chúng ta. Và cậu có thể ngắm Tháp Đồng hồ London!”

“Vâng, tôi sẽ thưởng thức.”

“Tháp Đồng hồ London thú vị làm sao”, tay thanh tra nhiệt tình lặp lại. “Chúc một ngày tốt lành, Willi.”

“Chúc sếp một ngày tốt lành.”

Đi qua những hành lang kỳ quái và tối om, bất chấp những chùm ánh nắng chói chang chiếu trên lớp gỗ sồi và sàn đá cẩm thạch, Kohl quay về văn phòng mình, chậm rãi trấn tĩnh khỏi nỗi sợ hãi.

Ông nặng nề ngồi xuống ghế, liếc mắt nhìn hộp bằng chứng và những ghi chép của ông liên quan đến vụ ngõ Dresden.

Rồi đôi mắt ông nhìn đến một tập hồ sơ nằm bên cạnh. Ông nhấc ống nghe lên gọi người điều hành tại Gatow, đề nghị được nối máy đến nhà riêng.

“A lô?” giọng một thanh niên thận trọng trả lời, có lẽ không quen những cuộc gọi vào buổi sáng Chủ nhật.

“Gendarme Raul đấy à?” Kohl hỏi.

Một lúc ngập ngừng. “Vâng.”

“Tôi là Thanh tra Willi Kohl.”

“À, vâng, Thanh tra. Hail Hitler. Ông đang gọi điện về nhà riêng của tôi. Vào ngày Chủ nhật.”

Kohl cười lặng lẽ. “Đúng vậy. Xin thứ lỗi vì sự đường đột. Tôi gọi liên quan đến báo cáo hiện trường tội ác từ vụ xả súng tại Gatow và vụ khác, các công nhân Ba Lan.”

“Tha lỗi cho tôi, thưa ngài. Vì tôi không có kinh nghiệm. Tôi chắc chắn rằng đó là những báo cáo chẳng thể sánh được với báo cáo ngài đã quen. Chắc chắn không chất lượng được như tự tay ngài viết ra. Nhưng tôi đã cố gắng hết sức rồi.”

“Ý cậu là báo cáo đã hoàn chỉnh?”

Lại ngập ngừng thêm, còn lâu hơn lúc đầu. “Vâng, thưa ngài. Và tôi đã trình lên Tư lệnh Hiến binh Meyerhoff rồi.”

“Tôi hiểu. Nộp bao giờ thế?”

“Thứ Tư tuần trước, tôi tin là thế. Đúng rồi. Chính xác đấy.”

“Ông ta đã nhận được chưa?”

“Tôi để ý thấy một bản sao trên bàn ông ấy tối thứ Sáu, thưa ngài. Và tôi cũng đề nghị ông ấy gửi cho ngài một bản. Tôi ngạc nhiên khi ngài vẫn chưa nhận được.”

“Tôi sẽ theo dõi vấn đề này với cấp trên của cậu… Nói tôi nghe, Raul. Cậu có hài lòng với việc xử lý hiện trường tội ác của mình không?”

“Tôi tin mình đã làm triệt để, thưa ngài.”

“Cậu có đưa ra được kết luận nào không?” Kohl hỏi.

“Tôi…”

“Suy đoán hoàn toàn được chấp nhận trong giai đoạn điều tra này.”

Cậu ta nói, “Cướp bóc dường như không phải là động cơ?”

“Cậu đang hỏi tôi đấy à?”

“Không, thưa ngài. Tôi đang nêu ra kết luận của tôi. À, suy đoán.”

“Tốt. Họ có mang theo đồ tùy thân không?”

“Tiền của họ bị mất. Nhưng đồ hang sức và những đồ đạc khác không bị lấy đi. Một số trong các món đồ này có vẻ rất có giá trị. Cho dù…”

“Tiếp đi.”

“Những món đồ này ở trên người nạn nhân khi họ được đưa đến nhà xác của chúng tôi. Tôi rất tiếc phải nói rằng chúng đã biến mất từ khi đó.”

“Chuyện này tôi không ngạc nhiên hay quan tâm. Cậu có thấy điều gì gợi ý rằng họ có kẻ thù không? Có bất kỳ ai không?”

“Không, thưa ngài, ít nhất thì không liên quan đến các gia đình tại Gatow. Những người chăm chỉ làm lụng, sống trầm lặng rõ ràng là tử tế. Người Do Thái, đúng, nhưng họ không theo tôn giáo nào. Dĩ nhiên, họ có liên quan đến Đảng nhưng không phải là những kẻ chống đối. Còn với các công nhân Ba Lan, họ đã đến từ Warsaw chỉ ba ngày trước khi chết để trồng cây cối cho Thế vận hội. Họ không phải là Cộng sản hay những kẻ kích động mà ai cũng biết.”

“Có suy nghĩ nào khác không?”

“Có ít nhất hai hoặc ba hung thủ có liên quan. Tôi đã lưu ý những dấu chân như ngài đã hướng dẫn. Dấu chân trùng khớp ở cả hai vụ.”

“Loại vũ khí được sử dụng là gì?”

“Không biết, thưa ngài. Khi tôi đến nơi, các vỏ đạn rỗng đã không còn.”

“Không còn?” Có vẻ là một thứ bệnh dịch của những kẻ sát nhân chu đáo. “Những vỏ đạn nhỏ bằng chì có thể nói với chúng ta. Cậu có tìm thấy vỏ đạn nào như thế còn nguyên vẹn không?”

“Tôi đã xem trên mặt đất rất kỹ, nhưng không tìm thấy.”

“Nhân viên điều tra cái chết bất thường chắc phải thu được một số.”

“Tôi có hỏi anh ta rồi, thưa ngài, nhưng anh ta cũng nói là không có.”

“Không có sao?”

“Tôi xin lỗi, thưa ngài.”

“Cơn giận của tôi không nhằm vào cậu, Gendarme Raul. Cậu phải được ngợi khen vì chuyên môn của mình. Và tha lỗi cho tôi đã quấy rầy cậu tại nhà riêng. Cậu có con không? Tôi nghĩ mình nghe thấy tiếng trẻ con. Tôi có đánh thức thằng bé không?”

“Cô bé, thưa ngài. Nhưng khi con bé lớn, tôi sẽ bảo nó nên thấy vinh dự khi được một thanh tra danh tiếng như ngài đánh thức khỏi giấc mơ.”

“Chúc một ngày tốt lành.”

“Hail Hitler.”

Kohl bỏ ống nghe xuống. Ông bối rối. Những thông tin trong hai vụ giết người này cho thấy có bàn tay của SS, Gestapo hoặc lính Xung Kích. Nhưng nếu thế, Kohl cùng hiến binh hẳn sẽ nhận được lệnh dừng lại ngay lập tức - như cách các thanh tra Cảnh sát Hình sự luôn được dặn dò. Điển hình là ngay lập tức có lệnh cấm tìm hiểu một vụ lương thực chợ đen gần đây, khi cuộc điều tra lần đến Đô đốc Hải quân Raeder và Walter von Brauchitsch, một sĩ quan quân đội cấp cao.

Họ không bị ngăn chặn khi theo đuổi vụ án, nhưng đã và đang dẫm chân tại chỗ. Đâu là nguyên nhân cho sự mơ hồ này?

Không cần biết động cơ của hung thủ là gì, cứ như thể những vụ thảm sát này đang treo trước mắt Kohl như một bài thử thách lòng trung thành của ông. Phải chăng Tư lệnh Meyerhoff đã gọi đến cơ quan Cảnh sát Hình sự dưới danh nghĩa SD, để xem tay thanh tra này có từ chối thụ lý vụ án liên quan đến những người Do Thái và Ba Lan bị giết hay không? Trường hợp này có thể như thế không?

Nhưng, không, không, mình hoang tưởng rồi. Ông đang nghĩ đến điều này chỉ vì biết tin SD đã lập hồ sơ về ông.

Không tìm được câu trả lời cho những câu hỏi này, Kohl đứng dậy dạo qua các hành lang tĩnh lặng, một lần nữa đến phòng Điện tín xem có xảy ra điều kỳ diệu nào không, xem các đối tác tại Mỹ có cho rằng việc trả lời bức điện của ông là thích hợp hay không.

Chiếc xe tải rách nát, bên trong nóng như cái lò, tiến lên Phố Wilhelm rồi đỗ lại trong một con ngõ.

“Tôi xưng hô với người ta thế nào đây?” Paul hỏi.

“‘Ngài,’” Webber đáp. “Luôn là ‘ngài.’”

“Không có phụ nữ nào à?”

“Chà, câu hỏi hay đấy, cậu John Dillinger. Có thể có vài cô nàng. Nhưng dĩ nhiên sẽ không nắm giữ vị trí chính thức đâu. Họ sẽ ngang hàng với cậu. Thư ký, lao công, văn thư, nhân viên đánh máy. Họ đều còn độc thân - phụ nữ có gia đình không được làm việc - nên cậu sẽ chào là ‘Cô’. Và cậu có thể tán tỉnh một chút nếu thích. Đối với một lao động thì như thế là thích hợp. Nhưng họ sẽ hiểu nếu cậu lờ họ đi chỉ làm việc của mình cho xong, càng hiệu quả càng tốt, rồi về nhà với gia đình ăn bữa cơm ngày Chủ nhật.”

“Tôi có phải gõ cửa không, hay cứ thế đi vào?”

“Luôn phải gõ cửa,” Morgan dặn dò. Webber gật đầu.

“Và tôi nói ‘Hail Hitler’ đúng không?”

Webber nhăn nhó. “Nói thường xuyên nếu cậu muốn. Chẳng ai đi tù vì nói thế đâu.”

“Và chào theo kiểu của anh. Cánh tay giơ cao lên?”

“Không nhất thiết,” Morgan đáp. “Đối với một lao động thì không cần.” Ông nhắc nhở. “Và nhớ này, âm G của cậu. Phát âm nhẹ hơn đi. Hãy nói như một người Berlin. Làm dịu đi những nghi ngờ trước khi chúng bùng lên.”

Phía sau chiếc xe tải nóng như thiêu, Paul thay quần áo và mặc lên người bộ áo liền quần Webber cung cấp. “Vừa như in,” tay người Đức nói. “Tôi có thể bán chúng cho cậu nếu cậu muốn giữ lại.”

“Otto,” Paul nói và thở dài. Gã xem xét chứng minh thư nhàu nát có ảnh một người trông hao hao giống gã. “Ai đây thế?”

“Có một căn nhà kho không được sử dụng nhiều, nơi Phát xít bảo quản các hồ sơ lính tráng đã chiến đấu trong Thế Chiến thứ I. Dĩ nhiên có đến hàng triệu chứng minh thư. Thi thoảng, tôi lại dùng chúng để làm giả giấy phép ra vào và giấy tờ khác. Tôi chọn một tấm ảnh trông giống người đang mua giấy tờ. Các bức ảnh đã cũ hơn và bị ăn mòn. nhưng các chứng minh thư của chúng ta toàn thế, vì chúng ta luôn phải mang chúng theo người.” Anh ta nhìn bức ảnh rồi ngước lên nhìn Paul. “Người này bị giết tại Argonne Meuse. Hồ sơ của anh ta ghi rằng anh ta đã được trao nhiều huy chương trước khi chết. Họ đang cân nhắc tặng anh ta Huy chương Chữ Thập sắt. Với một người đã chết, trông cậu ổn đấy.”

Sau đó, Webber trao cho gã các giấy tờ làm việc cho phép vào ra Phủ Thủ tướng. Paul bỏ lại hộ chiếu của gã cùng hộ chiếu giả của Nga ở nhà trọ, mua một bao thuốc lá Đức cùng mấy que diêm giá rẻ, không bị đánh dấu lấy từ quán Cà phê Aryan, Webber bảo đảm rằng gã sẽ bị khám xét cẩn thận trước cửa tòa nhà. Webber đưa thêm một cuốn sổ tay, một cây bút chì và một cây thước đo đã mòn. Ngoài ra là một cây thước kẻ ngắn bằng thép có thể dùng làm đòn bẩy khóa cửa văn phòng Ernst, nếu cần thiết.

Paul xem xét các món đồ dùng này, rồi hỏi Webber. “Chúng có thật sự tin mấy cái thứ này không?”

“Ôi, cậu John Dillinger, nếu cậu muốn chắc chắn thế, chẳng phải cậu chọn sai nghề rồi sao?” Anh ta rút ra một trong những điếu xì gà bắp cải.

“Cậu sẽ không hút cái thứ đó ở đây chứ?” Morgan hỏi.

“Thế ông sẽ hút nó ở đâu? Tại cửa phòng riêng của Lãnh tụ, quẹt diêm vào mông một thằng lính gác SS à?” Châm lửa điếu xì gà rẻ tiền, anh ta quay sang Paul. “Chúng tôi sẽ chờ cậu ở đây.”

Hermann Göring đi lướt qua tòa nhà Phủ Thủ tướng, như thể lão là người sở hữu nơi này.

Mà lão tin, một ngày nào đó sẽ là như thế.

Tên Bộ trưởng yêu Adolf Hitler như cách Peter yêu Chúa.

Nhưng Chúa Jesus cuối cùng lại bị đóng đinh lên thập giá gỗ, còn Peter tiếp quản công việc của người.

Göring biết việc này sẽ xảy ra tại Đức. Hitler là một sự sáng tạo phi phàm, độc nhất trong lịch sử thế giới. Đầy mê hoặc, tuyệt vời đến nỗi không từ ngữ nào có thể mô tả. Và chính vì điều đó, y sẽ không thể tồn tại được đến tuổi già. Thế giới không thể chấp nhận những kẻ biết nhìn xa trông rộng và những vị cứu tinh. Sói Xám sẽ phải chết trong vòng 5 năm, Göring sẽ than khóc cho cái chết này, sẽ đấm ngực mình, đau đớn bởi nỗi buồn quá lớn, nỗi buồn chân thành. Lão sẽ làm thánh lễ trong suốt quãng thời gian khóc than dài dằng dặc. Và rồi lão sẽ dẫn dắt đất nước đến vị thế quốc gia vĩ đại nhất trên thế giói. Hitler đã nói đây sẽ là một đế chế nghìn năm. Nhưng Hermann Göring sẽ lèo lái đế chế của mình đến mãi mãi.

Tuy nhiên vào lúc này, lão cần để ý những mục tiêu nhỏ hơn: các phương pháp chiến thuật để chắc chắn rằng chính lão mới là người đảm nhận vai trò của Lãnh tụ.

Sau khi xử lý xong món trứng xúc xích, tên Bộ trưởng lại thay đồ (thông thường lão mặc bốn, năm bộ một ngày). Lúc này, lão mặc bộ quân phục màu xanh lòe loẹt đính những dải viền, ruy-băng và đồ trang trí, một số được tặng, còn phần nhiều tự mua. Lão diện bộ này phần vì cảm thấy mình đang làm nhiệm vụ. Còn mục tiêu? Đóng đinh thủ cấp của Reinhard Ernst lên tường. (Rốt cuộc, Göring là bậc thầy thợ săn của đế chể).

Lão cắp nách hồ sơ tiết lộ di sản Do Thái của Keitel như một cây roi ngựa, bước xuống các hành lang tối mờ. Khi ngoặt vào góc, lão rên rỉ khi vết thương lại đau nhói - viên đạn lão phải nhận vào háng trong cuộc Nổi loạn tại Quán bia tháng 11 năm 1923. Nửa giờ trước, lão đã uống mấy viên thuốc - lão không bao giờ quên uống thuốc - nhưng hiệu quả của chúng giờ đang giảm dần. Chà, tên dược sĩ kia chắc đánh giá sai mức độ trầm trọng rồi. Lão sẽ mắng thằng khốn đó sau. Lão gật đầu với mấy tên lính gác SS rồi bước vào trong phòng chờ của Lãnh tụ, mỉm cười với cô thư ký.

“Người bảo ngài vào trong ngay lập tức, thưa Bộ trưởng.”

Göring sải bước qua thảm vào văn phòng Lãnh tụ. Hitler đang tựa người vào mép bàn như y thường xuyên làm. Sói Xám vẫn thấy khó chịu khi phải ngồi yên. Y sẽ bước đi, ngồi xuống, đu đưa tới lui, con mắt nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ. Lúc này, y đã nhấp một ngụm nước sô-cô-la, đặt tách và đĩa xuống bàn làm việc, nghiêm túc gật đầu với một người đang ngồi trong chiếc ghế bành lung cao. Y ngước mắt lên. “À, Bộ trưởng, mời vào, mời vào.”

Hitler giơ lên mẩu giấy Goring đã viết lúc nãy. “Ta phải nghe thêm thông tín về chuyện này. Thật thú vị khi cậu nói đến một âm mưu… Có vẻ như đồng chí của chúng ta ngồi đây cũng mang đến những tin tức tương tự về vấn đề này.”

Đang bước qua văn phòng lớn, Göring chớp mắt rồi dừng khựng lại, nhìn thấy vị khách đến thăm văn phòng Lãnh tụ đứng dậy khỏi ghế bành. Chính là Reinhard Ernst. Hắn gật đầu và nở nụ cười. “Chào buổi sáng, ngài Bộ trưởng.”

Göring tảng lờ hắn và hỏi Hitler, “Một âm mưu ư?”

“Đúng vậy,” Hitler đáp. “Chúng ta đã đang thảo luận về kế hoạch của Đại tá, Nghiên cứu Waltham. Có vẻ như vài kẻ thù đã làm giả thông tin về đối tác của cậu ta, Giáo sư-tiến sĩ Ludwig Keitel. Cậu có tưởng tượng được không? Chúng đã tiến xa đến mức cho rằng tay Giáo sư này chảy trong mình dòng máu Do Thái. Ngồi đi, Hermann, và cho ta biết về âm mưu cậu đã hé lộ này.”

Reinhard Ernst tin rằng chừng nào còn sống, hắn sẽ không bao giờ quên được biểu hiện trên gương mặt phị của Hermann Göring vào lúc này.

Trên cái mâm thịt hồng hào đang cười ấy, đôi mắt cho thấy cơn choáng váng tột độ. Kẻ bắt nạt bị hạ gục.

Tuy nhiên, Ernst không tỏ ra vui mừng đặc biệt trước chiến tích phi thường này, vì một khi nét kinh hoàng qua đi, vẻ mặt kia sẽ chỉ còn sự căm ghét.

Dường như Lãnh tụ không để ý màn trao đổi thầm lặng giữa hai người. Y gõ gõ lên vài hồ sơ trên bàn. “Ta đã hỏi Đại tá Ernst thông tin về nghiên cứu quân sự anh ta hiện đang triển khai, mà ngày mai anh ta sẽ trình…” Một ánh mắt sắc lạnh về phía Ernst, hắn gật đầu và bảo đảm với y. “Đúng vậy, thưa Lãnh tụ.”

“Và trong khi chuẩn bị hồ sơ, cậu ta biết rằng kẻ nào đó đã thay đổi các ghi chép về họ hàng của Giáo sư-tiến sĩ Keitel, và của những người khác đang làm việc với Chính phủ. Những người đang làm việc tại Krupp, Farben và Siemens.”

“Và,” Ernst làu bàu, “tôi kinh hoàng biết rằng vấn đề còn đi xa hơn thế. Chúng thậm chí còn chỉnh sửa cả những ghi chép về họ hàng, tổ tiên của nhiều quan chức cao quý trong chính nội bộ Đảng. Hầu hết là gieo rắc thông tin xung quanh Hamburg. Tôi nhận thấy một nguy cơ hủy diệt nhiều người liên quan đến tôi.” Ernst nhìn Göring từ đầu đến chân. “Vài lời dối trá nhằm vào những người có chức vụ rất cao. Gợi ý về các mối quan hệ với các nhà tư tưởng Do Thái, những đứa trẻ là con hoang và các chi tiết tương tự.”

Göring nhíu mày. “Khủng khiếp.” Hai hàm răng của lão nghiến chặt vào nhau - giận dữ không chi vì thất bại mà còn vì gợi ý của Ernst rằng tổ tiên Do Thái có thể được nhắc đến trong cả quá khứ của Bộ trướng Hàng không. “Ai đi làm một chuyện như thế?” Lão bắt đầu bồn chồn với tập hồ sơ lão đang cầm.

“Kẻ nào?” Hitler làu bàu. “Đám người Cộng sản, Do Thái, Dân chủ Xã hội. Chính ta sau này cũng thấy phiền nhiễu với những tín đồ Công giáo. Chúng ta không bao giờ được quên rằng chúng phản đối chúng ta. Thật dễ dàng để bị ru ngủ khi xét đến mối căm thù chung của chúng ta với bọn Do Thái. Nhưng ai biết chứ? Chúng ta có nhiều kẻ thù.”

“Thực sự là vậy,” Một lần nữa Göring nhìn Ernst đăm đăm, người đang tự hỏi liệu có thể mời tên Bộ trường ít cà phê hay nước sô-cô-la.

“Không, cảm ơn Reinhard,” là câu trả lời lạnh lẽo.

Là một người lính, Ernst sớm biết rằng trong tất cả các vũ khí của kho vũ khí quân đội, thứ vũ khí hiệu quả nhất là thông tin tình báo chính xác. Hắn khăng khăng muốn biết chính xác kẻ thù của mình đang âm mưu gì. Hắn đã phạm sai lầm khi nghĩ rằng cửa hàng có điện thoại cách Phủ Thủ tướng vài dãy nhà không bị gián điệp của Göring theo dõi. Nhờ sự bất cẩn này, tên Bộ trưởng Hàng không đã biết được tên đồng tác giả của Nghiên cứu Waltham. Nhưng may mắn cho Ernst - trong khi hắn vẫn thiếu kinh nghiệm trong vận động ngầm - thì hắn lại dùng những người giỏi đúng vào nơi họ phát huy hiệu quả. Người đều đặn cung cấp thông tin cho Ernst về biến động của tên Bộ trưởng Hàng không, đêm qua đã mật báo cho hắn ngay sau khi dọn sạch đĩa mỳ ống vỡ tan và thay áo cho tên Bộ trưởng, rằng Göring đã moi được thông tin về bà nội của Keitel.

Phẫn nộ vì bị chơi khăm nhưng vẫn nhận thức được rủi ro chết người trong tình huống này, Ernst ngay lập tức đến gặp Keitel. Vị giáo sư-tiến sĩ đã cho rằng mối liên kết Do Thái của người phụ nữ đó là đúng, nhuhg ông chẳng còn liên hệ gì với gia đình suốt nhiều năm. Đêm qua, chính Ernst và Keitel đã mất mấy tiếng tạo ra các tài liệu giả cho thấy rằng các thương nhân, quan chức Chính phủ là người Aryan thuần chủng lại có gốc gác Do Thái.

Khó khăn duy nhất trong chiến lược của Ernst đó là phải chắc chắn rằng hắn gặp được Hitler trước Göring. Tuy nhiên, một trong những kỹ năng của chiến tranh Ernst tuân thủ trong việc lên kế hoạch quân sự chiến lược, đó là “tia chớp.” Tức là hắn phải di chuyển thật nhanh đến mức kẻ thù không kịp phòng bị, ngay cả khi kẻ thù mạnh hơn. Tên Đại tá lao ầm ầm đến văn phòng Lãnh tụ sáng sớm nay, sắp đặt âm mưu của mình và trình ra những tài liệu giả mạo.

“Chúng ta sẽ nghiên cứu triệt để chuyện này,” Hitler lên tiếng, bước đến tự rót cho mình một cốc sô-cô-la cùng mấy lát bánh mỳ nướng trên đĩa. “Nào, Hermann, còn mảnh giấy của cậu thì sao? Cậu tìm ra được điều gì thế?”

Với một nụ cười hướng về phía Ernst, người đàn ông cao lớn không chịu thừa nhận thất bại. Thay vào đó, lão lắc đầu rồi đáp với cái nhíu mày quá mức “Tôi đã nghe nói đến nỗi lo âu tại Oranienburg. Sự thiếu tôn trọng đặc biệt đối với các lính gác tại đó. Tôi lo lắng về khả năng xảy ra những cuộc bạo loạn. Tôi cho rằng nên có những đòn trả đũa. Những đòn trả đũa nặng nề.”

Chuyện này thật ngớ ngẩn. Đang được tái thiết mở rộng với lao động nô lệ và mang tên khác là Sachsenhausen, trại tập trung này được bảo đảm tuyệt đối, không có cơ hội để xảy ra bạo loạn ở bất kỳ hình thức nào. Các tù nhân giống như những con thú bị giam nhốt, cắt hết móng vuốt. Những lời nhận xét Göring vừa đưa ra chỉ nhằm một mục đích: không gì khác ngoài trả thù, khiến Ernst phải chịu trách nhiệm trước cái chết của hàng loạt người vô tội.

Khi Hitler cân nhắc chuyện này, Ernst vô tình nói, “Tôi có biết chút ít về trại tập trung, thưa Lãnh tụ, và Bộ trưởng Hàng không đã nói đúng vấn đề. Chúng ta phải hoàn toàn chắc chắn rằng không có sự bất đồng quan điểm.”

“Nhưng… Ta cảm thấy có sự dè dặt, Đại tá,” Hitler nói.

Ernst nhún vai. “Tôi chỉ tự hỏi có phải sẽ tốt hơn nếu thực hiện các biện pháp sau kỳ Thế vận hội. Rốt cuộc thì trại tập trung cách làng Thế vận hội không xa lắm. Đặc biệt là khi xuất hiện các phóng viên nước ngoài trong thành phố, vì có thể sẽ rất khó khăn nếu chuyện này đồn ra ngoài. Tôi nghĩ nên giữ bí mật về trại tập trung một cách tốt nhất có thể, rồi sẽ tính sau.”

Ý tưởng này khiến Hitler không vui, Ernst có thể thấy ngay. nhưng trước khi Göring kịp phản pháo, Lãnh tụ nói, “Ta đồng ý đó có thể là giải pháp tốt nhất. Chúng ta sẽ giải quyết vấn đề này trong một, hai tháng tới.”

Khi cả y lẫn Göring hẳn sẽ quên béng vấn đề này đi, Ernst hy vọng.

“Giờ thì Hermann, Đại tá đã mang lại tin vui. Người Anh đã hoàn toàn chấp nhận số lượng tàu chiến và tàu ngầm của chúng ta theo hiệp ước năm ngoái. Kế hoạch của Reinhard đã thành công.”

“Thật may mắn làm sao?” Göring làu bàu.

“Bộ trưởng Hàng không, ta có cần phải để ý đến hồ sơ đó không?” Đôi mắt Lãnh tụ liếc nhìn các tài liệu kẹp dưới tay lão, có hơi chệch một chút.

“Không, thưa ngài. Không có gì ạ.”

Lãnh tụ tự rót thêm hai cốc sô-cô-la nữa, rồi bước đến bàn trưng bày mô hình thu nhỏ Olympic. “Đến đây nào, các quý ông, hãy nhìn những bổ sung mới này. Chúng đúng là đẹp, hai người có nghĩ vậy không? Trang nhã, ta nghĩ thế. Ta yêu thích cách tạo kiểu dáng hiện đại. Mussolini cho rằng ông ta đã sáng tạo ra nó. Nhưng dĩ nhiên hắn ta là kẻ cắp, tất cả chúng ta đều biết thế.”

“Đúng vậy, thưa Lãnh tụ,” Göring nói.

Ernst cũng lầm bẩm đồng tình. Đôi mắt cuồng loạn của Hitler nhắc hắn nhớ đến đôi mắt Rudy, khi thằng bé cho ông nội xem lâu đài cát tinh tế nó làm trên bãi biển năm ngoái.

“Ta nghe nói hôm nay thời tiết có thể nóng chảy mỡ. Chúng ta hãy cùng hy vọng là thế, chờ buổi chụp hình của chúng ta. Đại tá, cậu sẽ mặc đồng phục chứ?”

“Tôi không nghĩ vậy, thưa Lãnh tụ. Rốt cuộc, bây giờ tôi chỉ là một công chức. Tôi sẽ không muốn phô trương khi xuất hiện bên cạnh các đồng nghiệp cao quý của mình.” Ernst nhìn chằm chằm bản sao, cố gắng kiềm chế không nhìn vào bộ đồng phục sáng chói của Goring.

Văn phòng của tên đại diện toàn quyền về sự ổn định trong nước - tấm biển được sơn bằng thứ tiếng Đức Gothic nổi bật -nằm trên tầng ba của Phủ Thủ tướng. Dường như phần lớn những trùng tu trên tầng này đã hoàn tất, cho dù mùi sơn, vữa và vani vẫn còn nồng trong không khí.

Paul vào trong tòa nhà không mấy khó khăn, dù bị hai tên lính gác mặc đồng phục đen đeo súng trường gắn lưỡi lê khám xét kỹ lưỡng. Giấy tờ của Webber được chấp nhận dù gã bị chặn lại khám xét lần nữa trên tầng ba.

Gã đợi đến khi một đội tuần tra đã đi qua xuống sảnh, mới kính cẩn đưa tay gõ lên ô cửa kính lượn sóng trên cửa ra vào văn phòng Ernst.

Không có tiếng trả lời.

Gã thử vặn núm cửa thấy nó không khóa. Gã bước qua phòng chờ tối om tiến đến cánh cửa dẫn vào văn phòng riêng của Ernst. Bất ngờ gã dừng lại, cảnh giác rằng tên đó có thể ở đây, vì ánh đèn dưới cửa ra vào còn sáng. Gã gõ cửa lần nữa nhưng không nghe thấy gì. Gã mở cửa ra vào, thấy rằng ánh sáng đó là ánh nắng, văn phòng quay mặt về phía Đông nên ánh sáng ban ngày ùa cả vào trong phòng. Lưỡng lự trước cửa ra vào, gã quyết đinh để cửa mở. Đóng cửa có lẽ là trái quy định và sẽ gây nghi ngờ nếu lính gác còn tuần tra xung quanh.

Ấn tượng đầu tiên của gã đó là văn phòng thật bừa bộn: giấy tờ, sách nhỏ, tờ thông tin tài khoản, báo cáo có gáy xoắn, bản đồ và thư từ. Chúng che kín mặt bàn làm việc của Ernst cùng, một chiếc bàn to trong góc. Nhiều cuốn sách trên giá hầu hết có nội dung lịch sử quân sự, rõ ràng được sắp xếp theo thứ tự niên đại, bắt đầu với cuốn Những Cuộc Chiến Xứ Gaul của Caesar. Sau những gì Käthe đã kể cho gã nghe về công tác kiểm duyệt ở Đức, gã ngạc nhiên khi thấy mấy cuốn sách của các tác giả người Mỹ và Anh như Pershing, Teddy Roosevelt, Lord Comwallis, Ulysses S. Grant, Abraham Lincoln và Lord Nelson.

Có một lò sưởi trống không vào sáng nay, dĩ nhiên được lau chùi sạch sẽ. Trên bệ lò sưởi bằng đá cẩm thạch đen trắng, là các món đồ trang trí của chiến tranh, một cái lưỡi lê, các lá cờ chiến tranh, các bức ảnh chụp một Ernst trẻ tuổi hơn, không mặc quân phục đứng canh một người khỏe mạnh, dáng thể thao với hàng ria mép hung dữ và đội chiếc mũ sắt có mấu nhọn.

Paul mở cuốn sổ tay của gã ra, phác thảo một tá bản vẽ căn phòng, sau đó bước nhanh khắp văn phòng, vẽ lại rồi bổ sung thêm các kích thước. Gã chẳng buồn dùng thước đo, điều gã cần là mức độ đáng tin chứ không phải chính xác tuyệt đối. Bước đến bàn làm việc, Paul nhìn qua một lượt. Gã trông thấy vài bức ảnh viền khung của viên Đại tá cùng gia đình hắn. Những tấm ảnh khác chụp một người phụ nữ tóc nâu xinh đẹp có khả năng là vợ hắn và một ảnh chụp ba người, một thanh niên mặc đồng phục rõ ràng là chụp cùng vợ anh ta với đứa bé sơ sinh. Rồi có thêm hai tấm ảnh nữa chụp một phụ nữ trẻ và đứa bé, sau các tấm trước vài năm và gần đây hơn.

Không xem các bức ảnh nữa, Paul chuyển sang đọc nhanh hàng tá giấy tờ trên bàn làm việc. Gã vừa định sờ đển một trong các chồng hồ sơ để đọc qua thì bỗng khựng lại, nhận thấy một âm thanh - hay có lẽ là sự hiện diện của một âm thanh. Một âm thanh lấn át hết những tiếng ồn đang trôi nổi xung quanh gã. Ngay lập tức Paul ngồi thụp xuống, đặt thước đo xuống sàn nhà, bắt đầu đi từ đầu này phòng sang đầu bên kia. Gã ngước mắt lên khi một người đàn ông chậm rãi tiến lại, đang tò mò liếc nhìn gã.

Trong những bức ảnh trên bệ lò sưởi và những tấm ảnh liên lạc của Morgan cho gã xem, trông hắn già đi vài tuổi. Nhưng không nghi ngờ gì nữa, người đang đứng trước mặt gã chính là Reinhard Ernst.