CHƯƠNG 31
“Willi, Willi, Willi…”
Chánh Thanh ưa Friedrich Horcher gọi cái tên này rất chậm rãi.
Kohl đã quay về Alex, vừa định vào văn phòng thì ông sếp bắt kịp. “Vâng, thưa sếp?”
“Tôi đang tìm cậu đây.”
“Chuyện gì thế? Anh đi tìm tôi?”
“Về vụ Gatow. Hai vụ thảm sát bằng súng. Cậu nhớ chưa?”
Làm sao ông quên được chứ? Những tấm ảnh sẽ cháy trong tâm trí ông mãi mãi. Những người phụ nữ… những đứa trẻ… Nhưng giờ đây ông lại cảm thấy run lên vì sợ hãi. Phải chăng vụ án này thật sự là một thử nghiệm như ông đã lo lắng từ trước? Phải chăng những thằng nhóc của Heydrich đang chờ xem ông có bỏ vụ này không, và giờ chúng biết rằng ông đã làm mọi việc tệ hơn: Bằng cách bí mật gọi cho tay hiến binh tại nhà hỏi về vụ này?
Horcher giật giật băng tay đỏ như máu của ông ta. “Tôi có tin tốt cho cậu đây. Vụ này được giải quyết xong rồi. Cả vụ Charlottenburg, các công nhân Ba Lan nữa. Cả hai đều là sản phẩm của cùng một kẻ sát nhân.”
Sự nhẹ nhõm ban đầu của Kohl vì không bị bắt nhanh chóng chuyển thành bối rối. “Ai đã đóng vụ này? Người của Cảnh sát Hình sự à?”
“Không, không, mà là đích thân người đứng đầu lực lượng hiến binh. Meyerhoff đấy. Hình dung được không.”
Chà… vấn đề đang bắt đầu kết tinh - trước sự khó chịu của Willi Kohl. Ông không chút ngạc nhiên với phần còn lại của câu chuyện sếp ông đưa ra. “Kẻ sát nhân là một người Do Thái gốc Séc. Bị loạn thần kinh. Gần giống Bá tước Dracula. Hắn có phải người Séc không? Hay là người Rumani hay Hungary, tôi cũng chẳng nhớ. Ha ha ha, lịch sử luôn là môn tôi kém nhất. Mà dù thế nào nghi phạm cũng đã bị bắt, đã nhận tội và được bàn giao lại cho SS rồi.” Horcher phá lên cười. “Họ không còn đưa ra cảnh báo quan trọng, bí ẩn và an ninh nữa, mà thực sự làm việc của cảnh sát.”
“Có một hay nhiều đồng phạm?” Kohl hỏi.
“Đồng phạm? Không, không, tên ngưòi Séc này làm một mình.”
“Một mình? Nhưng tay hiến binh ở Gatow đã kết luận rằng phải có ít nhất hai hoặc ba hung thủ, có thể còn nhiều hơn. Các bức ảnh cũng ủng hộ giả thuyết đó, và cũng logic nữa, xét theo con số các nạn nhân.”
“Ôi như chúng ta biết, Willi, đôi khi những cảnh sát lão luyện còn bị con mắt đánh lừa. Một hiến binh trẻ ở ngoại ô ư? Họ chưa làm quen với điều tra hiện trường tội ác. Hơn nữa tên Do Thái kia đã nhận tội rồi. Hắn hành động một mình. Vụ này đã đóng lại. Và tên đó đang trên đường đến trại rồi.”
“Tôi muốn được thẩm vấn hắn.”
Có sự ngập ngừng. Rồi với nụ cười vẫn nở trên môi, Horcher lại điều chỉnh dải băng trên tay áo. “Để xem tôi sẽ làm được gì. Cho dù có khả năng hắn đã đến Dachau rồi.”
“Dachau? Tại sao lại chuyển hắn đến Munich thay vì đến Oranienburg?”
“Quá tải, có lẽ vậy. Dù là bất kỳ trường hợp nào vụ này đã xong rồi, nên thật sự không có lý do gì để nói chuyện với hắn.”
Dĩ nhiên, đến giờ này hắn ta đã chết.
“Thêm nữa, cậu cần tập trung toàn thời gian vào vụ ngõ Dresden đi. Tiến triển tới đâu rồi?”
“Chúng tôi đã đạt được những bước đột phá,” Kohl nói với ông sếp, cố gắng ghìm cơn giận dữ và phẫn nộ trong giọng. “Tôi nghĩ một, hai ngày nữa chúng ta sẽ có câu trả lời.”
“Tuyệt vời,” Horcher nhíu mày. “Trên phố Prince Albrecht thậm chí còn náo nhiệt hơn trước nhiều. Cậu có nghe nói không? Thêm nhiều cảnh báo hơn, nhiều biện pháp an ninh hơn. Còn huy động cả SS nữa. vẫn chưa hiểu đang xảy ra chuyện gì. Cậu có tình cờ nghe ngóng được gì không thế?”
“Không, thưa sếp.” Horcher tội nghiệp. Sợ hãi tất cả mọi người nắm được thông tin tốt hơn mình. “Sếp sẽ nhận được thông báo về vụ giết người này sớm thôi,” Kohl nói.
“Tốt. Tập trung vào tay nước ngoài đó đúng không? Tôi tin là cậu đã nói thế.”
Kohl nghĩ: Không, ông mới nói câu đó. “Vụ này đang tiến triển tốt.”
“Tuyệt. Chết tiệt, nhìn chúng ta này, Willi. Làm việc cả những ngày Chủ nhật. Cậu tưởng tượng được không? Còn nhớ khi chúng ta có những ngày nghỉ vào thứ Bảy và Chủ nhật không?” Ông ta thả bước quay lại tiền sảnh tĩnh lặng.
Kohl bước qua cửa vào văn phòng mình, thấy chỗ ông đang để những ghi chú và các bức ảnh chụp hai vụ thảm sát Gatow trống trơn. Horcher hẳn là đã ‘tống chúng đi’ - ra ý rằng chúng sẽ chịu chung số phận như tên Do Thái gốc Séc tội nghiệp kia. Có khả năng bị thiêu sống như bản kê khai hàng hóa trên tàu Manhattan, trôi bồng bềnh khắp thành phố như những tro tàn trong cơn gió Berlin có mùi kiềm. Ông tựa người mệt mỏi vào khung cửa, nhìn chằm chằm những không gian trống rỗng trên bàn làm việc và suy nghĩ: Án mạng có một đặc điểm: Nó không bao giờ dang dở. Bạn tìm lại được số tiền bị mất cắp, những vết thâm tím rồi sẽ lành, ngôi nhà bị cháy rụi rồi sẽ được xây lại, bạn sẽ tìm thấy nạn nhân vụ bắt cóc tuy lo lắng nhưng vẫn sống. Tuy nhiên, những đứa trẻ, bố mẹ chúng rồi các công nhân Ba Lan đã chết… những cái chết của họ sẽ là mãi mãi.
Thế nhưng ở đây, Willi Kohl được bảo là vụ này không phải thế. Rằng quy luật của vũ trụ làm sao đó không giống ở trụ sở này: Thông tin chi tiết về các gia đình, các công nhân đã bị xóa sạch. Bởi vì nếu những người này có thật, vậy thì họ sẽ không bao giờ yên nghỉ đến chừng nào mất mát này được thấu hiểu, được khóc thương và - vai trò của Kohl - được chứng thực.
Thanh tra treo mũ lên móc, nặng nề buông mình xuống chiếc ghế kêu cót két. Ông xem các bức điện tín và hộp thư mới nhận, nhưng chẳng có gì liên quan đến Schumann. Sử dụng kính lúp một mắt, Kohl tự so sánh những dấu vân tay Janssen thu được của Taggert với các bức ảnh tìm thấy trên mặt đường đá cuội trong ngõ Dresden. Chúng giống nhau. Ở mức độ nào đó khám phá này khiến ông nhẹ nhõm, như thế tức là Taggert thực sự là hung thủ giết Reginald Morgan, rằng người ông thả đi không phải là kẻ sát nhân.
Ông còn nhẹ nhõm vì ông có thể tự so sánh một mình. Một thông điệp từ Phòng nhận dạng cho ông biết toàn bộ các nhân viên khám nghiệm, nhân viên phân tích đều được lệnh hủy bỏ hết cuộc điều tra của Cảnh sát Hình sự, chuẩn bị sẵn sàng hành động cho SS và Gestapo trong cái gọi là ‘một phát triển mới trong cảnh báo an ninh.’
Ông bước đến bàn làm việc của Janssen và biết rằng, nhân viên của nhà điều tra các vụ án bất thường vẫn chưa mang được xác Taggert từ nhà trọ về. Kohl lắc đầu thở dài. “Chúng ta sẽ làm hết những gì có thể ở đây. Bảo các kỹ thuật viên đạn đạo xét nghiệm khẩu súng ngắn Tây Ban Nha để chắc chắn nó là hung khí giết người.”
“Vâng, thưa sếp.”
“À, Janssen này? Nếu mấy nhân viên khám nghiệm vũ khí bị huy động vào cuộc tìm kiếm tên người Nga này, thì cậu làm xét nghiệm một mình nhé. Cậu làm được mà, đúng không?”
“Vâng, thưa sếp, tôi làm được.”
Sau khi cậu thanh niên đi khỏi, Kohl lại ngồi xuống ghế bắt đầu tốc ký danh sách các câu hỏi về Morgan và tên Taggert bí ẩn, mà ông sẽ phải biên dịch rồi gửi đến các cơ quan chức năng tại Mỹ.
Một cái bóng xuất hiện trên ngưỡng cửa. “Sếp, có điện tín,” một cảnh sát trẻ trên tầng mặc áo jacket xám thông báo và trao bức điện tín cho Kohl.
“Vâng, vâng cảm ơn.” Ông nghĩ rằng điện tín này sẽ đến từ Công ty Chuyển phát Nhanh United States Lines, có nội dung về danh mục hàng hóa hoặc danh sách khách hàng tại cửa hàng Thời trang Nam giới của Mamy giải thích ngắn gọn họ chẳng giúp được gì, ông liền xé bì thư.
Nhưng ông đã lầm. Điện tín đến từ Sở Cảnh sát Thành phố New York. Ngôn ngữ là tiếng Anh nhưng có thể hiểu được đầy đủ ý nghĩa.
KÍNH GỬI: THANH TRA W. KOHL
TRỤ SỞ CẢNH SÁT HÌNH SỰ ALEX BERLIN
THƯ NÀY NHẰM MỤC ĐÍCH TRẢ LỜI ĐỀ NGHỊ CÙNG NGÀY DO NGÀI GỬI ĐẾN, XIN THÔNG BÁO RẰNG HỒ SƠ VỀ P. SCHUMANN ĐÃ BỊ XÓA. VÀ CUỘC ĐIỀU TRA CỦA CHÚNG TÔI LIÊN QUAN ĐẾN CÁ NHÂN CÓ TÊN NÓI TRÊN ĐÃ BỊ TRÌ HOÃN VÔ THỜI HẠN. KHÔNG CÒN BẤT KỲ THÔNG TIN NÀO NỮA.
TRÂN TRỌNG
ĐẠI ÚY G.O’ MALLEY - SỞ CẢNH SÁT THÀNH PHỐ NEW YORK
Kohl nhíu mày, tìm từ ’expunged’ trong từ điển Anh - Đức thấy từ này có nghĩa là ’bị xóa’ Ông đọc lại bức điện tín vài lần nữa, cảm thấy da mình ngày càng nóng lên sau mỗi lần đọc.
Vậy là cảnh sát hình sự đã điều tra Schumann. Vì tội gì nhỉ?
Và tại sao hồ sơ lại bị hủy và cuộc điều tra bị ngừng lại? Điều thấy rõ nhất đó là trong khi tên này có thể không là hung thủ giết Reginald Morgan, nhưng trong thành phố, hắn có thể tham gia vào kế hoạch tội ác nào đó.
Và điều quan trọng thứ hai, chính tay Kohl đã thả tự do cho tên tội phạm nguy hiểm tiềm năng vào thành phố.
Ông cần phải tìm được Schumann hoặc ít nhất là thêm thông tin về hắn và phải thật nhanh. Không đợi Janssen quay về Willi Kohl lấy mũ rồi bước dọc theo tiền sảnh mở dẫn xuống cầu thang. Do bị phân tâm nên ông chọn lối cầu thang đưa xuống tầng trệt bị cấm. Ông vẫn mở cửa ra vào và ngay lập tức chạm mặt một tên lính SS. Lẫn trong tiếng loạch xoạch của những chiếc máy phân loại thẻ DeHoMag, hắn nói, “Thưa ngài, khu này bị ca…”
“Cậu sẽ cho tôi qua mà,” Kohl gầm gừ với vẻ hung dữ, khiến tên lính trẻ giật mình.
Một tên lính khác được trang bị khẩu súng máy Erma, nhìn về phía họ.
“Tôi đang rời khỏi tòa nhà theo lối cửa ra phía cuối tiền sảnh đó. Không còn thời gian để quay lên đâu.”
Tên SS trẻ tuổi khó chịu nhìn quanh ông. Không còn ai khác trong tiền sảnh nói tiếng nào. Cuối cùng hắn ta gật đầu.
Kohl oai vệ đi xuống hành lang, mặc kệ cơn đau ở bàn chân, lao ra ngoài tắm trong ánh nắng chiều tuyệt vời và nóng nực. Ông vừa tự định hướng, vừa giơ chân lên ghế dài chỉnh lại vị trí lớp lông cừu đỡ bàn chân phải. Xong xuôi, thanh tra tiến về phía Bắc theo hướng đến Khách sạn Metropol.
“Ối chà, cậu John Dillinger!” Otto Webber nhíu mày chỉ cho gã cái ghế trong góc tối Quán Cà phê Aryan. Anh ta nắm chặt cánh tay Paul và thì thầm, “Tôi đã rất lo lắng cho cậu. Chẳng nói năng gì cả! Cuộc gọi của tôi đến Sân vận động có thành công không? Chẳng nghe thấy tin tức gì trên đài hết. Cả lão Goebbels chuyên gặm nhấm của chúng ta cũng chẳng nói lời nào trên đài về vụ ám sát.”
Nói xong nụ cười của tay cầm đầu băng nhóm tắt lịm. “Có chuyện gì thế, bạn tôi? Mặt cậu không được vui.”
Gã chưa kịp nói gì thì cô hầu Liesl nhận ra Paul bèn tiến đến rất nhanh. “Chào anh, tình yêu của em,” ả nói. Rồi bĩu môi hờn dỗi. “Đúng là xấu hổ. Lần trước anh bỏ đi mà chẳng hôn tạm biệt em. Anh uống gì không, em lấy?”
“Một bia Pschorr.”
“Vâng, vâng, em rất hân hạnh. Nhớ anh lắm đấy.”
Bị ả bồi bàn ngó lơ, Webber cáu kỉnh nói, “Này, này cô. Một cốc lớn hơn cho tôi.”
Liesl cúi người xuống hôn lên má Paul. Gã ngửi thấy mùi nước hoa nồng nặc. Ngay cả khi ả đi xa rồi, mùi vẫn còn vấn vương xung quanh. Gã nghĩ đến mùi tử đinh hương, nghĩ đến Käthe. Gã kiên quyết cố xua đi những suy nghĩ này, rồi giải thích chuyện đã xảy ra tại Sân vận động và sau đó.
“Không! Ông bạn của chúng ta, Morgan à?” Webber kinh hoàng.
“Một kẻ giả vờ là Morgan. Cảnh sát Hình sự có tên và giữ lại hộ chiếu của tôi, nhưng họ không nghĩ rằng tôi đã giết ông ta. Và họ vẫn chưa liên kết được tôi với Ernst và Sân vận động.”
Liesl mang bia đến bàn. Ả xiết chặt vai Paul khi bước đi, cố tình cạ vào người gã đầy lả lơi, bỏ lại một làn mây nước hoa nồng nặc trôi quanh bàn. Paul ngả người tránh né. Cô nàng mỉm cười khi ngúng nguẩy bỏ đi.
“Chẳng nhẽ cô ta không thấy là tôi không quan tâm à?” gã làu bàu, càng giận điên lên nữa vì không thể xua đi hình ảnh Käthe ra khỏi tâm trí.
“Ai cơ?” Webber hỏi, nhấp thêm vài ngụm lớn.
“Cô ta. Liesl.” Gã hất đầu.
Webber nhăn nhó. “Không, không, không. Cậu John Dillinger. Không phải cô ta. Mà là hắn ta. “
“Cái gì?”
Webber nhíu mày. “Thế cậu tưởng Liesl là đàn bà à?”
Paul chớp mắt. “Cô ta là một…”
“Nhưng dĩ nhiên.” Anh ta uống thêm bia nữa, lau ria mép bằng mu bàn tay. “Tôi tưởng cậu biết rồi. Rõ ràng thế mà.”
“Lạy Chúa.” Paul chùi má thật mạnh nơi cô ả hôn vào. Gã liếc nhìn lại. “Có thể với anh thì thế.”
“Cậu là người có chuyên môn thế mà cứ như con nai vàng.”
“Tôi đã nói là tôi thích phụ nữ, khi anh hỏi tôi về những căn phòng ở đây.”
“Chà, thứ trưng bày ờ đây là phụ nữ. Nhưng phân nửa hầu bàn là nam giới. Đừng trách tôi nếu cả hai giới đều thấy cậu hấp dẫn. Thêm nữa, đó là lỗi của cậu - cậu boa cho cô ta như một hoàng tử ở Addis Ababa ấy.”
Paul châm một điếu thuốc nhằm át đi cái mùi nước hoa giờ chỉ khiến gã ghê tởm.
“Vậy là cậu John Dillinger, tôi thấy có những vấn đề đối với cậu. Có phải những kẻ đứng sau vụ này đã phản bội những người sẽ đưa cậu rời khỏi Berlin không?”
“Tôi vẫn chưa biết.” Gã liếc nhìn quanh Câu lạc bộ gần như trống trải, nhưng vẫn rướn người về phía trước thì thầm, “Tôi lại cần anh giúp rồi, Otto.”
“Ừ, thì tôi đây mà, và luôn sẵn sàng được giúp đỡ. Tôi đây, kẻ cứu cậu thoát khỏi đống phân nâu, người làm bơ, người buôn sâm panh và là người đóng giả Krupp.”
“Nhưng tôi không còn tiền nữa.”
Webber cười chế nhạo. “Tiền… rốt cục là căn nguyên của mọi điều xấu xa. Cậu cần gì, bạn tôi ơi?”
“Một chiếc ô tô. Một bộ đồng phục khác. Và một khẩu súng trường khác.”
Webber im lặng. “Lại tiếp tục săn.”
“Đúng vậy.”
“Chà, tôi đã làm việc này cho một tá thằng như cậu trong băng nhóm của tôi… Tuy nhiên an ninh của Ernst sẽ tăng cao hơn bao giờ hết. Hắn có thể rời thành phố một thời gian.”
“Đúng. Nhưng có lẽ không phải ngay lập tức. Khi tôi ở trong văn phòng hắn, tôi đã thấy hôm nay hắn có hai cuộc hẹn. Cuộc hẹn thứ nhất tại Sân vận động. Cuộc hẹn còn lại là tại một nơi tên là Trường Đại học Waltham. Nó ở đâu?”
“Waltham à?” Webber hỏi. “Nó là…”
“Xin chào anh yêu, uống bia nữa không? Hay anh có thể muốn em? “
Paul nhảy dựng lên vì làn hơi nóng rực phả vào tai mình, đôi cánh tay như con rắn trườn quanh người gã. Liesl đã tiếp cận gã từ đằng sau.
“Lần đầu tiên,” ả hầu bàn thì thầm, “sẽ miễn phí. Có lẽ cả lần thứ hai luôn.”
“Thôi đi,” gã gầm lên. Gương mặt ả hầu bàn biến sắc.
Giờ biết được sự thật về hắn, Paul có thể thấy gương mặt của sinh vật này tuy xinh xẻo nhưng vẫn hiện ra nét nam tính rõ ràng.
“Anh không cần phải phũ phàng thế, anh yêu.”
“Tôi xin lỗi,” Paul nói, tránh ra xa. “Tôi không có hứng thú với đàn ông.”
Liesl lạnh lẽo nói, “Tôi không phải là đàn ông.-”
“Anh hiểu ý tôi muốn nói gì.”
“Vậy thì được, lẽ ra anh không nên tán tỉnh tôi,” Liesl đốp lại. “Anh trả tôi bốn mác cho mấy cốc bia. À không, năm mác chứ. Tôi cộng sai.”
Paul thanh toán, ả hầu bàn lạnh lẽo quay đi, làu bàu và dọn ầm ĩ các bàn gần đó.
“Những cô gái của tôi,” Webber thô bạo nói. “đôi khi họ cư xử theo cùng một cách. Có thể rất phiền.”
Hai người quay lại với câu chuyện của mình, Paul nhắc lại, “Trường Đại học Waltham? Anh có biết gì về nó không?”
“Một trường quân sự cách không xa đây lắm, mà nó nằm trên đường tới Oranienburg - mái nhà của trại tập trung tuyệt đẹp của chúng ta. Tại sao cậu lại không gõ cửa trong khi cậu ở đó rồi tự nộp mình. Giúp bọn SS đỡ mệt khi truy lùng cậu.”
“Một chiếc ô tô và một bộ đồng phục,” Paul lặp lại. “Tôi muốn làm một quan chức, không làm lính nữa. Chúng tôi đã làm thế ở Sân vận động, và chúng có thể đoán trước điều đó. Có thể…”
“Chà, tôi hiểu! Cậu có thể trở thành một kẻ cầm đầu RAD.”
“Cái gì cơ?”
“Sở Lao động Quốc gia. Con Át Bích đấy. Thanh niên nào trong nước này cũng phải làm một phần việc như một người công nhân, có lẽ bản thân Ernst cho rằng đây là một cách thông minh để huấn luyện quân sĩ. Chúng mang xẻng như cầm súng và tập hành quân cũng nhiều như đào đất. Cậu quá già không tham gia lao động được, nhưng có thể trở thành một sĩ quan. Chúng có những chiếc xe tải đưa đón công nhân đến các công trường, các khu hành quân và phổ biến ở nông thôn. Sẽ chẳng ai nhận ra cậu đâu. Tôi biết phải tìm một chiếc xe tải đẹp ở đâu. Và một bộ đồng phục nữa. Chúng sẽ có màu xanh-xám trang nhã. Đúng kiểu màu sắc dành cho cậu.”
Paul thì thầm, “Còn súng trường?”
“Khoản này sẽ khó hơn. Nhưng tôi có vài dự tính.” Anh ta uống nốt cốc bia của mình. “Khi nào thì cậu muốn tiến hành?”
“Tôi phải đến Trường Đại học Waltham lúc năm rưỡi. Không muộn hơn được.”
Webber gật đầu. “Vậy thì chúng ta phải di chuyển nhanh, để biến cậu thành một sĩ quan Quốc Xã.” Anh ta phá lên cười. “Cho dù cậu chẳng cần huấn luyện gì đâu. Chỉ Chúa mới biết có đào tạo thật sự hay không.”