CHƯƠNG 32
Ban đầu gã chỉ nghe thấy tiếng rè rè, rồi những tiếng rít hợp lại tạo nên: “Gordon à?”
“Chúng ta không gọi tên nhau,” viên tư lệnh nhắc nhở, giận dữ ép chặt chiếc điện thoại Bakelite vào tai để có thể nghe rõ hơn tiếng nói từ Berlin. Chính Paul Schumann đang gọi qua một radio được nối thẳng tới London. Thời gian là ngay trước 10 giờ sáng Chủ nhật, nhưng Gordon vẫn đang ngồi tại bàn làm việc trong Văn phòng Tình báo Hải quân. Ông đã ở đây suốt đêm qua, háo hức chờ được nghe thông tin ám sát Ernst thành công. “Cậu có sao không? Đã xảy ra chuyện gì? Chúng tôi đã kiểm tra hết các kênh báo chí, theo dõi các chương trình phát thanh mà chẳng thấy…”
“Im lặng,” Schumann ngắt lời. “Tôi không có thời gian chơi trò ‘những người bạn phương Bắc’ và ‘những người bạn phương Nam’ Chỉ nghe thôi.”
Gordon nhoài người ra phía trước trên ghế. “Nói tiếp đi.” “Morgan chết rồi.”
“Ôi không.” Gordon tạm thời nhắm mắt lại, cảm thấy mất mát. Dù không quen biết người này về mặt cá nhân, nhưng thông tin của anh ta luôn vững chắc. Và bất kỳ ai mạo hiểm cả mạng sống vì quê hương mình, đều xứng đáng được Gordon tưởng nhớ.
Đến lúc này, Schumann mới tung ra tin sốt dẻo. “Ông ta bị một kẻ tên là Robert Taggert, người Mỹ giết hại. Ông biết hắn không?”
“Cái gì? Người Mỹ à?”
“Ông biết hắn không?”
“Không, chưa từng nghe tên hắn.”
“Hắn cũng đã cố giết tôi khi tôi chưa kịp làm việc ông sai tôi làm. Thằng cha ông đã nói đến suốt hai ngày trước là Taggert đấy, không phải Morgan đâu.”
“Nói lại cái tên hắn đi?”
Schumann đánh vần tên hắn, nói với Gordon rằng hắn có thể có liên hệ gì đó với Bộ Ngoại giao Mỹ nhưng gã không chắc. Viên tư lệnh viết cái tên lên một mẩu giấy rồi hét lên, “Yeoman Willets!”
Một lúc sau, một người phụ nữ xuất hiện trên ngưỡng cửa. Gordon dúi luôn mảnh giấy vào lòng bàn tay cô ta. “Cho tôi hết mọi thông tin cô tìm được về tên này,” ông nói. Cô ta đi ngay lập tức. Ông quay lại trên đường dây. “Cậu có sao không?”
“Ông có phải là một phần trong chuyện này không?” Bất chấp tín hiệu kết nối không tốt, Gordon có thể cảm thấy được con giận của người này.
“Cái gì?”
“Tất cả đều bị dàn xếp. Ngay từ đầu. Ông có phải là một phần trong đó không?”
Gordon cảm thấy không khí buổi sáng tháng Bảy như đầm lầy tại Washington D.C. trong và ngoài ô cửa sổ mở. “Tôi không hiểu cậu đang nói gì.”
Ngừng một lúc, Schumann mới kể toàn bộ câu chuyện - về vụ giết Morgan, chuyện Taggert đóng giả Morgan lừa gã và chuyện nộp gã cho quân Phát xít.
Gordon thực sự choáng váng. “Lạy Chúa, tôi thề. Tôi không bao giờ làm thế với người của tôi. Và tôi xem cậu là một người như thế. Tôi nói thật.”
Lại ngừng một lúc nữa. “Taggert đã nói ông không liên quan. Nhưng tôi muốn nghe chính miệng ông nói.”
“Tôi thề…”
“Vậy thì trong hàng ngũ của ông có một kẻ phản bội đấy, Tư lệnh. Ông cần tìm ra đó là kẻ nào.”
Gordon ngả người về phía sau, mệt lử với tin tức này. Ông chết lặng, ngó trân trân bức tường trước mặt có đăng một số những câu trích dẫn, bằng cấp Đại học Yale của ông và hai bức ảnh: Tổng thống Roosevelt và Theodorus B.M. Mason, viên trung úy hải quân cứng cỏi, từng là người đầu tiên phụ trách Văn phòng Tình báo Hải quân.
Một kẻ phản bội…
“Tên Taggert này đã nói gì?”
“Hắn chỉ nói rằng đó là ‘những lợi ích’.Chẳng có gì cụ thể hơn. Chúng muốn ông trùm được vui. Ý tôi là ông trùm đứng đầu tất cả.”
“Cậu có nói chuyện với hắn không, tìm được gì thêm không?”
Một chút ngập ngừng. “Không.”
Gordon hiểu lời ngụ ý này. Taggert đã chết.
Schumann nói tiếp. “Khi ở trên thuyền, tôi đã biết những đoạn mật khẩu về chuyến tàu điện ngầm. Taggert cũng biết đúng đoạn mật khẩu đó, nhưng Morgan thì không. Làm sao chuyện này xảy ra được?”
“Tôi đã gửi mật mã cho những người của tôi trên thuyền. Nó cũng được truyền riêng rẽ đến nơi cậu đang ở bây giờ. Morgan được cho là đã nhận được mật mã ở đó.”
“Vậy thì Taggert cũng biết đúng tin nhắn đó, còn mật mã gửi đến Morgan không giống. Tên gián điệp Liên bang Mỹ -Đức trên tàu đó không gửi đi được bất kỳ cái gì hết. Không phải hắn. Vậy thì kẻ làm chuyện này là ai? Ai là người biết được mật khẩu đúng?”
Hai cái tên lập tức xuất hiện trong tâm trí Gordon. Từng xuất thân là lính, Gordon hiểu rằng một tư lệnh quân đội phải cân nhắc tất cả các khả năng. Nhưng Andrew Avery trẻ trung đối với ông chẳng khác gì một đứa con trai. Ông biết Vincent Manielli chưa nhiều, nhưng trong hồ sơ của chàng sĩ quan trẻ này, ông không phát hiện thấy điểm gì đáng nghi về lòng trung thành.
Như thể là người đọc được suy nghĩ, Schumann hỏi, “Ông đã làm việc với hai thằng nhóc của ông bao lâu rồi?”
“Điều này gần như không thể nào.”
“‘Không thể nào’ giờ đây mang ý nghĩa hoàn toàn khác rồi. Còn đứa khốn kiếp nào biết mật mã không? Daddy Warbucks thì sao?”
Gordon cân nhắc. Nhưng những kẻ Mạnh Thường Quân như Cyrus Claybom chỉ biết chung chung về kế hoạch của họ. “Ông ta còn chẳng biết có mật mã nữa là.”
“Vậy thì kẻ nghĩ ra đoạn mật khẩu là ai?”
“Chúng tôi cùng làm với nhau, Thượng Nghị sĩ và tôi.”
Thêm nhiều tiếng rè nữa. Schumann không nói gì.
Nhưng Gordon nói thêm, “Không, không thể là ông ta được.”
“Khi gửi mật mã, ông ta có ở cạnh ông không?”
“Không. Ông ấy ở Washington mà.”
Gordon suy nghĩ: Sau khi trò chuyện với mình, Thượng Nghị sĩ có thể đã gửi một tin nhắn kèm mật mã chính xác cho Taggert tại Berlin, thu xếp sai người đến gặp Morgan. “Không thể nào.”
“Tôi nghe từ đó mãi rồi, Gordon. Với tôi chẳng khác biệt gì đâu.”
“Nghe này, toàn bộ chuyện này là ý tưởng của Thượng Nghị sĩ ngay từ đầu. Ông ta có nói chuyện với mấy người trong chính quyền, trước khi đến gặp tôi.”
“Tất cả cho thấy ông ta đang lên kế hoạch gài tôi ngay từ đầu.” Schumann lo ngại nói thêm, “Cùng với ‘mấy kẻ’ tương tự kia nữa.”
Những sự thật tràn như thác qua tâm trí Gordon. Có thể như thế không? Kẻ phản bội này có thể dẫn tới đâu?
Cuối cùng, Schumann nói, “Nghe này, ông cứ xử lý tình huống này theo cách ông muốn. Ông vẫn muốn đưa tôi lên chiếc máy bay đó chứ?”
“Có, thưa cậu. Tôi hứa chắc chắn với cậu điều đó. Đích thân tôi sẽ liên hệ với người của tôi tại Amsterdam. Chúng tôi sẽ có máy bay đến đó trong ba tiếng rưỡi.”
“Không, tôi sẽ cần máy bay sau lúc đó. Khoảng mười giờ đêm nay.”
“Chúng tôi không thể hạ cánh trong đêm tối. Đường băng chúng tôi sử dụng đang bị bỏ hoang, không có đèn đâu. Phải tận dụng được ánh sáng ban ngày, có thể hạ cánh vào khoảng tám rưỡi. Thế nào?”
“Không. Vậy thì rạng đông ngày mai đi.”
“Tại sao?”
Tạm dừng một lúc. “Lần này tôi sẽ tóm hắn.”
“Sẽ…?”
“Làm việc tôi đến đây để làm,” Schumann làu bàu.
“Không, không… Cậu không thể. Bây giờ, việc đó quá nguy hiểm, về nhà đi. Nhận công việc chúng tôi đã nói với cậu. Cậu đã kiếm được công việc đó. Cậu…”
“Tư lệnh… ông vẫn nghe đấy chứ?”
“Nói tiếp đi.”
“Nghe này, tôi đang ở đây và ông ở đó, ông chẳng làm gì cản tôi được đâu. Nên trách mắng gì cũng chi phí thời gian thôi. Phải chắc chắn rằng máy bay sẵn sàng vào rạng đông ngày mai.”
Yeoman Ruth Willets xuất hiện trên ngưỡng cửa. “Giữ máy,” Gordon nói vào điện thoại.
“Không có thông tin gì về Taggert, thưa ngài. Bên hồ sơ nói họ sẽ thông báo ngay khi tìm được bất kì thông tin gì.”
“Thượng Nghị sĩ đang ở đâu?”
“Ở New York.”
“Gọi cho tôi bất kỳ máy bay nào có thể mang tôi đến đó ngay bây giờ. Quân sự, tư nhân. Gì cũng được.”
“Rõ, thưa ngài.”
Gordon nhấc lại máy. “Paul, chúng tôi sẽ đưa cậu ra khỏi đó. Nhưng làm ơn hãy lắng nghe lý do này. Mọi thứ đã thay đổi rồi - cậu có biết rủi ro sẽ thế nào không?”
Tiếng ồn trên đường dây ngày càng to át đi hầu hết những lời nói của Schumann. Nhưng có vẻ âm thanh Bull Gordon nghe được là tiếng cười, sau đó giọng tay sát thủ lại vang lên. Một phần câu nói hình như là “cuộc đua sáu chọi năm.”
Sự tĩnh lặng ông nghe thấy sau đó, so với tiếng rè còn khó chịu hơn nhiều.
Trong một nhà kho phía Đông Berlin (mà Otto Webber tự cho là ‘của mình’ bất chấp thực tế họ phải phá cửa sổ mới vào được bên trong), họ tìm thấy các giá treo đồng phục Sở Lao động Quốc gia. Webber lấy xuống một bộ đồng phục nhìn thích mắt khỏi giá treo. “Chà, như tôi đã nói, màu xanh-xám hợp với cậu.”
Có lẽ thế, nhưng sắc màu này cũng khá nổi bật. Đặc biệt khi xét đến điểm bắn của gã tại Trường Đại học Waltham là cánh đồng rộng hoặc một khu rừng, như Webber đã mô tả quang cảnh ở đó. Bộ đồng phục cũng bó sát, to và nóng. Nó sẽ giúp gã tiếp cận gần trường học. Tuy nhiên, gã cũng cần một bộ hang phục thực tế hơn bằng vải thô, gồm một áo sơ mi sẫm màu cùng đôi giày để mặc lúc làm nhiệm vụ.
Một trong số những đối tác kinh doanh của Webber được phép tiếp cận đội xe tải của Chính phủ. Với lời bảo đảm rằng Webber sẽ trả xe trong một ngày (không cố gắng bán lại cho Chính phủ như đã từng làm) cộng thêm mấy điếu xì gà Cuba được sản xuất tại Rumani, anh ta đã có được chìa khóa xe.
Giờ thì họ chỉ cần súng trường.
Paul nghĩ tới ông chủ tiệm cầm đồ trên Quảng trường Tháng 11 Năm 1923 đã cung cấp khẩu Mauser. Tuy nhiên, gã không chắc ông ta có đóng vai trò nào trong trò lừa dối của Taggert không. Kể cả không phải, gã cũng không biết liệu Cảnh sát Hình sự, hay Gestapo có truy ngược khẩu súng về cửa hàng và bắt giữ ông ta không.Nhưng Webber nói rằng trong nhà kho nhỏ trên sông Spree, các khẩu súng trường thường xuyên được cất trữ. Anh ta thi thoảng có làm mấy đợt giao hàng quân nhu tới đó.
Họ lái xe về phía Bắc và ngay sau khi qua sông trên phố Wullenweber, ngoặt về phía Tây rồi thẳng tiến qua một vùng có những tòa nhà sản xuất và thương mại, vỗ nhẹ cánh tay Paul, anh ta chỉ tay vào một tòa nhà tối om về bên trái.
“Là nó đấy, anh bạn.”
Họ rất mong rằng nơi này bị bỏ hoang, hôm nay đang là Chủ nhật. “Ngay cả bọn phân nâu tàn bạo ấy còn chẳng có ngày nghỉ,” Webber giải thích. Nhưng thật không may, căn nhà kho nằm khuất phía sau một hàng rào dây kẽm gai cao và khu đỗ xe rộng rãi giờ đang trống trơn ở phía trước, khiến tòa nhà gần như không thể nhìn thấy từ con phố đông người qua lại.
“Làm sao chúng ta…?”
“Yên tâm, cậu John Dillinger,” Webber nói. “Tôi biết mình đang làm gì. Có một lối vào ven bờ sông dành cho thuyền và xà lan. Không thể nhìn thấy nó từ con phố, cậu không thể bảo rằng có căn nhà kho của Quốc Xã từ phía đó - không có hình đại bàng hay thập ngoặc nào trên vũng tàu đậu - nên sẽ chẳng ai nghĩ đến chuyện có người vào bằng lối đó.”
Họ dừng xe quá nhà kho nửa khu phố, Webber dẫn gã đi qua một con ngõ ở phía Nam tiến đến con sông. Hai người bước lên một bức tường đá bắc qua con sông đục ngàu, nơi không khí hăng hăng mùi cá thối rữa. Họ bước xuống một cầu thang cũ khảm bằng đá rồi đi lên một cầu tầu bằng bê tông. Vài con thuyền có mái chèo được cột lại, Webber trèo xuống một thuyền, Paul cũng xuống theo.
Họ tháo dây. Chỉ mất vài phút để hai người chèo đến vũng tàu đậu tương tự, nằm dưới mặt sau nhà kho quân đội.
Webber cột thuyền lại cẩn thận, rồi trèo lên bậc đá trơn tuột phân chim, Paul đi theo. Nhìn xung quanh, gã có thể thấy những con thuyền trên sông, chủ yếu là du thuyền, nhưng Webber đã đúng, chẳng ai chú ý đến họ. Hai người bước lên vài bậc đến cửa sau, Paul liếc nhanh qua cửa sổ. Ở bên trong không thắp đèn, chỉ có ánh mặt trời lờ mờ chiếu qua một vài giếng trời mờ đục. Tuy nhiên căn phòng lớn có vẻ trống trải. Webber rút ra một chùm chìa khóa từ trong túi thử mở bằng mấy chìa khóa vạn năng, cho đến khi tìm thấy chìa khóa đúng. Paul nghe thấy một tiếng cạch nhẹ. Webber liếc nhìn gã rồi gật đầu, Paul giơ tay đẩy cửa.
Họ bước vào trong căn phòng nóng nực, đầy bụi nồng nặc khói dầu creozot cay mắt. Đưa mắt nhìn quanh, Paul nhận thấy hàng trăm thùng thưa. Treo trên tường là các giá trưng bày súng trường. Quân đội hoặc SS đã và đang sử dụng nơi này như một trạm lắp ráp - lấy súng xuống từ trên giá, xé lớp giấy dầu bọc ngoài, sau đó lau sạch dầu creozot được bôi lên chống gỉ. Chúng là những khẩu Mauser, giống khẩu Taggert đã chuẩn bị cho gã tuy báng súng dài hơn. Thiết kế này tiện cho gã ngắm bắn mục tiêu chính xác hơn, vì tại Waltham, gã ở vị trí cách Ernst khá xa. Không có kính ngắm. Nhưng ở hai trận St. Mihiel và Argonne Woods, Paul Schumann chẳng cần đến kính ngắm trên khẩu Springheld của mình. Thuật xạ kích của gã đạt độ chính xác chết người.
Bước đến giá súng, gã chọn một khẩu, xem xét và thử kéo chốt. Nó chạy trơn tru, bật lên tiếng cạch êm tai của thứ kim loại được gia công tinh vi. Gã ngắm bắn rồi bắn chay vài lần lấy cảm giác với cò súng. Họ tìm thấy các thùng thưa dán nhãn 7,92mm, cỡ đạn dành cho súng Mauser. Bên trong là các hộp bìa cứng màu xám sơn các dấu thập ngoặc và chim đại bàng. Gã mở một hộp lấy ra năm viên, nạp vào súng, lên đạn rồi lấy hộp đạn ra để hoàn toàn chắc chắn đạn không bị kẹt.
“Tốt rồi, ra khỏi đây thôi,” gã nói, lấy hai hộp đạn bỏ vào túi áo. “Chúng ta có thể…”
Những lời nói của gã bị ngắt quãng khi cửa trước bật mở, một chùm ánh nắng mặt trời chói chang chùm lên hai người. Họ quay lưng lại, hé mắt nhìn. Paul chưa kịp nhấc khẩu súng trường lên, tên thanh niên đứng trên ngưỡng cứa mặc đồng phục SS màu đen chĩa khẩu súng ngắn về phía họ. “Mày! Bỏ súng xuống ngay lập tức. Giơ tay lên!”
Paul cúi xuống, đặt khẩu Mauser lên sàn rồi chậm rãi đứng dậy.