Chương 6
Lúc năm giờ sáng, đồng hồ báo thức rền vang trên chiếc bàn đầu giường, phía dưới chiếc đèn mới, và nó đã lập tức bị làm cho câm nín. Mitch dọ dẫm bước đi trong ngôi nhà tối và thấy Hearsay đang chờ sẵn ở cửa sau. Anh thả nó ra sân sau rồi đi tắm. Hai mươi phút sau, anh tìm đến cô vợ dưới tấm chăn và hôn tạm biệt cô. Cô không có phản ứng gì.
Không phải đánh vật với nạn kẹt xe, văn phòng chỉ ở cách chưa đầy mười phút. Anh quyết định ngày làm việc của anh sẽ bắt đầu vào lúc năm giờ ba mươi cho đến khi nào có ai đó vượt qua thành tích này. Đến lúc đó anh sẽ đến từ lúc năm giờ, hay bốn giờ ba mươi, hay bất cứ giờ nào để là người đến đầu. Ngủ là một sự phiền toái. Anh sẽ là luật sư đầu tiên đến tòa nhà Bendini trong ngày hôm đó và trong tất cả mọi ngày cho đến khi được trở thành đối tác. Nếu những người khác mất mười năm thì anh sẽ chỉ mất bảy. Anh sẽ trở thành đối tác trẻ nhất trong lịch sử của hãng, anh quyết định như thế.
Bãi đậu trống vắng cạnh tòa nhà Bendini được bao quanh bằng một hàng rào lưới cao ba mét với một người bảo vệ gác ở cổng. Sẽ có một chỗ đậu trong bãi, nơi tên anh được xịt sơn giữa hai đường kẻ vàng. Anh dừng xe ở gần cổng và chờ. Ông bảo vệ mặc đồng phục xuất hiện từ bóng tối và tiến đến cửa xe trước. Mitch nhấn nút, hạ thấp cửa sổ rồi chìa ra tấm thẻ nhựa có ảnh của anh.
“Anh là người mới hả,” ông bảo vệ hỏi khi trao lại tấm thẻ.
“Vâng. Mitch McDeere.“
“Tôi đã đọc thấy trên thẻ. Lẽ ra tôi nhìn xe là phải biết rồi.”
“Tên ông là gì?” Mitch hỏi.
“Dutch Hendrix. Làm việc ở Sở cảnh sát Memphis đã ba mươi ba năm.”
“Rất vui được gặp ông, Dutch.”
“Vâng, tôi cũng rất vui. Anh bắt đầu sớm nhỉ?”
Mitch mỉm cười rồi cầm lấy tấm thẻ ID. “Ủa, tôi tưởng mọi người đã đến rồi chứ.”
Dutch gượng cười. “Anh là người đầu tiên. Một lát nữa sẽ đến phiên ông Locke.”
Cánh cổng mở ra và Dutch ra hiệu cho anh vào. Anh tìm thấy tên mình được sơn trắng trên nhựa đường. Anh đậu chiếc BMW bóng lộn vào hàng thứ ba tính từ tòa nhà. Anh với ra băng sau để lấy chiếc cặp da lươn rỗng màu rượu vang rồi nhẹ nhàng sập cửa lại. Một người bảo vệ khác đứng chờ ở lối vào phía sau nhà. Mitch tự giới thiệu rồi nhìn ông ta mở khóa cửa. Anh nhìn đồng hồ. Đúng năm giờ ba mươi. Anh cảm thấy nhẹ nhõm vì giờ này là đủ sớm. Những người còn lại của hãng vẫn còn đang say ngủ.
Anh bật đèn văn phòng của mình, đặt cặp da lên chiếc bàn tạm rồi đi thẳng đến phòng cà phê ở cuối hành lang, đi đến đâu thì bật đèn đến đó. Máy cà phê có quy chuẩn công nghiệp với nhiều chế độ khác nhau - đun nhiều lần, pha nhiều ấm - và hình như chẳng có hướng dẫn sử dụng nào cho tất cả các chế độ đó. Anh nghiên cứu cỗ máy một hồi lâu sau khi trút bịch cà phê vào bộ lọc. Anh rót nước qua một trong những lỗ ở đỉnh và mỉm cười khi nó bắt đầu nhỏ giọt đúng vị trí.
Ở một góc văn phòng của anh có ba thùng các tông chứa đầy sách, tài liệu và vở ghi bài giảng mà anh đã tích lũy từ ba năm trước. Anh bưng chiếc thùng đầu đặt lên bàn rồi bắt đầu dỡ đồ bên trong ra. Những tài liệu được anh phân loại và sắp xếp quanh bàn thành từng chồng ngay ngắn.
Sau hai tách cà phê, anh tìm ra các tài liệu về án luật trong chiếc thùng thứ ba. Anh bước đến cửa sổ và mở rèm. Trời vẫn còn tối. Anh không để ý đến cái hình hài vừa hiện ra ở ngưỡng cửa.
“Chào anh!”
Mitch quay phắt khỏi cửa sổ và gắt lên với người đàn ông. “Ông làm tôi hết hồn,” anh nói rồi hít một hơi sâu.
“Tôi xin lỗi. Tôi là Nathan Locke. Hình như chúng ta chưa gặp nhau.”
“Tôi là Mitch McDeere. Người mới.”
Họ bắt tay nhau.
“Vâng, tôi biết. Tôi xin lỗi vì không gặp anh sớm hơn. Trong những lần viếng thăm trước của anh thì tôi lại mắc bận. Hình như tôi đã thấy anh tại các lễ tang hôm thứ Hai.”
Mitch gật đầu, biết chắc mình chưa từng ở gần Nathan Locke trong phạm vi một trăm mét. Nếu đã từng thì hẳn anh đã nhớ. Đó là do cặp mắt, cặp mắt đen sắc lạnh với những vết nhăn đen bọc xung quanh. Một cặp mắt lớn. Một cặp mắt không thể quên. Tóc của ông bạc trắng, thưa lại ở đỉnh đầu và lùm xùm ở quanh tai, và màu trắng đó tương phản rõ rệt với những phần còn lại trên khuôn mặt ông. Khi nói, mắt ông nheo lại và những đồng tử đen rực lên dữ dội. Một cặp mắt nham hiểm. Một cặp mắt biết tất.
“Có lẽ vậy,” Mitch nói, bị hớp hồn bởi khuôn mặt độc ác nhất mà anh từng đối diện.
“Tôi thấy anh là một người dậy sớm.”
“Vâng, thưa ông.”
“Thế nhé! Thật tốt khi có được anh.”
Natham Locke lui khỏi ngưỡng cửa rồi biến mất. Mitch kiểm tra hành lang bên ngoài rồi khép cửa lại. Thảo nào họ tống ông ta lên tầng bốn, ở cách xa mọi người, anh nghĩ. Giờ thì anh đã hiểu vì sao anh chưa gặp Nathan Locke trước khi ký kết. Nếu gặp ông ta, anh có thể sẽ nghĩ lại. Có lẽ họ luôn giấu ông ta trước mọi ứng viên triển vọng. Không nghi ngờ gì nữa, ông ta là một sự hiện diện xúi quẩy nhất, ác hiểm nhất mà Mitch từng cảm nhận. Đó là do cặp mắt, một lần nữa anh tự nhủ khi gác chân lên bàn, nhấp cà phê. Do cặp mắt.
Như Mitch kỳ vọng, Nina đem thức ăn đến khi bà báo có mặt vào lúc tám giờ rưỡi. Bà mời Mitch một bánh rán và anh đã ăn hai cái. Bà dò hỏi liệu bà có nên mang theo thêm thức ăn vào buổi sáng hay không. Mitch nói nếu mà được như thế thì quá tốt.
“Cái gì đây?” bà trỏ tay vào chồng hồ sơ và sổ sách trên bàn làm việc.
“Đó là dự án trong ngày của chúng ta. Chúng ta phải sắp xếp lại ngăn nắp những thứ này.”
“Không đọc ghi à?”
“Chưa. Trong vài phút nữa tôi sẽ gặp Avery. Tôi cần sắp sếp đống hồ sơ này theo một trình tự nào đó.”
“Hứng thú ghê,” bà nói rồi đi một mạch đến phòng cà phê.
Avery Tolar đang chờ với một tập hồ sơ dày cui - có thể sẽ còn được mở rộng – mà ông trao cho Mitch. “Đây là hồ sơ vụ Capps. Một phần của nó. Tên của thân chủ chúng ta là Sonny Capps. Ông ta hiện sống ở Houston, nhưng lớn lên ở Arkansas. Ông ra có một tài sản giá trị khoảng ba mươi triệu và ôm chặt từng đồng xu. Ông ta được cha để lại một tuyến sà lan ngay trước khi chết, và đã chuyển nó thành một dịch vụ lai dắt lớn nhất trên sông Mississippi. Giờ thì ông ta đã có những con tàu trên khắp thế giới. Chúng ta phụ trách tám mươi phần trăm các vụ việc pháp lý của ông ta, tất cả ngoại trừ việc tranh tụng. Ông ta muốn lập một đối tác hữu hạn để mua thêm một hạm đội tàu dầu nữa từ gia đình của một lão Chink đã chết nào đó ở Hồng Kông. Thường thì Capps sẽ là chủ tịch hội đồng quản trị, và ông ta sẽ đưa vào càng nhiều càng tốt những đối tác hữu hạn hai mươi lăm phần để chia sẻ rủi ro và vận dụng các nguồn lực của họ. Giao kèo này có giá trị sáu mươi lăm triệu. Tôi đã tạo cho ông ta nhiều đối tác hữu hạn và tất cả bọn họ đều khác nhau, tất cả đều phức tạp. Thỏa thuận với ông ta là cực kỳ khó. Ông ta là một người cầu toàn, lúc nào cũng nghĩ mình biết nhiều hơn cả tôi. Anh không nói chuyện được với ông ta đâu. Thật ra, chẳng ai nói chuyện được với ông ta cả ngoại trừ tôi. Hồ sơ này là một phần của mối hợp tác gần đây mà tôi dựng lên cho ông ta. Bên cạnh những tài liệu khác, nó bao hàm một bản cáo bạch, một thỏa thuận hình thành đối tác, các thư nhiệm ý, các bản khai trình, và bản thân tờ thỏa thuận đối tác hữu hạn. Hãy đọc từng từ. Sau đó, tôi muốn anh chuẩn bị một bản sơ thảo thỏa thuận hợp tác cho vụ việc này.”
Tập hồ sơ đột nhiên nặng hơn lên. Có lẽ năm giờ rưỡi vẫn là chưa đủ sớm.
Vị đối tác nói tiếp. “Theo lời Capps thì chúng ta có khoảng bốn mươi ngày, vì thế chúng ta đã bị chậm. Marty Kozinski đang trợ giúp vụ này. Khi nào xem xong hồ sơ của anh ta, tôi sẽ chuyển ngay cho anh. Có câu hỏi nào không?”
“Còn việc nghiên cứu thì sao?”
“Phần lớn nghiên cứu là gần đây, nhưng anh sẽ phải cập nhật lại. Capps kiếm được hơn chín triệu năm ngoái và chỉ trả những khoản thuế bèo bọt. Ông ta không tin việc phải trả thuế, và quy trách nhiệm cá nhân cho tôi trong từng đồng xu tiền thuế. Tất cả đều là hợp pháp, dĩ nhiên, nhưng ý tôi nói công việc này có những áp lực rất lớn. Nó liên quan đến nhiều triệu đô la tiền đầu tư và tiết kiệm thuế. Vụ việc này sẽ bị soi mói bởi các chính quyền của ít nhất ba quốc gia. Cho nên hãy cẩn thận vào.”
Mitch lật giở các tờ tài liệu. “Tôi phải làm việc với hồ sơ này bao nhiêu giờ mỗi tuần?”
“Nhiều giờ nhất có thể. Tôi biết cuộc thi lấy chứng chỉ là quan trọng, nhưng Sonny Capps cũng quan trọng đâu kém. Năm ngoái ông ta đã trả phí pháp lý cho chúng ta gần nửa triệu cơ đấy.”
“Tôi sẽ hoàn thành.”
“Tôi biết anh sẽ hoàn thành mà. Như tôi đã nói với anh, mức của anh là một trăm mỗi giờ. Hôm nay Nina sẽ cùng anh xúc tiến việc ghi nhận thời gian. Nhớ lại đi, đừng lơ là với việc ghi hóa đơn.”
“Làm sao tôi quên được.”
Oliver Lambert và Nathan Locke đứng trước cánh cửa kim loại ở tầng năm, ngước nhìn lên chiếc camera. Có một tiếng “cách” lớn và cánh cửa mở ra. Một người bảo vệ gật đầu.
“Chào Ollie,” DeVasher từ tốn nói, phớt lờ vị đối tác kia.
“Tin mới nhất là gì?” Locke gắt gỏng hỏi về hướng DeVasher mà không nhìn ông ta.
“Tin từ đâu chứ?” DeVasher thản nhiên hỏi lại.
“Từ Chicago.”
“Trên đó họ rất lo lắng đấy, Nat. Bất kể các anh nghĩ thế nào, họ không muốn tay họ bị nhúng chàm. Nói thẳng ra, họ không hiểu nổi tại sao lại phải làm như thế.”
“Ý anh là sao?”
“Họ đang đặt ra vài câu hỏi khó, ví như tại sao chúng ta không kiểm soát được người của mình?”
“Rồi anh nói gì với họ?”
“Nói mọi thứ đều ổn, đều tuyệt vời. Hãng Bendini vĩ đại vẫn vững mạnh. Rò rỉ đã bị bít. Việc làm ăn vẫn như thường lệ. Không có vấn đề gì cả.”
“Chúng gây tổn thất đến cỡ nào?” Oliver Lambert hỏi.
“Chúng tôi không chắc. Chúng tôi sẽ không bao giờ biết chắc, nhưng tôi nghĩ chúng chưa nói gì cả. Chúng đã quyết định nói, điều đó thì không còn nghi ngờ gì nữa rồi, nhưng tôi nghĩ chúng chưa nói gì cả. Chúng tôi biết từ một nguồn tin rất tốt rằng FBI đang trên đường đến đảo vào hôm diễn ra tai nạn, cho nên chúng tôi nghĩ chúng đã sắp đặt một cuộc hẹn để tiết lộ thông tin.”
“Sao anh biết chuyện đó?” Locke hỏi.
“Coi nào, Nat. Chúng tôi có nguồn của chúng tôi chớ. Hơn nữa, chúng tôi có đầy người trên đảo. Chúng tôi làm việc tốt, anh biết mà.”
“Tất nhiên.”
“Nó có bầy hầy lắm không?”
“Không, không hề. Rất chuyên nghiệp nữa là khác.”
“Đám bản địa có gây trở ngại gì không?”
“Chúng tôi đã phải làm cho nó trông ổn, Ollie ạ.”
“Nhà chức trách dưới đó thì sao?”
“Nhà chức trách nào? Đó chỉ là những hòn đảo thanh bình bé như cái lỗ mũi thôi mà, Ollie. Năm ngoái ở đó có một vụ giết người và bốn tai nạn lặn biển. Với họ đó cũng chỉ là một tai nạn nữa mà thôi. Một tai nạn với ba người chết đuối.”
“Còn FBI?” Locke hỏi.
“Không biết.”
“Tôi tưởng anh có nguồn chứ.”
“Có chứ sao không, nhưng chúng tôi không tìm được anh ta. Từ hôm qua chúng tôi không nghe thấy gì cả. Người của chúng tôi vẫn ở trên đảo và họ không thấy có gì là bất thường.”
“Anh ở đây bao lâu?”
“Vài tuần nữa.”
“Nếu FBI xuất hiện thì sao?” Locke hỏi.
“Chúng tôi theo dõi chúng rất sát sao. Chúng tôi sẽ thấy khi chúng ra khỏi máy bay. Chúng tôi sẽ đi theo chúng đến các phòng khách sạn. Chúng tôi thậm chí sẽ nghe lén điện thoại của chúng. Chúng tôi biết chúng ăn gì trong bữa điểm tâm, bàn bạc gì với nhau. Chúng tôi sẽ phân công ba người của mình để bám theo từng người của chúng, và ngay đến việc chúng đi vệ sinh chúng tôi cũng biết tuốt. Chúng sẽ chẳng tìm thấy gì đâu, Nat. Tôi đã nói với anh đó là một công việc sạch sẽ. Rất chuyên nghiệp, không có chứng cớ. Thoải mái đi.”
“Anh làm tôi muốn phát ói, DeVasher,” Lambert nói.
“Anh tưởng tôi thích cái việc đó sao, Ollie? Anh muốn chúng tôi phải làm gì? Ngồi xuống, nghe chúng nói ư? Coi nào, Ollie, chúng ta ai cũng là con người. Tôi đâu muốn làm việc đó, nhưng Lazarov bảo phải làm. Anh muốn cãi Larazov hả, cãi đi. Người ta sẽ tìm thấy anh nổi lều bều ở đâu đó. Mấy gã đó cư xử không tốt. Chúng lẽ ra phải giữ im lặng, lái mấy cái xe hơi xịn be bé của chúng và sắm vai đại luật sư. Không, chúng lại muốn phải cao đạo cơ.”
Nathan Locke châm điếu xì gà rồi phả ra một đám mây khói dày đặc về một hướng chung chung chĩa về DeVasher. Ba người im lặng ngồi hồi lâu trong khi khói lan tỏa trên bàn làm việc của ông. Ông nhìn Mắt Đen, không nói năng gì. Oliver Lambert đứng dậy, nhìn bức tường trơ trụi cạnh cánh cửa.
“Anh muốn gặp chúng tôi để làm gì?” ông hỏi.
DeVasher hít một hơi sâu. “Chicago muốn cài thiết bị nghe lén vào điện thoại nhà của tất cả những ai không phải là đối tác.”
“Tôi đã bảo anh rồi mà,” Lambert nói với Locke.
“Đó không phải là ý tôi, nhưng họ vẫn khăng khăng. Trên đó họ rất sốt ruột, và họ muốn có thêm những biện pháp dự phòng. Các anh không thể trách họ được.”
“Anh không nghĩ như vậy là đi hơi quá xa sao?” Lambert hỏi.
“Phải, điều đó hoàn toàn không cần thiết. Nhưng Chicago không nghĩ vậy.”
“Khi nào?” Locke hỏi.
“Khoảng tuần sau. Việc đó sẽ phải mất vài ngày.”
“Tất cả?”
“Ừ, họ nói vậy.”
“Ngay cả McDeere?”
“Ừ, ngay cả McDeere. Tôi nghĩ Tarrance sẽ thử lần nữa, và lần này hắn có thể sẽ bắt đầu từ dưới đáy đi lên.”
“Tôi đã gặp anh ta sáng nay,” Locke nói. “Anh ta đến hãng còn sớm hơn cả tôi.”
“Lúc năm giờ ba mươi hai phút,” DeVasher xác nhận.
Những kỷ vật của trường luật được di dời xuống sàn còn hồ sơ Capps thì trải rộng khắp mặt bàn. Nina mang về một suất sandwich salad gà sau khi ra ngoài dùng bữa trưa. Anh ăn nó trong khi đọc, còn bà thì sắp xếp đâu ra đó cái đám linh tinh trên sàn nhà. Vài phút sau 1 giờ, Wally Hudson - hay J. Walter Hudson như được ghi ở phần tiêu đề thư – đến để bắt đầu việc luyện thi lấy chứng chỉ. Hợp đồng là lĩnh vực chuyên môn của ông. Ông là một thành viên năm năm của hãng và là người Virginia duy nhất ở đây, điều mà ông cho là kì lạ vì Virginia có trường luật tốt nhất nước, theo ý kiến của ông. Ông đã trải qua hai năm phát triển một khóa ôn tập mới dành cho đề mục hợp đồng của cuộc thi. Ông rất quan tâm đến việc thử nghiệm nó lên ai đó, và McDeere tình cờ lại chính là con chuột bạch. Ông trao cho Mitch một cuốn sổ nặng trịch có ba chiếc khoen. Nó dày ít nhất một tấc, nặng cũng cỡ tập hồ sơ Capps.
Cuộc thi sẽ diễn ra trong bốn ngày và bao gồm ba phần, Wally giải thích. Ngày đầu sẽ là cuộc thi về đạo đức kéo dài bốn giờ với nhiều lựa chọn. Gill Vaughn, một trong các đối tác, chuyên gia tại chỗ về đạo đức, sẽ giám sát phần ôn tập này. Ngày thứ hai sẽ là cuộc thi trong tám giờ, gọi giản lược là thi đa bang. Nó bao gồm hầu hết các lĩnh vực luật pháp chung ở tất cả các bang. Cả cuộc thi này cũng có nhiều lựa chọn và các câu hỏi thì rất lắt léo. Rồi đến phần nặng ký. Các ngày thứ ba và thứ tư sẽ kéo dài tám giờ mỗi ngày và bao trùm mười lăm lĩnh vực pháp luật nội dung. Luật hợp đồng, luật thương mại thống nhất, luật bất động sản, luật bất cẩn, luật quan hệ gia đình, luật quy trình xét xử liên bang. Luật quy trình hình sự, luật công ty, luật đối tác, luật bảo hiểm và luật quan hệ người nợ và người cho vay. Tất cả các giải đáp đều sẽ ở dạng thi thử, và các câu hỏi sẽ xoáy sâu vào luật pháp ở Tennessee. Hãng có kế hoạch ôn tập cho toàn bộ mười lăm lĩnh vực này.
“Ý ông là có cả thảy mười lăm lĩnh vực?” Mitch hỏi khi cầm lên cuốn sổ ghi chép.
Wally mỉm cười. “Đúng vậy. Chúng tôi rất thấu đáo. Chưa ai trong hãng này thi trượt...”
“Tôi biết. Tôi biết rồi. Tôi không được là người đầu tiên.”
“Anh và tôi sẽ gặp nhau ít nhất một lần trong tuần trong vòng sáu tuần tới để đả thông các tài liệu. Mỗi cuộc gặp sẽ kết thúc sau hai tiếng, cho nên anh có thể dựa theo đó mà lên kế hoạch. Tôi gợi ý là mỗi thứ Tư vào lúc ba giờ.”
“Sáng hay chiều?”
“Chiều.”
“Được thôi.”
“Như anh đã biết, luật hợp đồng và luật thương mại thống nhất đi đôi với nhau, cho nên tôi sẽ gộp luật thương mại thống nhất vào tài liệu đó. Ta sẽ xem xét cả hai cùng một lúc, nhưng sẽ mất nhiều thời gian hơn. Một cuộc thi lấy chứng chỉ tiêu biểu thường rất nặng về giao dịch thương mại. Chủ đề này sẽ mang đến nhiều câu hỏi thi thử tuyệt vời, cho nên việc ghi sổ tay sẽ là rất quan trọng. Tôi đã đưa vào những câu hỏi thực tế từ các cuộc thi cũ cùng với các câu trả lời mẫu. Đó là một phần đọc rất hấp dẫn.”
“Tôi rất nóng lòng.”
“Hãy đọc tám mươi trang đầu cho tuần sau. Anh sẽ tìm thấy vài câu hỏi thi thử mà anh cần phải trả lời.”
“Ý ông là bài tập về nhà?”
“Chính xác. Tôi sẽ chấm điểm nó vào tuần sau. Điều rất quan trọng là tập dợt các câu hỏi đó hàng tuần.”
“Thế này thì có khi còn tệ hơn cả trường luật.”
“Nó quan trọng hơn ở trường luật rất nhiều. Chúng tôi rất coi trọng nó. Chúng tôi có cả một ủy ban để giám sát những tiến bộ của anh từ nay cho đến khi anh ngồi thi. Chúng tôi sẽ theo dõi rất sát sao.”
“Ai ở trong ủy ban vậy?”
“Bản thân tôi, Avery Tolar, Royce McKnight, Randall Dunbar và Kendall Mahan. Chúng tôi sẽ gặp nhau mỗi thứ Sáu để đánh giá tiến bộ của anh.”
Wally lôi ra một cuốn sổ tay khổ giấy viết thư, đặt nó lên bàn làm việc. “Đây là sổ theo dõi việc học tập của anh. Anh phải ghi lại những giờ anh bỏ ra để học thi và các chủ đề anh đã học. Tôi sẽ thu sổ mỗi sáng thứ Sáu, trước khi ủy ban nhóm họp. Có câu hỏi nào không?”
“Tôi chưa nghĩ ra câu nào cả,” Mitch nói khi đặt cuốn sổ tay lên trên tập hồ sơ Capps.
“Tốt. Hẹn gặp anh thứ Tư tới vào lúc ba giờ.”
Chưa đầy mười giây sau khi ông ta đi khỏi, Randall Dunbar bước vào, mang theo cuốn sổ tay dày cộp giống kỳ lạ cuốn sổ tay mà Wally vừa bỏ lại. Thật ra nó chỉ giống chứ không dày bằng. Dunbar là người đứng đầu về bất động sản và là người phụ trách việc tậu căn nhà của McDeere hồi tháng Năm. Ông ta trao cuốn sổ tay ghi nhãn “Luật bất động sản” cho Mitch rồi giải thích vì sao chuyên môn của ông là phần quan trọng nhất của cuộc thi. Mọi thứ đều về bất động sản, ông nói. Đích thân ông đã chuẩn bị kỹ các tài liệu trong suốt mười năm qua. Ông thú nhận mình thường xuyên nghĩ đến việc xuất bản chúng như một công trình tầm cỡ về quyền sở hữu tài sản và đầu tư đất đai. Ông cần ít nhất một giờ mỗi tuần, tốt nhất là vào chiều thứ Ba. Ông nói suốt một tiếng đồng hồ về việc kỳ thi này đã đổi khác như thế nào trong ba mươi năm qua, lúc ông trải nghiệm nó.
Kendall Mahan bổ sung thêm một cuộc hẹn. Ông muốn gặp mặt vào các sáng thứ Bảy. Lúc nào sơm sớm ấy, bảy giờ ba mươi chẳng hạn.
“Không có vấn đề gì,” Mitch nói trong khi cầm cuốn sổ tay và đặt xuống bên cạnh những cuốn sổ tay khác. Cuốn này là về luật hiến pháp, bộ luật yêu thích của Kendall mặc dù ông hiếm khi sử dụng nó, ông nói vậy. Đó từng là phần quan trọng nhất của kỳ thi, hay ít ra từng là như thế cách đây năm năm. Ông từng viết một bài báo về các quyền trong tu chính án thứ nhất đăng trên tờ tạp chí Columbia Law Review trong những năm tháng trẻ tuổi mà ông theo học ở đó. Một bản sao của bài báo này có kẹp trong cuốn sổ phòng khi Mitch muốn đọc nó. Hầu như ngay tức thì, anh hứa sẽ làm vậy.
Đám rước cứ thế tiếp tục suốt buổi chiều cho đến khi một nửa số người trong hãng tạt qua với những cuốn sổ tay. Họ cho bài tập về nhà và yêu cầu gặp mặt hàng tuần. Không ít hơn sáu người đã nhắc nhở anh rằng chưa từng có thành viên của hãng bị trượt cuộc thi lấy chứng chỉ luật sư. Khi bà thư ký của Mitch nói lời tạm biệt vào lúc năm giờ, chiếc bàn làm việc nhỏ đã chồng chất các tài liệu ôn tập, đủ để làm ngập một hãng nhỏ cỡ mười người. Ý nghĩ về ăn uống thoáng qua đầu anh một tiếng sau đó và, lần đầu tiên sau mười hai giờ, anh nghĩ đến Abby. Anh gọi cho cô.
“Một lúc nữa anh mới về,” anh nói.
“Nhưng em đang nấu bữa tối.”
“Cứ để nó trên lò đi,” anh nói có phần cộc cằn. Một khoảnh khắc im lặng.
“Khi nào thì anh về?” cô hỏi, dằn từng tiếng.
“Vài giờ nữa.”
“Vài giờ? Anh đã ở đó hết nửa ngày rồi còn gì.”
“Đúng, nhưng anh còn rất nhiều việc phải làm.”
“Nhưng đây mới chỉ là ngày đầu tiên của anh thôi mà.”
“Nếu anh nói ra em sẽ không tin nổi đâu.”
“Anh có ổn không đấy?”
“Anh ổn. Anh sẽ về sau nhé.”
Tiếng động cơ khởi động đánh thức Dutch Hendrix và ông bật dậy. Cánh cổng mở ra và ông đứng chờ cạnh đó trong khi chiếc xe rời bãi đậu. Nó dừng lại gần ông.
“Chào ông, Dutch,” Mitch nói.
“Giờ này anh mới về à?”
“Vâng, một ngày bận rộn.”
Dutch rọi đèn vào cổ tay để xem giờ. Mười một giờ rưỡi.
“Ghê thật, bảo trọng nhé,” Dutch nói.
“Vâng. Hẹn gặp lại ông trong vài giờ nữa.”
Chiếc BMW rẽ sang đường Street rồi phóng đi trong đêm. Trong vài giờ nữa, Dutch nghĩ. Các cu cậu tân binh này gớm thật đấy. Mười tám, hai mươi giờ mỗi ngày, sáu ngày mỗi tuần, đôi khi cả bảy ngày. Tất cả bọn họ đều lên kế hoạch để trở thành những luật sư tài giỏi nhất thế giới, kiếm được hàng triệu đô la chỉ trong một sớm một chiều. Đôi khi họ làm việc thâu đêm, ngủ ngay trên bàn làm việc. Ông đã thấy cả. Nhưng họ không thể trụ được lâu. Cơ thể con người không quen với sự lạm dụng kiểu đó. Sau khoảng sáu tháng họ sẽ xì hơi. Họ sẽ cắt giảm còn mười lăm giờ mỗi ngày, sáu ngày mỗi tuần. Rồi đến năm ngày rưỡi. Rồi đến mười hai giờ mỗi ngày. Không ai có thể làm việc một trăm giờ mỗi tuần trong liên tiếp sáu tháng.