← Quay lại trang sách

Chương 7

Một thư ký đang sục sạo tủ hồ sơ để tìm kiếm thứ gì đó mà Avery đang cần ngay tức khắc. Một thư ký khác đứng trước bàn làm việc của ông với cuốn sổ tốc ký, thi thoảng viết vào đó những chỉ thị mà ông ban ra mỗi khi dừng la hét vào điện thoại và lắng nghe ai đó ở đầu dây bên kia. Ba chiếc đèn đỏ đang nhấp nháy trên điện thoại. Khi ông nói vào điện thoại thì các thư ký cũng gắt gỏng nói với nhau. Mitch chậm rãi bước vào văn phòng rồi ra đứng cạnh cửa. “Im lặng!” Avery quát các thư ký.

Bà thư ký bên tủ hồ sơ đóng sập ngăn kéo lại rồi đi đến một tủ hồ sơ khác, nơi bà khom xuống, rút chiếc ngăn kéo ở đáy. Avery búng ngón tay với bà kia rồi trỏ vào tấm lịch để bàn của ông. Ông cúp máy mà không nói lời tạm biệt.

“Lịch trình của tôi hôm nay là gì?” ông hỏi trong khi rút ra một hồ sơ từ chiếc tủ búp-phê.

“Mười giờ sáng gặp IRS ở khu thương mại. Một giờ chiều gặp Nathan Locke để bàn về hồ sơ Spinosa. Ba giờ rưỡi, họp đối tác. Ngày mai ông sẽ ở tòa thuế vụ suốt cả ngày, và ông sẽ phải chuẩn bị suốt cả ngày hôm nay.”

“Tuyệt lắm. Hủy toàn bộ. Kiểm tra các chuyến bay từ Houston chiều thứ Bảy và các chuyến bay trở về vào thứ Hai, sáng sớm thứ Hai.”

“Vâng, thưa ông.”

“Mitch! Hồ sơ Capps đâu?”

“Trên bàn của tôi.”

“Anh làm đến đâu rồi?”

“Tôi đã đọc gần xong.”

“Phải tăng tốc lên mới được. Cú điện thoại đó là của Sonny Capps đấy. Ông ta muốn họp sáng thứ Bảy tại Houston, và ông ta muốn có bản sơ thảo thỏa thuận đối tác hữu hạn.”

Mitch cảm thấy một cú nhói từ cái bao tử rỗng của anh. Nếu anh nhớ không lầm thì bản thỏa thuận này dài đến khoảng bốn mươi trang.

“Chỉ là sơ thảo thôi,” Avery nói trong khi trỏ vào một thư ký.

“Không có vấn đề gì.” Mitch nói với tất cả vẻ tự tin mà anh có thể góp nhặt được.

“Tôi cần nó vào trưa thứ Bảy, hoàn thiện nhất có thể. Tôi sẽ cử một thư ký của tôi đến để chỉ cho Nina mẫu thỏa thuận nằm ở đâu trong ngân hàng ký ức. Việc đó sẽ tiết kiệm được công đọc và đánh máy. Tôi biết như vậy là không công bằng cho anh, nhưng với Sonny Capps thì chẳng có gì là công bằng cả. Ông ta rất đòi hỏi. Ông ta bảo thỏa thuận phải được gút trong vòng hai mươi ngày, nếu không thì coi như nó đã chết. Mọi việc đều đang trông chờ vào chúng ta.”

“Tôi sẽ làm xong.”

“Tốt. Ta gặp nhau vào lúc tám giờ sáng để xem chúng ta đang ở đâu nhé.”

Avery bấm vào các nút đèn sáng rồi bắt đầu tranh cãi trên điện thoại. Mitch bước về lại văn phòng của anh và nhìn tập hồ sơ Capps bên dưới mười lăm cuốn sổ tay. Nina thò đầu qua cửa.

“Oliver Lambert muốn gặp ông.”

“Khi nào?” Mitch hỏi.

“Càng sớm càng tốt.”

Mitch nhìn đồng hồ đeo tay. Mới ba giờ ở văn phòng mà anh đã cảm thấy như cả ngày.

“Có chờ được không?”

“Tôi không nghĩ vậy. Ông Lambert không quen chờ đợi ai.”

“Tôi hiểu.”

“Tốt hơn cả là ông nên đi gặp.”

“Ông ta muốn gì?”

“Thư ký của ông ta không nói.”

Anh khoác áo vest, chỉnh lại cà vạt rồi bước nhanh lên tầng bốn, nơi thư ký của ông Lambert đang chờ sẵn. Bà ta tự giới thiệu và cho anh biết bà ta đã làm việc ở hãng được ba mươi mốt năm. Thật ra bà là thư ký thứ hai của ông Anthony Bendini sau khi ông chuyển về Memphis. Ida Renfroe là tên của bà, nhưng mọi người đều gọi bà là Cô Ida. Bà đưa anh vào văn phòng lớn rồi khép cửa lại.

Oliver Lambert đứng sau bàn làm việc của ông. Ông tháo cặp kính lão, cười ấm áp, rồi gác ống điếu lên chiếc gạt tàn bằng đồng thau. “Chào Mitch,” ông nhẹ nhàng nói như thể thời gian chẳng là cái nghĩa lý gì cả. “Ta ra ngồi đằng kia đi,” ông khoát tay về phía trường kỷ.

“Cà phê nhé?” ông hỏi.

“Không, cảm ơn ông.”

Mitch ngồi ngập sâu vào trường kỷ trong khi vị đối tác ngồi trên chiếc ghế xoay ở cách anh sáu tấc và phía trên anh chín tấc. Mitch tháo nút áo vest và cố thư giãn. Anh bắt chéo chân, nhìn đôi giày Colehaans mới của ông. Hai trăm đô. Nó bằng một giờ làm việc của một cộng sự tại cái xưởng in tiền này. Anh cố thư giãn. Nhưng anh có thể cảm nhận sự hoảng hốt trong giọng nói của Avery và đã nhìn thấy nỗi tuyệt vọng của ông khi ông nhấc điện thoại và nghe cái lão Capps ấy nói ở đầu dây bên kia. Mới ngày làm việc bận rộn thứ hai mà đầu anh đã nhức nhối và bao tử anh đau quặn.

Ông Lambert nhìn xuống, nhoẻn cái nụ cười chân thành và từ bi bậc nhất của ông. Đã đến lúc lên lớp điều gì đó. Ông mặc chiếc áo trắng gài cổ sáng bóng bằng vải cotton nguyên chất, đeo chiếc nơ lụa nhỏ sẫm mầu tạo cho ông cái vẻ cực kỳ thông minh và khôn khéo. Như muôn thuở, làn da ông rám nắng trong cái nóng giữa hè của Memphis. Răng của ông lấp lánh như kim cương. Một người mẫu ở tuổi sáu mươi.

“Chỉ vài điều thôi, Mitch,” ông nói. “Tôi hiểu anh đã trở nên rất bận rộn.”

“Vâng, rất bận đấy ạ.”

“Hoảng loạn là một lối sống tại các hãng luật lớn, và các thân chủ như Sonny Capps có thể gây ra những ung nhọt. Thân chủ của chúng ta là tài sản duy nhất của chúng ta, cho nên chúng ta cứ phải tự sát vì họ.”

Mitch mỉm cười và đồng thời chau mày.

“Có hai điều, Mitch ạ. Thứ nhất, vợ chồng tôi muốn mời anh và Abby đến dùng bữa tối cùng chúng tôi vào thứ Bảy. Chúng tôi thường xuyên ăn ngoài, và chúng tôi thích có bạn bè theo cùng. Bản thân tôi cách chi đó cũng là một đầu bếp, và tôi thích đồ ăn thức uống ngon. Chúng tôi thường đặt trước một bàn lớn tại một trong các nhà hàng yêu thích trong thành phố, mời bạn bè đến để tiêu khiển buổi tối với những bữa ăn chín món và những chai rượu hiếm nhất. Anh và Abby có rảnh vào thứ Bảy không vậy?”

“Chắc chắn có.”

“Kendall Mahan, Wally Hudson, Lamar Quin và vợ của họ cũng sẽ ở đó.”

“Chúng tôi rất phấn khích.”

“Tốt. Địa điểm yêu thích của vợ chồng tôi tại Memphis là nhà hàng Justine’s. Đó là một nhà hàng xưa của Pháp với ẩm thực tuyệt vời và một danh mục rượu ấn tượng. Thứ Bảy lúc bảy giờ nhé?”

“Chúng tôi sẽ có mặt ở đó.”

“Thứ đến, chúng ta có một chuyện cần bàn. Tôi tin chắc anh đã biết, nhưng cũng đáng để nhắc lại. Nó rất quan trọng đối với chúng ta. Tôi biết anh đã được dạy ở Harvard về mối quan hệ mật thiết giữa anh, với tư cách luật sư, và thân chủ của anh. Đó là một mối quan hệ ưu tiên, và anh không bao giờ bị ép buộc phải tiết lộ bất cứ điều gì mà thân chủ nói với anh. Nó là tuyệt mật. Sẽ là vi phạm đạo đức nếu chúng ta đi kể về công việc của thân chủ. Nay thì điều đó đã được áp dụng cho mọi luật sư, nhưng ở hãng này chúng ta rất xem trọng mối quan hệ nghề nghiệp đó. Chúng ta không thảo luận về công việc của thân chủ với bất cứ ai. Kể cả với các luật sư khác. Kể cả với vợ. Đôi khi cả với nhau nữa. Như một điều luật, chúng ta không nói gì tại nhà, và các bà vợ của chúng ta cũng phải học được cách không hỏi han. Anh càng nói ít thì càng tốt cho anh. Ông Bendini là người rất coi trọng việc giữ bí mật, và ông ta đã dạy dỗ chúng tôi rất tốt. Ở bên ngoài tòa nhà này, anh sẽ không bao giờ nghe thấy một thành viên nào của hãng nhắc đến điều gì đó nhiều hơn là cái tên của thân chủ. Chúng ta nghiêm túc như thế đấy.”

Ông ta muốn dẫn câu chuyện này đi đâu? Mitch tự hỏi. Bất kỳ sinh viên luật năm thứ hai nào cũng nói được như thế. “Tôi hiểu điều đó, thưa ông Lambert, và ông không cần phải lo lắng về tôi đâu.”

“Cái lưỡi mà thả rông thì xổng mất án. Đó là phương châm của ông Bendini, và ông ta áp dụng điều đó cho tất cả mọi việc. Chúng ta đơn giản không thảo luận công việc của thân chủ với bất kỳ ai, bao gồm cả các bà vợ của chúng ta. Chúng ta rất im ắng, rất bí mật, và chúng ta thích như thế. Anh sẽ gặp các luật sư khác quanh thành phố, và sớm hay muộn họ cũng sẽ hỏi anh điều gì đó về hãng của chúng ta hay thân chủ của chúng ta. Chúng ta không nói năng gì cả, anh hiểu chưa?”

“Dĩ nhiên, ông Lambert.”

“Tốt. Chúng tôi rất tự hào về anh, Mitch. Anh sẽ trở thành một luật sư lớn, một luật sư rất giàu có. Hẹn gặp anh vào thứ Bảy nhé!”

Cô Ida có một lời nhắn dành cho Mitch. Ông Tolar cần gặp anh ngay tức thì. Anh cảm ơn bà rồi phóng xuống cầu thang, đi vào hành lang, băng qua văn phòng của anh, ra đến cái văn phòng lớn ở góc. Lúc này đã có đến ba thư ký đang đào bới và thủ thỉ với nhau trong khi sếp của họ la hét vào điện thoại. Mitch tìm được chốn an toàn trên chiếc ghế gần cửa. Anh ngồi xuống xem gánh xiếc. Các thư ký rút những hồ sơ và sổ tay ra, làu bàu với nhau bằng một thứ ngôn ngữ lạ. Thi thoảng Avery lại búng ngón tay, chỉ chỗ này chỗ nọ, và họ lại nhảy xổ đến như những con thỏ hốt hoảng.

Sau vài phút, ông sập điện thoại, một lần nữa không nói lời từ biệt. Ông nhìn Mitch.

“Lại là Sonny Capps. Bọn Trung đòi bảy mươi lăm triệu, và ông ta đã đồng ý. Sẽ có bốn mươi mốt đối tác hữu hạn thay vì hai mươi lăm. Chúng ta có hai mươi ngày, không xong thì coi như dứt thỏa thuận.”

Một trong các thư ký bước đến chỗ Mitch, trao cho anh những tập hồ sơ dày cộm.

“Anh xử lý được không đấy?” Avery hỏi, hầu như bằng một giọng nhạo báng.

Các thư ký nhìn anh. Mitch cầm lấy các hồ sơ rồi bước thẳng ra cửa.

“Dĩ nhiên tôi xử lý được. Chỉ có vậy thôi sao?”

“Vậy là đủ rồi. Từ đây đến thứ Bảy tôi không muốn anh làm bất cứ việc gì ngoài cái hồ sơ đó ra, hiểu chưa?”

“Vâng, thưa sếp.”

Ở văn phòng của mình, anh di dời những tài liệu ôn tập về pháp luật, toàn bộ mười lăm cuốn sổ tay, rồi chất chúng thành đống tại một góc phòng. Hồ sơ Capps được dàn ra ngay ngắn trên bàn làm việc. Anh hít một hơi sâu rồi bắt đầu đọc. Có tiếng gõ cửa.

“Ai đó?”

Nina ló đầu vào. “Tôi ghét phải nói với ông điều này, nhưng bàn ghế mới đã được đưa đến rồi.”

Anh chà xát thái dương và làu bàu không thành tiếng.

“Có lẽ bà phải làm việc ở thư viện trong vài giờ.”

“Có lẽ vậy.”

Họ thu gom hồ sơ Capps rồi bưng mười lăm cuốn sổ tay ra hành lang, nơi hai người đàn ông da đen to lớn đang chờ sẵn với một dãy thùng các tông cồng kềnh và một tấm thảm phương đông.

Nina đi theo anh đến thư viện ở tầng hai.

“Tôi dự kiến gặp Lamar Quin vào lúc hai giờ để ôn thi lấy chứng chỉ. Bây giờ thì hãy gọi cho ông ta và hủy nó đi. Bảo ông ta tôi sẽ giải thích sau.”

“Ông còn có cuộc hẹn cũng vào lúc hai giờ với Gill Vaughn,” bà nói.

“Hủy luôn.”

“Ông ta là đối tác đấy.”

“Hủy nó đi. Tôi sẽ gặp ông ta sau.”

“Vậy là không khôn ngoan lắm đâu.”

“Cứ làm theo tôi nói.”

“Vâng, ông là sếp mà.”

“Cảm ơn bà.”

Người dán giấy tường là một bà thấp bé và vạm vỡ. Với tay nghề tiến bộ qua năm tháng, bà đã quen với công việc nặng nhọc và đã được huấn luyện rất tốt. Bà trình bày với Abby rằng, trong gần bốn mươi năm qua, bà đã dán nhiều tấm giấy tường mắc tiền trong những ngôi nhà đẹp nhất ở Memphis. Bà nói không dứt lời, nhưng không hề lãng phí thao tác nào. Bà cắt giấy chuẩn xác như một nhà phẫu thuật, rồi trát keo như một nghệ sĩ. Trong khi chờ keo khô, bà rút chiếc thước dây từ chiếc đai da gắn đồ nghề và tính toán góc còn lại của phòng ăn. Bà lẩm nhẩm những con số mà Abby không tài nào giải mã được. Bà đo chiều dài và chiều cao ở bốn nơi khác nhau rồi nhét tất cả vào bộ nhớ. Bà leo lên thang xếp và nhờ Abby chuyền cho bà một cuộn giấy. Nó khớp một cách hoàn hảo. Bà áp chặt vào tường và bình luận dễ đến lần thứ một trăm về việc nó trông đẹp như thế nào, mắc tiền đến cỡ nào, trông ổn trong bao lâu và bao lâu thì hết hạn. Bà cũng thích cả màu sắc nữa. Nó được phối rất tốt với các tấm rèm cửa và tấm mành thả. Abby từ lâu đã mệt mỏi với việc nói cảm ơn. Cô gật đầu rồi nhìn đồng hồ. Đã đến giờ để bắt đầu bữa tối.

Khi xong bức tường, Abby tuyên bố đã đến giờ bà ra về và dặn bà trở lại vào lúc chín giờ sáng hôm sau. Bà nói chắc chắn sẽ quay lại rồi bắt đầu thu dọn những thứ bầy hầy của mình. Bà được trả hai mươi đô la mỗi giờ, tiền mặt hẳn hoi, và cảm thấy mọi thứ đều dễ chịu. Abby ngắm các căn phòng. Chúng sẽ được hoàn chỉnh vào ngày mai, và việc dán giấy tường cũng sẽ hoàn tất, ngoại trừ trong hai phòng tắm và phòng kho. Việc sơn phết được lên lịch từ đầu tuần sau. Mùi keo của giấy dán cùng mùi sơn trên bề mặt lò sưởi và mùi bàn ghế mới hợp thành một mùi hương mát dịu tuyệt vời. Cứ như trong một ngôi nhà xây mới vậy.

Abby chào tạm biệt bà dán tường rồi đi vào phòng ngủ, nơi cô cởi đồ rồi nằm dài lên giường. Cô gọi điện cho chồng, nói vài lời với Nina và được cho biết anh đang bận họp và cuộc họp sẽ còn kéo dài một lúc nữa. Nina nói anh sẽ gọi lại. Abby duỗi cặp đùi dài đau nhức và xoa nắn đôi vai. Chiếc quạt trần chầm chậm quay phía trên cô. Mitch rồi cùng sẽ về. Anh ấy sẽ phải làm việc một trăm giờ mỗi tuần trong một khoảng thời gian, nhưng rồi sẽ cắt xuống còn tám mươi. Cô có thể chờ được.

Cô thức dậy một giờ sau đó và bật dậy khỏi giường. Đã gần sáu giờ. Veal piccata - Thịt bê sò điệp. Cô xỏ chiếc quần lửng đi bộ bằng vải kaki rồi mặc chiếc áo polo trắng. Cô chạy vào bếp, nơi đã được hoàn thành xong ngoại trừ chút sơn phết và các tấm rèm dự tính sẽ mắc trong tuần sau. Cô tìm được công thức trong cuốn sách hướng dẫn nấu các món mì, rồi sắp xếp ngăn nắp các hũ gia vị lên một chiếc giá đựng. Ở trường luật cô rất ít ăn thịt đỏ, thi thoảng mới là một ổ hamburger. Khi cô nấu nướng thì chỉ toàn món gà này, gà nọ. Rất nhiều sandwich và hot dog.

Nhưng nay, với sự phong lưu đột ngột, đã đến lúc cô phải học làm bếp. Trong tuần lễ đầu tiên, mỗi bữa tối cô đều nấu một món mới, và họ ăn khi anh trở về nhà. Cô lên kế hoạch cho từng bữa ăn, học theo sách dạy làm bếp, thử các loại nước chấm. Chẳng rõ vì lý do nào Mitch lại thích các món ăn của Ý, và với các món mì spaghetti và cappellini đã được nấu thử và hoàn thiện, đã đến lúc để thử nghiệm món veal piccata. Cô giã sò điệp trộn thịt bê bằng chiếc về cho đến khi nó đủ mỏng. Rồi cô bỏ nó vào bột mì, nêm với muối và tiêu. Cô đặt một chảo nước lên bếp để nấu mì linguine. Cô rót ra một ly vang Chablis rồi bật radio lên. Cô đã hai lần gọi đến văn phòng vào bữa trưa, và anh đã không tìm được thời gian để gọi lại. Cô đã nghĩ đến việc gọi thêm một lần nữa, nhưng rồi thôi. Giờ là đến phiên anh. Bữa tối phải cố định, và hai vợ chồng sẽ ăn khi nào anh về nhà.

Thịt bê sò điệp được nấu áp chảo trong dầu nóng khoảng ba phút cho đến khi mềm hẳn thì lấy ra. Cô rót dầu vào chảo rồi thêm rượu và nước chanh, đợi cho nó sôi lên. Cô nạo và đảo chiếc chảo để món sốt cô đặc lại. Cô trả thịt bê vào chảo rồi bỏ thêm nấm, atiso và bơ. Cô đậy chảo lại rồi vặn nhỏ lửa.

Cô nướng thịt xông khói, xắt lát cà chua, nấu mì lingune rồi rót một ly rượu nữa. Đến bảy giờ, bữa tối đã sẵn sàng: thịt xông khói và salad cà chua với mì ống tubettini, thịt bê sò điệp, và bánh mì tỏi trong lò. Anh vẫn không gọi về. Cô mang ly rượu ra hiên và nhìn quanh sân sau. Hearsay chạy ra từ các bụi cây. Cô và nó cùng dạo bước dọc chiều dài của sân, dòm chừng một chiếc Bermuda, và dừng lại dưới hai cây sồi lớn. Những tàn tích của ngôi nhà cây từ lâu bỏ hoang nằm tản mác giữa các cành cao của cây sồi. Nhiều cái tên người được khắc trên thân của nó. Một mẩu dây treo lơ lửng ở ngọn cây bên kia. Cô tìm thấy một trái banh cao su, vứt nó ra xa và nhìn con chó rượt theo. Cô ngóng chuông điện thoại vọng ra từ cửa sổ nhà bếp. Nó không reo.

Hearsay sững lại và gầm gừ với thứ gì đó ở nhà bên. Ông Rice xuất hiện từ hàng dậu hình hộp tỉa tót hoàn hảo ở quanh hiên nhà ông. Mồ hôi nhỏ xuống từ mũi ông và chiếc áo lót cotton của ông ướt sũng. Ông tháo đôi găng tay màu lục và nhận ra Abby ở bên kia hàng rào lưới, dưới ngọn cây phía bên nhà của cô. Ông mỉm cười. Ông nhìn cặp đùi bánh mật của cô rồi lại mỉm cười. Ông quệt trán bằng cánh tay đẫm mồ hôi rồi bước đến hàng rào.

“Cô khỏe không?” ông thở dốc khi hỏi. Mái tóc dày và bạc của ông nhỏ giọt và ép sát vào da đầu.

“Khỏe, thưa ông Rice. Ông thì sao ạ?”

“Nóng. Chắc phải đến ba mươi tám độ quá.”

Abby bước chầm chậm đến hàng rào để trò chuyện. Từ một tuần nay cô đã bắt được cái nhìn của ông, nhưng chẳng để tâm. Ông ít nhất đã bảy mươi tuổi và có lẽ là vô hại. Cứ để ông ta nhìn. Hơn nữa, ông ta là một người đang sống, đang thở, đang vã mồ hôi, một người có thể trao đổi và duy trì cuộc trò chuyện ở một mức độ nhất định. Bà dán giấy là nguồn đối thoại duy nhất của cô kể từ lúc Mitch rời khỏi nhà trước bình minh.

“Thảm cỏ nhà ông trông tuyệt nhỉ,” cô nói. Ông chùi trán lần nữa rồi nhổ nước bọt xuống đất.

“Tuyệt? Cô chỉ gọi nó là tuyệt thôi sao? Nó đáng để được lên tạp chí đấy. Tôi chưa từng thấy thảm cỏ sân golf nào đẹp đến thế. Tôi xứng đáng được là người làm vườn trong tháng, nhưng họ không trao cái giải ấy cho tôi. Chồng cô đâu rồi?”

“Ở văn phòng. Anh ấy làm việc muộn.”

“Gần tám giờ rồi còn gì. Sáng nay, hình như anh ấy đi làm trước cả khi mặt trời mọc. Tôi đi bộ vào lúc sáu giờ rưỡi mà đã thấy anh ấy đi mất rồi. Anh ấy bị sao vậy?”

“Anh ấy thích làm việc.”

“Tôi mà có người vợ như cô thì tôi sẽ ở nhà. Không ai bắt tôi đi được đâu.”

Abby mỉm cười trước lời khen. “Bà Rice có khỏe không ạ?”

Ông chau mày rồi giật mạnh một cành cỏ dại trên hàng rào. “Không khỏe lắm, tôi e vậy. Không khỏe lắm.” Ông cắn môi, nhìn lảng đi. Bà Rice sắp chết vì ung thư. Họ không có con cái. Bà ta chỉ còn sống nhiều lắm một năm nữa. Họ đã cắt gần hết bao tử của bà ta và các khối u nay đã vào trong phổi. Bà cân nặng chỉ khoảng bốn mươi ký và hiếm khi nào rời khỏi giường. Trong chuyến viếng thăm đầu tiên của họ qua bên kia hàng rào, đôi mắt ông đã ngấn lệ khi kể về bà, về việc ông sẽ cô đơn như thế nào sau năm mươi mốt năm chung sống.

“Không đâu, họ sẽ không trao cho tôi giải thưởng người làm vườn trong tháng. Do ở không đúng chỗ trong thành phố ấy mà. Cái giải đó luôn rơi vào tay bọn nhà giàu vốn chỉ biết bỏ tiền ra thuê đám trai trẻ làm vườn rồi để phó mặc cho chúng lo hết cả mọi việc trong khi ngồi bên hồ bơi nhấp món daiquiri. Nó trông đẹp, đúng không?”

“Trông rất tuyệt. Mỗi tuần ông xén bao nhiêu lần vậy?”

“Ba hay bốn lần. Còn tùy theo mưa nữa. Cô có muốn tôi xén giùm bên cô không?”

“Không. Tôi muốn Mitch xén cơ.”

“Anh ấy không có thời gian, hình như thế. Cứ để tôi theo dõi. Nếu nó cần chút tỉa tót thì tôi sẽ tạt qua.”

Abby quay đầu lại, nhìn vào cửa sổ bếp.

“Ông có nghe thấy tiếng điện thoại reo không?” cô hỏi khi cất bước. Ông Rice trỏ vào chiếc máy trợ thính của ông. Cô nói lời tạm biệt rồi chạy nhanh vào nhà. Điện thoại ngừng reo đúng lúc cô nhấc máy. Lúc này đã là tám giờ rưỡi, bầu trời hầu như đã tối đen. Cô gọi lại văn phòng nhưng không ai trả lời. Có lẽ anh ấy đang lái xe về nhà.

Một giờ trước nửa đêm, điện thoại reo. Ngoại trừ tiếng reo đó và tiếng ngáy nhè nhẹ, văn phòng ở tầng hai im phăng phắc. Hai chân của anh gác lên bàn làm việc, bắt chéo ở cổ chân và tê dại do thiếu lưu thông máu. Phần còn lại của cơ thể thoải mái nằm rũ trên chiếc ghế dày bọc da. Anh đổ về một bên, cứ từng đợt lại phát ra những tiếng mớ trong khi say ngủ. Hồ sơ Capps nằm tản mác trên bàn và một tập tài liệu trông kinh khủng được anh ôm chặt trên bụng. Giày của anh ở dưới sàn nhà, gần bàn làm việc, gần chồng tài liệu từ hồ sơ Capps. Một bịch khoai tây chiên rỗng nằm giữa hai chiếc giày.

Sau một chục tiếng reo, anh chộp lấy điện thoại. Đó là vợ anh. “Sao anh không gọi về?” cô lạnh lùng hỏi, dù giọng nói vẫn phảng phất sự quan tâm.

“Xin lỗi. Anh ngủ quên. Mấy giờ rồi?” anh dụi mắt, tập trung nhìn đồng hồ.

“Mười một. Em chỉ mong anh gọi.”

“Anh có gọi đấy chứ, nhưng không ai nhấc máy.”

“Hồi nào?”

“Vào khoảng tám đến chín giờ. Em ở đâu lúc đó?”

Cô không trả lời. Cô chờ đợi. “Anh sắp về à?”

“Không. Anh phải làm việc thâu đêm.”

“Thâu đêm? Anh không thể làm việc thâu đêm được, Mitch.”

“Dĩ nhiên anh có thể làm việc thâu đêm. Ở đây đó là chuyện bình thường mà. Điều đó được kỳ vọng.”

“Em thì kỳ vọng anh về, Mitch ạ. Và điều tối thiểu anh có thể làm là gọi điện về nhà. Bữa tối vẫn đang nằm trên bếp đấy.”

“Anh xin lỗi. Anh đang bị ngập đầu bởi các thời hạn chót và đã mất cảm giác về thời gian. Anh xin lỗi em nhé.”

Một khoảnh khắc im lặng diễn ra khi cô cân nhắc lời xin lỗi.

“Điều đó có trở thành thông lệ không vậy, Mitch?”

“Có thể.”

“Biết ngay mà. Anh nghĩ bao giờ thì anh mới về đến nhà?”

“Em sợ à?”

“Không, em không sợ. Em sắp sửa đi ngủ.”

“Anh sẽ tạt về vào khoảng bảy giờ sáng để tắm rửa.”

“Được thôi. Nếu em ngủ thì đừng có đánh thức em dậy đấy nhé.”

Cô gác máy. Anh nhìn chiếc điện thoại rồi đặt nó về chỗ cũ. Ở tầng năm, một nhân viên an ninh cười khùng khục một mình. “Đừng đánh thức em dậy. Dễ thương ghê ta ơi,” ông ta nói khi nhấn nút bộ ghi âm điều khiển bằng máy tính. Ông nhấn ba nút rồi nói vào một chiếc micro nhỏ. “Này, Dutch, dưới đó dậy đi chứ.”

Dutch tỉnh dậy, khom xuống chiếc nội đàm. “Nghe đây, có chuyện gì vậy?”

“Marcus ở tầng trên đây, tôi nghĩ cu cậu của chúng ta sẽ ở lại thâu đêm.”

“Cu ta có vấn đề gì vậy?”

“Hiện thời thì đó là cô vợ. Cu cậu quên gọi cho cô ta mà cô ta thì đã sửa một bữa tối ra trò.”

“Ối trời, quá sức tệ. Chúng ta đã từng nghe chuyện này, đúng không?”

“Đúng vậy, đám tân bình vẫn thường hay làm vậy trong tuần đầu tiên. Nôm na là cu cậu bảo vợ sẽ không về cho đến tận sáng. Cho nên cứ ngủ lại đi nhé.”

Marcus nhấn vài chiếc nút rồi trở lại với cuốn tạp chí của ông ta.

Khi mặt trời nhô lên giữa các ngọn sồi, Abby vẫn đang chờ đợi. Cô nhấp cà phê, dắt chó ra ngoài rồi lắng nghe những thanh âm yên ả của khu phố đang bừng bừng trỗi dậy. Giấc ngủ của cô chập chờn. Tắm nước nóng không xoa dịu được cơn mệt. Cô khoác vào chiếc áo choàng tắm bằng vải bông, một trong những chiếc áo choàng tắm của anh, và không mặc thêm gì khác. Tóc cô ướt và xõa ra sau gáy.

Cánh cửa xe sập lại và con chó đứng vểnh mõm, hướng vào nhà. Cô nghe tiếng anh mở khóa cửa bếp, và một lát sau cánh cửa lùa hướng ra hiện cũng được mở. Anh đặt áo khoác lên băng ghế cạnh cửa rồi bước đến chỗ cô ngồi.

“Chào em,” anh nói rồi ngồi xuống phía bên kia chiếc bàn liễu gai. Cô trao cho anh một nụ cười giả tạo.

“Chào anh.”

“Em dậy sớm nhỉ,” anh nói, cố tỏ ra thân mật. Không có tác dụng. Cô lại mỉm cười và nhấp cà phê. Anh hít một hơi sâu rồi đảo mắt nhìn quanh sân. “Còn giận chuyện tối qua hả, anh biết mà.”

“Không hẳn. Em không có thù dai.”

“Đã nói anh xin lỗi rồi mà, thật đó. Anh đã gọi về một lần.”

“Anh có thể gọi lần nữa.”

“Làm ơn đừng ly dị anh, Abby. Anh thề chuyện đó sẽ không tái diễn nữa đâu. Xin em đừng bỏ anh.”

Cô cố rặn một nụ cười đích thực. “Trông anh tệ quá,” cô nói.

“Dưới áo choàng có gì?”

“Chẳng có gì cả.”

“Để xem coi nhé.”

“Sao anh không chợp mắt một chút đi. Trông anh phờ phạc quá.”

“Cảm ơn, nhưng anh có cuộc họp vào lúc chín giờ với Avery. Rồi đến cuộc họp với Avery vào lúc mười giờ.”

“Họ định giết anh trong tuần lễ đầu tiên hay sao vậy?”

“Phải, nhưng họ không thể giết anh được đâu. Anh là một người đàn ông quá kiên cường. Ta đi tắm nhé.”

“Em tắm rồi.”

“Tắm nude à?”

“Ừ.”

“Kể nghe chuyện đó đi. Kể thật chi tiết vào.”

“Nếu anh về nhà vào giờ giấc đàng hoàng thì anh sẽ không cảm thấy mình sa đọa như thế.”

“Anh chắc chắn điều đó sẽ còn tái diễn, em yêu ạ. Sẽ có đầy rẫy vụ thâu đêm. Em đâu có nhằn anh hồi ở trường luật, lúc anh học suốt cả ngày lẫn đêm.”

“Ở đây khác. Em chịu đựng được ở trường luật vì em biết nó sẽ sớm kết thúc. Nhưng giờ thì anh đã là luật sư rồi, và anh sẽ là luật sư về lâu dài. Điều đó có phải là bình thường không? Có phải anh sẽ luôn làm việc hàng ngàn giờ mỗi tuần không?”

“Abby, đây là tuần đầu tiên của anh mà.”

“Chính vì thế nên em mới lo. Mọi thứ chỉ có thể tồi tệ hơn mà thôi.”

“Chắc chắn như thế rồi. Đó là chuyện bình thường mà, Abby. Đây là một ngành kinh doanh khốc liệt nơi kẻ yếu bị ăn thịt còn kẻ mạnh thì phất lên. Đây là một cuộc đua marathon, ai bền bỉ thì đoạt huy chương vàng.”

“Rồi chết luôn ở vạch đến.”

“Anh không tin vậy đâu. Chúng ta mới dời đến đây một tuần trước mà chưa gì em đã lo cho sức khỏe của anh rồi.”

Cô nhấp cà phê và vuốt ve con chó. Cô thật đẹp. Với đôi mắt mệt mỏi, không trang điểm, và với mái tóc ướt, cô thật là xinh đẹp. Anh đứng dậy, bước ra sau cô và hôn lên má cô.

“Anh yêu em,” anh thì thầm.

Cô nắm chặt tay anh trên bờ vai. “Anh đi tắm đi. Em sẽ làm điểm tâm.”

Chiếc bàn được bày biện hoàn hảo. Các ấm tách bằng sứ của bà ngoại cô được lấy ra từ tủ chén đĩa và được sử dụng lần đầu tiên trong ngôi nhà mới. Nến được thắp trên những chiếc giá bằng bạc. Nước nho được rót vào các ly pha lê. Khăn ăn bằng vải lanh, tương hợp với khăn trải bàn, được gấp lại trên đĩa. Khi đã tắm xong và thay vào chiếc áo choàng Burberry kẻ ô, anh bước vào phòng ăn và huýt sáo.

“Dịp gì vậy?”

“Đó là bữa điểm tâm đặc biệt dành cho một người chồng đặc biệt.” Anh ngồi xuống, ngắm nghía các món đồ sứ. Thức ăn đang được hâm nóng trên một chiếc đĩa bạc đậy vung.

“Em nấu món gì đó?” anh hỏi sau khi liếm môi. Cô trỏ ngón tay và anh giở vung ra. Anh trố mắt nhìn.

“Là gì vậy?” anh hỏi mà không nhìn cô.

“Veal piccata.”

“Veal gì cơ?”

“Veal piccata.”

Anh liếc nhìn đồng hồ.

“Anh tưởng là điểm tâm mà?”

“Em đã nấu món đó cho bữa tối hôm qua và khuyến cáo anh nên ăn nó.”

“Veal piccata cho bữa điểm tâm?”

Cô nhoẻn cười, quả quyết gật đầu. Anh nhìn món ăn, và chỉ trong một vài giây đã phân tích được tình thế.

Cuối cùng, anh nói, “Thơm đấy nhỉ.”