Chương 15
Trưa thứ Sáu, hai tuần trước Giáng sinh, Abby tạm biệt các học sinh rồi rời trường St. Andrew's đi nghỉ lễ. Lúc một giờ, cô đậu xe ở một lô đầy những chiếc Volvo, BMW, Saab, và nhiều chiếc Peugeot. Trong mưa lạnh, cô hấp tấp bước đến một nhà kính đông đúc, nơi giới trẻ phong lưu tụ tập để ăn bánh quiche, dùng món fajita, canh đậu đen và các loại rau quả. Đây hiện là điểm nóng trong năm của Kay Quin, và cũng là bữa trưa thứ hai họ ăn cùng nhau trong tháng qua. Kay đến trễ, như thường lệ.
Đó là một tình bạn vẫn đang trong một quá trình phát triển ban đầu. Với bản chất thận trọng, Abby chưa bao giờ vội vã kết thân với người lạ. Ba năm ở Harvard, cô không có bạn bè, và cô đã học được rất nhiều về tính tự chủ. Trong sáu tháng ở Memphis, cô đã gặp gỡ ở nhà thờ một nhóm nhỏ những người có triển vọng kết thân. Ở trường, cô cũng gặp một người nữa, nhưng cô chuyển biến rất thận trọng.
Thoạt đầu, Kay Quin thúc ép rất dữ. Cô ta đã lập tức trở thành hướng dẫn viên du lịch, nhà tư vấn mua sắm, và thậm chí cả nhà trang trí nữa. Nhưng Abby chỉ nhích từ từ. Mỗi chuyến viếng thăm, cô học hỏi thêm chút ít, và cẩn thận quan sát người bạn mới của mình. Họ đã dùng bữa nhiều lần tại nhà của Quin. Họ gặp nhau trong các bữa tiệc tối và lễ lạc của hãng, nhưng luôn luôn giữa đám đông. Và họ đã vui vẻ cùng nhau tại bốn bữa trưa kéo dài trong những cuộc tụ tập nóng nhất của những nam thanh nữ tú tại Memphis, những người có sở hữu thẻ Master Card Vàng. Kay để ý đến xe hơi, nhà cửa và y phục, nhưng vờ như không quan tâm tất cả những thứ đó. Kay muốn là bạn, một người bạn thân, một người bạn tâm tình, nhưng Abby giữ khoảng cách, chỉ để Kay nhích tới từng chút một.
Mô hình nhái của chiếc hộp nhạc thập niên 1950 nằm ở tầng một, phía dưới bàn của Abby và gần quầy bar, nơi một đám đông đứng nhấp rượu trong khi chờ bàn trống. Sau mười phút và sau hai bản Roy Orbison, Kay len qua đám đông ở cửa trước rồi nhìn lên tầng ba. Abby mỉm cười, vẫy tay. Họ ôm nhau, hôn nhẹ lên má nhau để không trao đổi cả son môi.
“Xin lỗi, chị đến trễ,” Kay nói.
“Không sao, em quen rồi.”
“Nơi này chật chội nhỉ,” Kay nói, ngạc nhiên nhìn xung quanh. Nó vẫn luôn chật chội như thế. “Vậy là cô đã nghỉ dạy?”
“Vâng. Mới một giờ trước. Em được nghỉ đến ngày 6 tháng Một.”
Họ ngắm nghía trang phục của nhau, bình luận về việc họ thon thả và trẻ đẹp ra sao. Mua sắm dịp Giáng sinh lập tức trở thành chủ đề chính, và họ bắt đầu nói về các cửa hiệu, về những đợt hạ giá, về trẻ em... cho đến khi rượu được mang đến. Abby gọi món tôm càng chiên chảo, nhưng Kay thì vẫn trung thành với món bánh quiche bông cải xanh.
“Kế hoạch Giáng sinh của cô là gì?” Kay hỏi.
“Em chưa định gì cả. Em muốn đến Kentucky gặp gia đình em, nhưng em sợ Mitch không đi. Em đã thử bóng gió vài lần, nhưng lần nào cũng bị bỏ ngoài tai.”
“Chú ấy vẫn không ưa cha mẹ cô?”
“Chẳng có gì thay đổi cả. Thật ra chúng em không bàn luận về họ. Em không biết phải xử sự như thế nào nữa.”
“Nếu thật thận trọng cô sẽ hình dung ra thôi.”
“Vâng, và phải thật kiên nhẫn nữa. Mỗi ngày em đều cầu nguyện một phép lạ nho nhỏ.”
“Nghe như cô đang cần có một phép lạ lớn đấy. Chú ấy làm việc có nặng nề như Lamar nói không?”
“Em chưa từng biết có ai làm việc căng hơn anh ấy. Mười tám giờ mỗi ngày từ thứ Hai đến thứ Sáu, tám giờ vào thứ Bảy. Chủ nhật là ngày nghỉ mà anh ấy vẫn dành ra năm hay sáu giờ để làm việc. Thời gian anh ấy dành cho em vào Chủ nhật còn ít hơn thế.”
“Có phải tôi vừa nghe đôi chút thất vọng không đấy?”
“Rất nhiều nữa là khác, Kay ạ. Em đã kiên nhẫn, nhưng sự thể vẫn cứ tồi tệ đi. Em đã bắt đầu cảm thấy mình giống như một bà góa vậy. Em đã chán ngấy việc ngủ trên trường kỷ, chờ anh ấy về nhà.”
“Cô nằm đó để đợi ăn và tình dục à?”
“Giá mà được như thế. Anh ấy quá mệt mỏi để làm tình. Đó không còn là một ưu tiên nữa rồi. Thế mà anh ấy đã từng là một người đàn ông không biết thế nào là đủ. Ý em là chúng em đã gần như giết lẫn nhau hồi ở trường luật. Giờ thì mỗi tuần chỉ một lần đã là may lắm rồi. Anh ấy về nhà, ăn uống - nếu như có đủ sức để ăn uống - rồi lên giường ngủ. Em phải rất may mắn mới được anh ấy trò chuyện vài phút trước khi ngủ thiếp đi. Em thèm trò chuyện với người lớn, Kay ạ. Em đã dành cả tám giờ đồng hồ mỗi ngày bên những đứa bé tám tuổi, và em thèm khát những lời nhiều hơn ba âm tiết. Em đã cố giải thích điều đó với anh ấy, nhưng chưa gì anh ấy đã ngáy ran. Chị đã từng trải qua chuyện này với Lamar chưa?”
“Cũng đại khái như thế. Anh ấy làm việc bảy mươi giờ mỗi tuần trong năm đầu tiên. Tôi nghĩ tất cả bọn họ đều thế cả. Đó kiểu như là bước khởi đầu để xây dựng tình đoàn kết vậy. Một thứ nghi lễ của nam giới để họ chứng tỏ nam tính của mình. Nhưng hầu hết họ đều xì hơi sau một năm và cắt xuống chỉ còn sáu mươi lăm giờ. Họ vẫn làm việc vất vả đấy, nhưng không còn theo cái lối kamikaze của năm tân binh đầu tiên.”
“Lamar có làm việc mỗi thứ Bảy không?”
“Vài giờ trong hầu hết các thứ Bảy. Không bao giờ vào Chủ nhật. Tôi đã cứng rắn với anh ấy. Dĩ nhiên, nếu là một thời hạn chót quan trọng hay vào mùa thuế, tất cả bọn họ đều làm việc hai mươi bốn trên hai mươi bốn. Tôi nghĩ cũng khó mà trách Mitch.”
“Anh ấy chẳng chịu giảm tốc chút nào cả. Anh ấy cứ như bị ma nhập vậy. Đôi lúc anh ấy mãi đến tận bình minh mới về đến nhà, chỉ tắm táp qua loa rồi quay đầu về văn phòng.”
“Lamar nói chú ấy đã trở thành một huyền thoại trong hãng.” Abby nhấp rượu rồi nhìn thanh ray của quầy bar. “Hay thật đấy. Em đã kết hôn với một huyền thoại.”
“Cô có nghĩ đến chuyện sinh con không?”
“Chuyện đó đòi hỏi phải có tình dục, nhớ không?”
“Coi nào Abby, làm gì tệ đến mức đó.”
“Em chưa sẵn sàng để sinh con. Em không thể sắm vai một bà mẹ đơn thân. Em yêu chồng của em, nhưng biết đâu, vào thời điểm đó của cuộc đời, anh ấy lại có một cuộc họp quan trọng khủng khiếp nào đó và sẽ bỏ lại em một mình trong phòng sinh, khi tử cung đã mở ra tám phân. Anh ấy không còn nghĩ đến gì khác ngoại trừ cái hãng luật chết tiệt đó.”
Kay chồm qua bàn, nhẹ nhàng nắm hai bàn tay của Abby. “Sẽ ổn thôi,” cô nói với một nụ cười quả quyết và vẻ mặt khôn ngoan. “Năm đầu tiên là khó khăn nhất. Mọi việc sẽ tốt hơn lên, tôi hứa đấy.”
Abby mỉm cười. “Em xin lỗi.”
Người phục vụ bàn bưng các món của họ đến, và họ gọi thêm rượu. Tôm càng ninh trong bơ và nước sốt tỏi tạo ra một hương vị thơm phức. Bánh quiche nguội nằm tách biệt trên một giường rau diếp, đệm những viên cà chua non.
Kay xiên một khúc bông cải xanh rồi nhai nó. “Cô biết không, Abby, hãng khuyến khích việc sinh con đấy.”
“Em không quan tâm. Hiện thời em không ưa hãng. Em đang cạnh tranh với hãng, và em đang thua nặng. Cho nên em không quan tâm họ muốn gì. Họ không thể lập kế hoạch cho gia đình em thay cho em được. Em không hiểu tại sao họ quan tâm đến thế những việc không phải là của họ. Nơi này thật là kỳ quái, Kay ạ. Em không thể chạm được một ngón tay vào hãng, thế mà những người này vẫn làm em sởn cả gai ốc.”
“Họ muốn có các luật sư hạnh phúc với những gia đình ổn định.”
“Còn em thì muốn có lại chồng của em. Họ đang trong quá trình tước đoạt anh ấy, cho nên gia đình cũng chẳng thể nào ổn định được. Nếu họ chịu buông tha anh ấy, có lẽ chúng em sẽ được bình thường như mọi người khác và sẽ có một khoảnh sân đầy ắp trẻ em. Nhưng không phải là bây giờ.”
Rượu đến và món tôm càng cũng đã nguội. Cô ăn từ tốn và uống ly rượu của cô. Kay tìm kiếm những lĩnh vực ít nhạy cảm hơn. “Lamar nói Mitch đã đến Cayman hồi tháng trước.”
“Vâng, anh ấy và Avery đã ở đó ba ngày. Thuần túy công việc, anh ấy bảo như thế. Chị đã đến đó chưa?”
“Năm nào cũng đến. Đó là một nơi xinh đẹp với những bãi biển lộng lẫy và ấm áp. Bọn chị đi vào tháng Bảy mỗi năm, khi trường học đóng cửa. Hãng có sở hữu hai căn hộ chung cư lớn ở ngay sát bãi biển.”
“Mitch muốn đi nghỉ ở đó vào tháng Ba, trong dịp nghỉ xuân của em.”
“Cô chú phải đi mới được. Trước khi có con, bọn chị chẳng làm gì cả ngoài việc nằm ườn trên bãi biển, uống Rum và làm tình. Đó là lý do vì sao hãng cung cấp các căn hộ chung cư và cả máy bay nữa, nếu may mắn. Họ làm việc vất vả nhưng họ ủng hộ nhu cầu giải trí.”
“Đứng nhắc đến hãng nữa, Kay. Em không muốn nghe kể họ thích gì hay ghét gì, làm gì hay không làm gì, khuyến khích gì hay bài bác gì.”
“Tình hình sẽ cải thiện thôi, Abby ạ, tôi hứa đấy. Cô phải hiểu rằng chồng cô và chồng tôi đều là những luật sư rất giỏi, nhưng họ không thể kiếm được nhiều tiền như thế ở bất cứ nơi đâu khác. Và chị em mình sẽ phải lái những chiếc Buick mới thay vì những chiếc Peugeot hay Mercedes-Benze mói.”
Abby cắt đôi con tôm rồi chấm nó vào nước sốt bơ và tỏi. Cô xiên một phần bằng chiếc nĩa rồi đẩy đĩa ra xa. Ly rượu đã cạn sạch.
“Em biết, Kay ạ, em biết rồi. Nhưng cuộc sống có nhiều thứ chết tiệt còn quan trọng hơn cả khoảnh sân lớn hay một chiếc Peugeot. Có vẻ như chẳng ai quanh đây nhận ra điều đó cả. Em thề đấy, em nghĩ chúng em còn hạnh phúc hơn khi sống trong căn hộ hai phòng tại Cambridge.”
“Cô mới chỉ ở đây có vài tháng. Đến lúc nào đó Mitch sẽ chậm lại thôi, và vợ chồng cô sẽ trở lại với cuộc sống nề nếp rất lâu trước khi những đứa bé McDeere chạy tung tăng ngoài sân, rất lâu trước khi Mitch được trở thành đối tác, cô cũng biết vậy mà. Tin tôi đi, Abby, mọi thứ sẽ tốt hơn lên rất nhiều. Cô đang trải qua một giai đoạn mà tất cả chúng tôi từng trải qua, và chúng tôi đều đã vượt qua được.”
“Cảm ơn Kay, dĩ nhiên em hy vọng chị nói đúng.”
Đó là một công viên nhỏ rộng hai hoặc ba mẫu, nằm trên một dốc đứng nhìn xuống con sông. Một dãy đại bác và hai pho tượng đồng nhắc nhở về những những người lính dũng cảm của Liên minh Miền Nam đã chiến đấu để bảo vệ con sông và thành phố. Dưới tượng đài một vị tướng và con ngựa của ông ta, một gã say rượu nằm co quắp. Chiếc thùng các tông và tấm mền tả tơi của hắn chẳng che chắn được là bao trước cái lạnh tê tái và những hạt lấm tấm của cơn mưa lạnh. Năm mươi mét bên dưới, giao thông đêm đang hối hả diễn ra dọc theo đường Riverside Drive. Trời đã tối.
Mitch bước đến dãy đại bác, đứng nhìn xuống con sông và những cây cầu dẫn đến Arkansas. Anh kéo khóa chiếc áo mưa, lật cổ áo trùm quanh tai. Anh nhìn đồng hồ. Anh chờ đợi.
Tòa nhà Bendini thoáng thấp cách đó sáu dãy phố. Anh đã đậu xe tại một ga ra ở khu trung tâm rồi đón taxi để trở lại con sông. Anh tin chắc không bị ai bám theo. Anh chờ đợi.
Gió buốt lạnh thổi đến từ con sông làm ửng đỏ khuôn mặt anh, nhắc nhở anh về những mùa đông ở Kentucky sau khi cha mẹ anh bỏ đi. Những mùa đông lạnh giá. Những mùa đông cô đơn và lẻ loi. Anh mặc những chiếc áo khoác chuyền lại từ một người anh họ hay một người bạn, và chúng không bao giờ đủ ấm. Những bộ đồ khính. Anh cố xua đi những ý nghĩ đó.
Cơn mưa lạnh giá chuyển thành cơn mưa tuyết. Những hạt tuyết nhỏ vương trên tóc anh, nảy trên vỉa hè quanh anh. Anh nhìn đồng hồ. Có tiếng bước chân, rồi một bóng hình bước vội đến các khẩu đại bác. Ai đó dừng lại rồi chầm chậm tiến đến gần.
“Mitch hå?”
Đó là Eddie Lomax, trong quần Jeans và áo khoác dài. Bộ ria mép rậm và chiếc nón cao bồi trắng khiến anh trông như trong một mẩu quảng cáo thuốc lá. Gã Marlboro.
“Phải, tôi đây.”
Lomax bước đến gần hơn phía bên kia khẩu đại bác. Họ đứng nhìn con sông, giống như những lính gác của Liên minh Miền Nam. “Anh có bị bám theo không đấy?” Mitch hỏi.
“Không, tôi không nghĩ vậy. Còn cậu?”
“Không.”
Mitch nhìn giao thông trên đường Riverside Drive và xa hơn nữa là con sông. Lomas đút tay sâu trong túi. “Gần đây cậu có nói chuyện với Ray không?” Lomax hỏi.
“Không.” Câu trả lời cụt lủn như thể muốn nói, tôi không đứng đây trong mưa tuyết để mà tán gẫu.
“Anh đã tìm được gì?” Mitch hỏi mà không nhìn.
Lomax châm một điếu thuốc và giờ đây mới đúng là Gã Marlboro. “Về ba luật sư, tôi có tìm được chút ít thông tin. Alice Knauss chết trong một vụ tông xe năm 1977. Báo cáo của cảnh sát nói cô ta bị một gã lái xe say rượu tông phải, nhưng điều khá kỳ lạ là chưa ai tìm ra gã lái xe đó. Vụ tông xe diễn ra vào khoảng nửa đêm ngày thứ Tư. Cô ta làm việc muộn ở văn phòng và đang lái xe về nhà. Cô ta sống ở phía đông, tại Sycamore View, và khi ở cách chung cư của cô ta chừng một dặm thì bị một chiếc bán tải một tấn tông phải. Tai nạn diễn ra trên đường New London. Cô ta đang lái chiếc Fiat nhỏ sành điệu của mình thì nó bị bể tung ra từng mảnh. Không có nhân chứng. Khi cảnh sát đến nơi thì chiếc bán tải trống rỗng. Gã lái xe biệt tăm. Họ truy bảng số xe thì thấy chiếc bán tải đã bị đánh cắp tại đường St. Louis cách đó ba ngày. Không có dấu vân tay, chẳng có gì cả.”
“Họ có lấy dấu vân tay à?”
“Phải. Tôi có quen tay thanh tra phụ trách vụ này. Họ nghi ngờ nhưng chẳng có manh mối nào cả. Có một chai whiskey vỡ trên sàn xe, cho nên họ quy cho gã lái xe tội say rượu rồi khép hồ sơ lại.”
“Khám nghiệm tử thi thì sao?”
“Không có. Nguyên do cái chết của cô ta là quá hiển hiện.”
“Nghe có vẻ đáng ngờ.”
“Rất đáng ngờ nữa là khác. Cả ba người họ đều chết một cách đáng ngờ. Robert Lamm là một người thích săn nai ở Arkansas. Ông ta và vài người bạn có một trại săn nai ở hạt Izard tại Ozarks. Họ đi săn hai hoặc ba lần mỗi năm khi vào mùa. Sau một buổi sáng ở trong rừng, mọi người quay về nhà lều chỉ trừ Lamm ra. Họ tìm kiếm trong hai tuần rồi phát hiện ông ta nằm trong một khe núi, bị lá che lấp một phần. Ông ta bị bắn một phát vào đầu, và người ta chỉ biết có vậy. Họ loại trừ khả năng tự sát, nhưng họ đơn giản không có đủ bằng chứng để khởi đầu việc điều tra.”
“Vậy là ông ta bị giết?”
“Có vẻ thế. Xét nghiệm tử thi cho thấy lỗ vào ở đáy sọ và vết thương ở đầu ra làm toang phần lớn khuôn mặt của ông ta. Không thể nào là tự sát được.”
“Có thể đó chỉ là tai nạn.”
“Có thể. Ông ta có thể bị trúng phải một viên đạn nhắm vào con hươu nào đó, nhưng chuyện này rất khó xảy ra. Ông ta được tìm thấy ở cách khá xa những người đi săn, tại một khu vực mà các tay đi săn hiếm khi nào đặt chân đến. Các bạn của ông ta nói họ không hề nghe hoặc nhìn thấy các tay đi săn khác vào buổi sáng mà ông ta biến mất. Tôi đã nói chuyện với tay cảnh sát trưởng mà nay đã là cựu cảnh sát trưởng, và ông ta tin chắc đó là một vụ giết người. Ông ta tuyên bố có bằng chứng rằng xác chết đã được cố tình che lấp.”
“Chỉ có thế thôi?”
“Ừ, về phần Lamm thì chỉ có thế.”
“Còn Mickel thì sao?”
“Rất đáng buồn. Anh ta tự sát năm 1984 ở tuổi ba mươi tư. Tự bắn vào thái dương bên phải bằng khẩu Smith & Wesson.357. Anh ta để lại một lá thư tuyệt mệnh dài trong đó anh ta nói về cô vợ cũ mà anh ta hy vọng sẽ tha thứ cho anh ta và tất cả những chuyện tào lao khác. Anh ta nói vĩnh biệt mấy đứa con và bà mẹ của anh ta. Thực sự rất cảm động.”
“Nó có phải là viết tay không?”
“Không. Nó được đánh máy, chuyện này không có gì là bất thường vì anh ta gõ khá nhiều. Anh ta có một chiếc IBM Selectrics trong văn phòng, và lá thư được gõ từ chiếc máy này. Anh ta viết tháu khủng khiếp.”
“Vậy có gì là khả nghi?”
“Khẩu súng. Anh ta chưa từng mua khẩu súng nào trong đời. Không ai biết nó ở đâu ra. Không đăng ký, không số xê-ri, không gì cả. Một trong số các người bạn của anh ta tại hãng được cho là có nói gì đó, đại khái là Mickel có nói rằng anh ta đã mua một khẩu súng để tự vệ. Có vẻ như anh ta có vài vấn đề về tình cảm.”
“Anh nghĩ sao?”
Lomax ném đọt thuốc vào cơn mưa giá lạnh. Nó rơi xuống vỉa hè. Anh khom hai tay lên miệng và hà hơi vào chúng. “Tôi không biết. Tôi không tin một luật sư thuế vụ không có kiến thức gì về súng lại sở hữu một khẩu không đăng ký mà cũng chẳng có số xê-ri. Một gã như vậy mà mua súng thì sẽ đơn giản đi đến tiệm bán súng, điền vào giấy tờ rồi mua một khẩu mới, trông thật đẹp mắt và bóng lộn. Khẩu súng này đã ít nhất mười tuổi và đã được cải tiến bởi những tay chuyên nghiệp.”
“Cảnh sát có điều tra không?”
“Cũng không hẳn. Hồ sơ đã được mở rồi khép lại.”
“Anh ta có ký tên vào lá thư không?”
“Có, nhưng tôi không biết đã có ai kiểm tra chữ ký chưa. Anh ta và vợ đã ly dị được một năm, và cô ta đã trở về Baltimore.”
Mitch cài lại chiếc nút trên cùng của áo khoác rồi phủi tuyết trên cổ áo. Cơn mưa tuyết nặng hạt hơn, và vỉa hè đã trắng xóa. Những cột băng nhỏ bắt đầu hình thành dưới nòng khẩu đại bác. Giao thông chậm lại trên đường Riverside khi các bánh xe bắt đầu trượt và xoay.
“Vậy anh nghĩ gì về cái hãng nhỏ của chúng tôi?” Mitch hỏi, mắt nhìn ra con sông ở xa xa.
“Đó là một nơi làm việc nguy hiểm. Họ đã mất năm luật sư trong vòng mười lăm năm qua. Đó chẳng phải là một thành tích an toàn tốt lắm đâu.”
“Năm luật sư?”
“Nếu tính cả Hodge và Kozinski. Nguồn tin của tôi cho biết đã có vài câu hỏi không có lời giải đáp.”
“Tôi không thuê anh để điều tra hai người này.”
“Tôi cũng đâu tính tiền anh việc đó. Tôi chỉ tò mò thôi, chỉ có vậy.”
“Tôi nợ anh bao nhiêu?”
“Sáu trăm hai mươi.”
“Tôi sẽ trả cho anh bằng tiền mặt. Không lưu sổ sách gì cả, được chứ?”
“Hợp ý tôi đó. Tôi thích tiền mặt.”
Mitch quay mặt khỏi con sông, nhìn những tòa nhà cao cách công viên ba dãy phố. Giờ thì anh đã thấm lạnh, nhưng anh không vội rời đi. Lomax quan sát anh qua khóe mắt.
“Cậu có vấn đề gì phải không, anh bạn?”
“Sao anh hỏi vậy?” Mitch hỏi lại.
“Nếu là tôi thì tôi sẽ không làm việc ở đó. Ý tôi là tôi không biết cậu làm gì, nhưng tôi ngờ rằng cậu biết rất nhiều nhưng lại không nói ra. Chúng ta đang đứng đây, dưới mưa tuyết, chỉ vì chúng ta không muốn bị nhìn thấy. Chúng ta không thể nói chuyện qua điện thoại. Chúng ta không thể gặp nhau ở văn phòng của cậu. Giờ thì cậu không muốn gặp cả ở văn phòng của tôi. Cậu lúc nào cũng nghĩ mình bị theo dõi. Cậu dặn dò tôi phải cẩn thận và thường xuyên nhìn ra sau vì cậu sợ bọn họ - cũng chả biết là ai nữa - có thể bám theo tôi. Có năm luật sư trong cái hãng đó đã chết trong những hoàn cảnh rất đáng ngờ, và cậu thì hành xử cứ như cậu là người kế tiếp vậy. Đúng đấy, tôi nói cậu đang gặp phải nhiều vấn đề. Nhiều vấn đề lớn.”
“Tarrance thì thế nào?”
“Một trong những đặc vụ giỏi nhất của họ. Được thuyên chuyển về đây khoảng hai năm về trước.”
“Từ đâu?”
“New York.”
Gã say rượu trở mình trên con ngựa đồng và rơi xuống vỉa hè. Hắn rên lên, khập khễnh đi thu thập các thùng các tông và chăn mền rồi bỏ đi về hướng khu thương mại. Lomax quay ngoắt lại, lo âu nhìn.
“Chỉ là một gã lang thang,” Mitch nói. Cả hai đều nhẹ nhõm.
“Chúng ta đang trốn ai vậy?” Lomax hỏi.
“Giá như tôi biết.”
Lomax quan sát kỹ khuôn mặt Mitch. “Tôi nghĩ là cậu biết.” Mitch không nói gì cả.
“Này, Mitch, cậu không trả tiền để tôi tham gia vào. Tôi ý thức điều đó. Nhưng trực giác mách bảo tôi rằng cậu đang gặp rắc rối, và tôi nghĩ cậu cần một người bạn, một người nào đó có thể tin cậy được. Nếu cậu cần thì tôi có thể giúp. Tôi không biết mấy gã xấu đó là ai, nhưng tôi tin chắc chúng rất nguy hiểm.”
“Cảm ơn.” Mitch nói mà không nhìn, cứ như thể đã đến lúc Lomax phải ra về và để yên cho anh đứng một lúc nữa trong mưa tuyết.
“Tôi sẵn sàng nhảy xuống con sông này vì Ray McDeere, và chắc chắn tôi có thể giúp đỡ cậu em của anh ấy.”
Mitch khẽ gật đầu nhưng vẫn không nói gì. Lomax châm thêm một điếu thuốc nữa rồi đá vào cột băng bằng chiếc giày da tắc kè.
“Hãy gọi cho tôi bất cứ lúc nào. Và nhớ cẩn thận đấy. Chúng đang ở ngoài đó, và chúng sẽ chơi tất tay.”
Tại ngã tư giữa đường Madison và đường Cooper ở trung tâm thành phố, các tòa nhà hai tầng cũ kỹ đã được phục chế thành những quán bar độc thân, quán nhậu, cửa hàng quà tặng và vài quán ăn ngon. Ngã tư này còn được biết đến dưới cái tên Overton Square, và nó cung cấp cho Memphis một cuộc sống về đêm tốt nhất ở nơi này. Một nhà hát và một nhà sách bổ sung thêm nét văn hóa. Giữa đường Madison là những hàng cây chạy dọc. Vào những dịp cuối tuần nhộn nhịp, nơi đây tràn ngập những sinh viên đại học và các thủy thủ đến từ căn cứ hải quân. Vào những đêm trong tuần, các quán ăn vẫn đầy bàn nhưng yên tĩnh và không phải chen chúc. Paulette’s là một quán ăn duyên dáng mang phong cách Pháp nằm trong một tòa nhà quét vôi trắng. Nó nổi tiếng nhờ danh mục rượu của nó, cùng các món tráng miệng và chất giọng êm ái của người đàn ông ngồi ở chiếc đại dương cầm Steinway. Đến cùng sự phong lưu đột ngột là một bộ sưu tập các thẻ tín dụng, và vợ chồng McDeere đã sử dụng chúng trong cuộc truy lùng những quán ăn tốt nhất trong thành phố. Cho đến lúc này, Paulette’s vẫn là quán ăn yêu thích nhất.
Mitch ngồi ở quầy bar, uống cà phê và canh chừng cửa trước. Anh đến sớm và đã lên kế hoạch như thế. Anh gọi cho cô trước đó ba giờ, hỏi anh có thể hẹn cô lúc bảy giờ hay không. Cô hỏi có chuyện gì, và anh nói sẽ giải thích sau. Kể từ khi ở Cayman, anh biết có ai đó đang bám đuôi, đang theo dõi, đang nghe ngóng. Tháng vừa rồi anh đã rất thận trọng khi nói chuyện qua điện thoại. Anh phát hiện mình thường xuyên quan sát gương chiếu hậu. Anh thậm chí lựa từng lời những khi ở trong nhà. Ai đó đang theo dõi và nghe ngóng, anh chắc chắn điều đó.
Abby ùa vào theo gió lạnh, đảo mắt nhìn quanh quán ăn để tìm chồng. Anh đón cô trước quầy bar rồi hôn nhẹ lên má. Cô cởi áo khoác rồi cùng anh đi theo người quản lý đến một chiếc bàn nhỏ trong một dãy bàn nhỏ đầy những người trong tầm nghe. Mitch nhìn quanh, tìm một chiếc bàn khác, nhưng chẳng có bàn nào trống cả. Anh cảm ơn người quản lý rồi ngồi xuống đối diện vợ.
“Dịp gì vậy anh?” cô ngờ vực hỏi.
“Anh phải có lý do mới đi ăn tối được với vợ hay sao?”
“Đúng vậy. Bây giờ là bảy giờ tối thứ Hai, mà anh lại không ở văn phòng. Đây nhất định phải là một dịp đặc biệt.”
Một người phục vụ lách qua giữa chiếc bàn của họ và chiếc bàn kế bên. Anh ta hỏi họ uống gì. Vui lòng cho hai ly rượu trắng. Một lần nữa Mitch đảo mắt nhìn quanh và thoáng thấy một quý ông đang ngồi một mình ở cách năm chiếc bàn. Khuôn mặt ông ta trông quen quen. Khi Mitch nhìn lần nữa, khuôn mặt đã trượt xuống sau cuốn sổ thực đơn.
“Có chuyện gì vậy, Mitch?”
Anh đặt tay lên tay cô rồi nghiêm nghị chau mày. “Abby, chúng ta cần nói chuyện.”
Bàn tay cô hơi rụt lại và cô thôi cười. “Nói chuyện gì?”
Anh hạ giọng. “Một chuyện rất nghiêm trọng.”
Cô thở hắt ra một hơi dài rồi nói, “Chờ rượu ra có được không? Có thể em sẽ cần nó.”
Mitch lại nhìn khuôn mặt phía sau sổ thực đơn. “Chúng ta không thể nói chuyện ở đây được.”
“Vậy chúng ta đến đây làm gì?”
“Nghe này, Abby, em biết phòng vệ sinh ở đâu rồi chứ? Xuống hành lang đằng kia rồi rẽ phải.”
“Vâng, em biết rồi.”
“Có một cánh cửa hậu ở cuối hành lang. Nó đi ra con đường hông sau quán ăn. Anh muốn em đến phòng vệ sinh rồi đi thẳng ra cánh cửa đó.”
Cô không nói gì cả. Cặp chân mày của cô cụp xuống và đôi mắt cô nheo lại. Đầu cô hơi nghiêng nhẹ sang phải.
“Tin anh đi, Abby. Anh sẽ giải thích sau. Anh sẽ gặp lại em ở bên ngoài và chúng ta sẽ tìm một quán khác để ăn. Anh không thể nói chuyện ở đây được.”
“Anh làm em sợ đấy.”
“Làm ơn đi,” anh xiết chặt tay cô, quả quyết nói. “Mọi thứ đều ổn. Anh sẽ lấy áo khoác của em.”
Cô đứng dậy, mang theo bóp và rời khỏi căn phòng. Mitch lo lắng nhìn người đàn ông có khuôn mặt quen quen. Ông ta bất chợt đứng dậy để chào đón một quý bà lớn tuổi rồi mời bà ta về bàn của ông. Ông ta không để ý Abby đã ra ngoài.
Trên con đường phía sau quán Paulette’s, Mitch choàng áo khoác lên vai Abby rồi trỏ về hướng đông.
“Anh sẽ giải thích,” anh nói chẳng biết đến lần thứ mấy. Xuôi theo con đường khoảng ba mươi mét, họ đi vào giữa hai tòa nhà rồi đi tiếp đến lối vào phía trước của Bombay Bicycle Club, một quán bar dành cho những người độc thân với thức ăn ngon và nhạc blues sống. Mitch nhìn người đầu bếp, quan sát hai phòng ăn, rồi trỏ vào chiếc bàn ở góc phía sau.
“Bàn này,” anh nói.
Mitch ngồi đâu lưng vào tường, mặt hướng ra phòng ăn và cửa trước. Góc họ ngồi rất tối, chiếc bàn được soi sáng bằng nến. Họ gọi thêm rượu.
Abby ngồi bất động, nhìn anh không chớp mắt, quan sát từng động thái và chờ đợi.
“Em có nhớ cái anh chàng có tên là Rick Acklin ở Western Kentucky không?”
“Không.” cô nói mà môi không động đậy.
“Anh ta chơi bóng chày, sống ở ký túc xá. Anh nghĩ em đã gặp anh ta một lần. Một anh chàng rất tốt, trông rất đàng hoàng, một sinh viên giỏi. Anh nghĩ anh ta đến từ Bowling Green. Anh không thân với anh ta, nhưng anh và anh ta có quen biết nhau.”
Cô nhún vai, chờ đợi.
“Chuyện là vầy. Anh ta ra trường một năm trước chúng ta rồi đến học trường luật ở Wake Forest, và hiện thời anh ta đang làm việc cho FBI tại đây, ở ngay Memphis này.” Anh chằm chặp nhìn cô để xem từ “FBI” liệu có gây tác động gì hay không. Không hề. “Hôm nay, trong lúc anh đang ăn trưa tại quán hot dog của Obleo trên đường Main thì Rick bỗng đâu bước đến chào hỏi anh. Cứ như đó là sự ngẫu nhiên vậy. Anh và anh ta trò chuyện với nhau được vài phút thì có một đặc vụ khác bước đến và ngồi xuống, một gã có tên là Tarrance. Đây là lần thứ hai Tarrance bám theo anh kể từ khi anh đậu cuộc thi lấy chứng chỉ.”
“Lần thứ hai...?”
“Đúng. Kể từ tháng Tám.”
“Và họ là... đặc vụ FBI?”
“Đúng, có huy hiệu hẳn hoi. Tarrance là một đặc vụ lão luyện từ New York đến. Đã ở đây khoảng hai năm. Acklin thì là lính mới, được họ đưa vào cách đây ba tháng.”
“Họ muốn gì?”
Rượu đến và Mitch lại nhìn quanh quất Câu lạc bộ. Ban nhạc đang chuẩn bị trình diễn trên một sân khấu nhỏ ở góc xa. Quán bar đầy nghẹt những người bảnh bao và chuyên nghiệp đang tán gẫu với nhau không dứt. Người phục vụ trỏ vào cuốn sổ thực đơn chưa mở. “Để sau,” Mitch thô lỗ nói.
“Abby, anh không biết họ muốn gì. Cuộc gặp đầu tiên là vào tháng Tám, ngay sau khi tên anh được in trên báo do anh đậu cuộc thi lấy chứng chỉ.” Anh nhấp rượu rồi kể lại lớp lang từng chi tiết cuộc viếng thăm của Tarrance tại quán Deli của Lansky trên đường Union. Anh kể lại những cảnh báo về việc không nên tin tưởng bất cứ ai, về những nơi phải tránh nói. Anh kể về cuộc họp với Locke Lambert và các đối tác khác. Anh trình bày lập luận của họ về lý do vì sao FBI lại quan tâm đến hãng nhiều như vậy. Anh cho biết đã thảo luận với Lamar và đã tin từng lời những gì Locke và Lambert nói. Abby uống từng lời, nhưng vẫn nhịn không hỏi.
“Và hôm nay, trong lúc anh mải lo công việc, ngồi ngốn ổ bánh mì hành ba tấc, cái anh chàng học chung ở đại học đó lại bước đến, bảo anh rằng họ - FBI - biết chắc chắn điện thoại của anh đã bị nghe lén, nhà của anh đã bị cài bọ, và có ai đó ở Bendini, Lambert & Locke đang biết rõ khi nào anh hắt hơi và khi nào anh đi cầu. Nghĩ coi, Abby, Rick Acklin được điều chuyển đến đây sau khi anh vượt qua cuộc thi lấy chứng chỉ. Trùng hợp đấy chứ, hả?”
“Nhưng họ muốn gì cơ chứ?”
“Họ không nói. Họ không thể nói cho anh biết. Họ muốn anh tin tưởng họ, đại loại như thế, anh cũng không biết nữa, Abby. Anh không có chút ý niệm họ đeo đuổi điều gì. Nhưng họ đã chọn anh vì lý do nào đó.”
“Anh đã kể cho Lamar về cuộc viếng thăm lần này chưa?”
“Chưa. Anh chưa kể cho ai cả, chỉ ngoại trừ em ra. Và anh cũng không định kể cho bất cứ ai.”
Cô hớp một ngụm rượu. “Điện thoại của chúng mình đã bị ghi âm?”
“Đó là theo lời của FBI. Nhưng họ làm sao mà biết được cơ chứ?”
“Họ không ngốc đâu, Mitch. Nếu FBI nói với em rằng điện thoại của em bị nghe lén thì em sẽ tin họ. Anh không tin sao?”
“Anh chẳng biết phải tin ai nữa. Locke và Lambert tỏ ra rất mạch lạc và đáng tin khi họ trình bày việc hãng đã chiến đấu như thế nào với IRS và FBI. Anh muốn tin họ lắm chứ, nhưng lại có quá nhiều điều mập mờ. Hãy nhìn sự việc như thế này: nếu hãng có một thân chủ giàu có, những kẻ mờ ám đáng bị FBI chọc ngoáy, thế thì tại sao họ lại chọn anh - một tân binh, một người biết ít nhất - để mà bám theo. Anh biết gì nào? Anh chỉ làm việc với các hồ sơ mà người khác trao cho anh. Anh không có thân chủ của riêng anh. Ai bảo gì anh làm nấy. Sao họ không bám theo một đối tác đi?”
“Có lẽ họ muốn anh chỉ điểm một trong các thân chủ.”
“Không cách chi. Anh là một luật sư và anh đã tuyên thệ giữ bí mật những việc làm của thân chủ.”
“Anh có thấy giao dịch bất hợp pháp nào không?”
Anh bẻ các khớp ngón tay rồi đảo mắt quanh phòng. Anh mỉm cười với cô. Rượu đã ngấm và đang phát huy tác dụng. “Anh lẽ ra không trả lời câu hỏi này, ngay cả với em, Abby. Nhưng câu trả lời của anh là không. Anh đã làm việc với hơn hai mươi hồ sơ liên quan đến các thân chủ của Avery, và thi thoảng là vài thân chủ khác, và anh chưa thấy điều gì khả nghi cả. Có thể là vài vụ lách thuế nhiều rủi ro, nhưng chúng không phải là bất hợp pháp. Anh đã có thắc mắc về những tài khoản ngân hàng mà anh thấy tại Cayman, nhưng chúng chẳng có gì là nghiêm trọng cả.”
Cayman! Bao tử anh sa xuống khi nghĩ đến cô gái ngoài bãi biển. Anh cảm thấy buồn nôn.
Người phục vụ lảng vảng gần đó, nhìn cuốn sổ thực đơn.
“Thêm rượu,” Mitch gọi, trỏ vào những chiếc ly.
Abby khom xuống sát các ngọn nến. Trông cô rất hoang mang.
“Nhưng ai nghe lén điện thoại của chúng ta vậy?”
“Anh không có chút ý niệm nào cả nếu quả thật nó bị nghe lén. Trong lần gặp đầu tiên hồi tháng Tám, Tarrance ngụ ý đó là người trong hãng. Ý anh là anh hiểu như vậy. Anh ta dặn không được tin bất cứ ai trong hãng. Bảo rằng mọi điều anh nói đều có khả năng bị nghe lén và ghi âm. Anh nghĩ anh ta ngụ ý họ đã làm việc đó.”
“Ông Locke thì nói gì về chuyện này?”
“Chẳng nói gì cả. Anh không kể cho ông ta biết. Anh giữ kín vài điều cho riêng anh.”
“Ai đó đang nghe lén điện thoại của chúng ta và cài bọ trong nhà của chúng ta?”
“Có lẽ cả trong xe của chúng ta nữa. Hôm nay, Rick Acklin đã làm toáng chuyện này. Anh ta cứ nhắc đi nhắc lại, dặn dò anh không được nói bất cứ điều gì mà anh không muốn bị nghe lén.”
“Mitch, chuyện này thật không thể tin nổi. Tại sao một hãng luật lại làm vậy chứ?”
Anh chầm chậm lắc đầu, nhìn những ly rượu cạn. “Anh không có chút ý niệm nào, em yêu. Không một chút ý niệm nào cả.”
Người phục vụ đặt hai ly rượu mới lên bàn rồi khoanh tay ra phía sau đứng nhìn. “Quý khách có gọi món không ạ?” anh ta hỏi. “Để vài phút nữa,” Abby nói.
“Chúng tôi sẽ gọi anh khi nào sẵn sàng.” Mitch nói thêm.
“Anh có tin chuyện đó không, Mitch?”
“Anh nghĩ có gì đó đã bị thổi phồng. Nó giống như một câu chuyện hoang đường vậy.”
Cô chậm rãi chắp hai tay trên bàn và nhìn anh với ánh mắt cực kỳ sợ hãi. Anh kể lại câu chuyện về Hodge và Kozinski, bắt đầu với Tarrance ở quán deli, rồi đến Cayman, khi anh bị bám đuôi, và rồi là cuộc gặp Abanks. Anh thuật lại tất cả những gì Abanks nói. Rồi đến Eddie Lomax và cái chết của Alice Knauss, Robert Lamm và John Mickel.
“Em mất cả khẩu vị” cô nói khi anh kể xong.
“Anh cũng thế. Nhưng bây giờ em đã biết rồi thì anh thấy đỡ nhiều.”
“Sao anh không nói cho em biết sớm hơn?”
“Anh đã hy vọng chuyện đó sẽ qua đi. Anh hy vọng Tarrance sẽ để yên cho anh và tìm ra ai khác mà dày vò. Nhưng anh ta đến đây là để trụ lại. Đó là lý do vì sao Rick Acklin được điều chuyển đến Memphis. Là để khai thác anh đó! Anh đã được FBI lựa chọn cho một sứ mệnh mà anh chẳng hề hay biết.”
“Em thấy sợ.”
“Chúng ta phải cẩn thận, Abby ạ. Chúng ta phải tiếp tục sống như thể không nghi ngờ gì cả.”
“Em không tin chuyện đó. Em đang ngồi đây nghe anh nhưng lại không tin những gì anh nói. Chuyện đó không phải là thật, Mitch ạ. Chẳng nhẽ anh kỳ vọng em chấp nhận sống trong một ngôi nhà bị cài bọ và các điện thoại bị nghe lén, và kẻ nào đó, từ đâu đó, đang rình nghe bất cứ điều gì chúng ta nói?”
“Em có ý nào hay hơn không?”
“Có đấy. Ta hãy thuê cái gã Lomax đó đến kiểm tra ngôi nhà của chúng ta.”
“Anh đã nghĩ đến chuyện này rồi. Nhưng lỡ hắn tìm được cái gì đó thì sao? Em thử nghĩ đi. Nếu chúng ta biết chắc nhà của chúng ta bị gài bọ thì sao? Kế tiếp phải làm gì? Lỡ hắn làm hỏng một thiết bị cài đặt thì sao? Họ - chẳng biết họ là những gã chết tiệt nào nữa - sẽ biết rằng chúng ta đã biết. Điều đó quá nguy hiểm, ít ra là trong lúc này. Có lẽ phải để sau thôi.”
“Thật điên rồ, Mitch. Chắc chúng ta phải chạy ra sân sau thì mới nói chuyện với nhau được.”
“Dĩ nhiên không phải vậy. Chúng ta có thể sử dụng sân trước.”
“Em không thích anh đùa giỡn vào lúc này.”
“Anh xin lỗi. Coi nào, Abby, chúng ta hãy cứ bình thường và nhẫn nại một thời gian. Tarrance đã thuyết phục được anh rằng anh ta nghiêm túc, và anh ta sẽ không bao giờ quên anh đâu. Anh không thể ngăn được anh ta. Anh ta đến tìm anh, nhớ đi. Anh nghĩ họ bám theo anh rồi đợi dịp phục kích. Tạm thời, điều quan trọng là chúng ta phải cư xử như bình thường.”
“Bình thường? Anh nghĩ xem, những ngày qua đã có được mấy cuộc trò chuyện bình thường trong nhà của chúng ta. Em thậm chí còn thấy thương hại cho họ nếu họ phải rình nghe một cuộc trao đổi rõ nghĩa. Em chỉ toàn trò chuyện với Hearsey mà thôi.