← Quay lại trang sách

Chương 16

Tuyết đã tan từ lâu trước Giáng sinh, để lại mặt đất ẩm và mở đường cho thời tiết lễ hội truyền thống của phương nam: bầu trời xám xịt và những cơn mưa lạnh. Memphis từng chứng kiến hai kỳ Giáng sinh tuyết trắng trong vòng chín mươi năm qua, và các chuyên gia dự báo trong một thế kỷ tới sẽ không còn dịp nào như thế nữa.

Kentucky cũng có tuyết, nhưng đường xá quang đãng. Abby gọi cho cha mẹ cô vào sáng sớm hôm Giáng sinh, sau khi cô chuẩn bị xong hành lý. Cô sắp được về nhà, cô tự nhủ, nhưng cô sẽ phải về một mình. Họ bảo họ thất vọng, và gợi ý cô nên ở lại nếu chuyến đi gây rắc rối. Nhưng cô vẫn khăng khăng. Đó sẽ là một hành trình mười tiếng đồng hồ. Giao thông sẽ thông suốt, và cô sẽ đến đó khi trời tối.

Mitch nói rất ít. Anh trải tờ báo sáng lên sàn, cạnh ngọn cây, và giả vờ như đang tập trung vào đó trong khi cô chất đồ lên xe. Con chó nấp đâu đó dưới chiếc ghế như thể đang chờ đợi một sự bùng nổ. Những món quà họ tặng nhau đã được mở và xếp gọn trên trường kỷ. Quần áo, phấn son, các tập album, và món quà đặc biệt cho cô là một áo khoác lông chồn dài cả thân người. Lần đầu tiên trong cuộc hôn nhân trẻ, tiền bạc có rủng rỉnh để chi tiêu dịp Giáng sinh.

Cô xỏ chiếc áo khoác rồi bước đến tờ báo. “Em đi đây,” cô nói dịu dàng nhưng quả quyết. Anh từ từ đứng dậy và nhìn cô.

“Em ước gì có anh đi cùng.” cô nói.

“Có lẽ để năm tới.”

Đó là một lời nói dối, và họ biết điều đó. Nhưng nó nghe lọt tai, nghe hứa hẹn.

“Bảo trọng nhé!”

“Nhớ chăm sóc con chó của em.”

“Anh và nó sẽ ổn thôi.” Anh nắm vai cô và hôn lên má cô. Anh nhìn cô, mỉm cười. Cô thật đẹp, đẹp hơn nhiều so với khi họ kết hôn. Ở tuổi hai mươi bốn, trông cô đúng với tuổi của mình, nhưng càng thêm tuổi thì cô lại càng xinh đẹp. Họ bước đến ga ra, và anh giúp cô lên xe. Họ hôn nhau lần nữa, rồi cô lùi xe vào lối đi. Chúc mừng Giáng sinh, anh nói với con chó.

Sau một giờ quan sát các bờ tường, anh vứt hai bộ y phục lên chiếc BMW, đặt Hearsey lên ghế trước rồi lái xe rời thành phố. Anh lái về hướng nam, theo đường Xuyên bang 55 ra khỏi Memphis, rồi đi về hướng Mississippi. Con đường tuy hoang vắng nhưng anh vẫn giữ một bên mắt dòm chừng gương chiếu hậu. Cứ chính xác sau sáu phút, con chó lại rên lên ư ử, và Mitch phải dừng xe bên lề đường – nếu có thể thì chỉ dừng trên một ngọn đồi. Khi đó anh sẽ tìm một đám cây để nấp và quan sát giao thông trong khi Hearsey làm công chuyện của nó. Anh không thấy điều gì bất thường cả. Sau năm lần dừng xe, anh biết chắc mình không bị đeo bám. Rõ ràng họ đã nghỉ ngơi trong ngày Giáng sinh.

Sau sáu tiếng đồng hồ, anh đã ở Mobile. Hai giờ sau, anh vượt qua vịnh Pensacola rồi lái thẳng đến Emerald Coast thuộc Florida. Cao tốc 98 băng qua các thị trấn duyên hải Navarre, Fort Walton Beach, Destin và Sandestin. Nó đi qua nhiều cụm nhà chung cư và nhà nghỉ, hàng dặm những trung tâm mua sắm, hàng chuỗi những công viên giải trí giảm giá và hàng lô lốc những cửa hàng áo thun giá rẻ, phần lớn đã khóa cửa và bỏ bê từ dịp lễ Lao động. Rồi cao tốc tiếp tục kéo dài hàng cây số, không ùn tắc, không hỗn độn, chỉ duy nhất một cảnh quan tuyệt diệu những bãi biển trắng như tuyết, những vùng nước rực rỡ màu lục bảo của Vịnh. Phía đông Sandestin, cao tốc dần hẹp lại và rời khỏi bờ biển, và trong suốt một giờ anh đã lái xe đi một mình trên cả hai làn đường mà chẳng có gì để nhìn ngoại trừ những khu rừng và thi thoảng là những trạm xăng tự phục vụ hoặc những cửa hàng tiện ích.

Lúc nhá nhem, anh băng qua một nhà cao tầng, nơi có một biển hiệu ghi rằng bãi Panama City còn cách khoảng mười ba cây số. Cao tốc gặp lại bờ biển tại địa điểm nó rẽ nhánh và cho sự lựa chọn giữa đánh vòng qua phía bắc hoặc đi theo một con lộ với cảnh quan đẹp đến thẳng cái nơi được gọi là Miracle Strip. Anh chọn con lộ cảnh quan đẹp ven biển – dải đất kéo dài hai mươi ba cây số dọc bờ biển, hai bên là những căn chung cư, nhà nghỉ giá rẻ, bãi xe kéo, nhà tranh nghỉ mát, cửa hàng thức ăn nhanh, cửa hàng áo thun. Đó chính là bãi Panama City.

Trong vô vàn những căn chung cư, phần lớn các căn phòng bị bỏ trống. Nhưng cũng có vài chiếc xe đậu gần đó vì vậy anh đoán rằng vẫn có vài gia đình đang nghỉ mát ở bãi biển trong dịp Giáng sinh. Một Giáng sinh với thời tiết nóng nực. Nhưng ít ra họ cũng được bên nhau, anh thầm nhủ. Con chó sủa, và anh dừng lại bên một cầu tàu nơi những người đàn ông từ Pensylvania, Ohio và Canada đang câu cá và ngắm màn nước đen.

Anh chầm chậm lái đi trên Miracle Strip. Hearsay chồm lên cửa xe, nhìn khung cảnh. Nó sủa khi xe đi qua những ngọn đèn neon chớp nháy của một nhà nghỉ tường gạch xỉ thi thoảng xuất hiện, quảng cáo cho sự hiếu khách và giá rẻ của nó. Giáng sinh ở Miracle Strip khiến mọi nơi đều đóng cửa ngoại trừ vài quán cà phê và nhà nghỉ cứng đầu.

Anh dừng lại đổ xăng tại một cây Texaco, nơi có người quản lý thân thiện hiếm thấy.

“Đường San Luis ở đâu?” Mitch hỏi.

“Vâng, vâng,” anh ta nói bằng chất giọng nặng của người miền tây. “Đến đèn giao thông thứ hai, rẽ phải. Đèn đầu tiên, rẽ trái là đến San Luis.”

Khu lân cận là một vùng ngoại ô hỗn độn với những ngôi nhà di động cũ. Gọi là di động, nhưng có vẻ như chúng đã không đi đâu cả trong suốt nhiều thập kỷ. Những chiếc xe đầu kéo nằm san sát bên nhau như những dãy domino. Những lối xe ngắn và hẹp có vẻ chỉ cách nhau vài phân. Chúng chứa đầy những chiếc bán tải cũ, và những bàn ghế ngoài trời gỉ sét. Những con đường đều chật ních xe đậu, xe phế liệu, xe thải. Xe gắn máy và xe đạp được dựa lên các cầu kéo và những tay cầm của máy xén cỏ ló ra ở dưới đáy mỗi ngôi nhà. Một tấm biển hiệu gọi nơi này là “làng xe hưu trí”: “Làng hưu trí San Pedro Estates, cách Emerald Coast tám trăm mét.” Nói đúng hơn, nó giống như một khu ổ chuột trên bánh hơi, hay một dự án cho thuê xe đầu kéo.

Anh tìm ra đường San Luis và đột nhiên thấy bồn chồn. Nó lượn vòng vèo và hẹp dần, trông còn thậm tệ hơn cả các “nhà hưu trí.” Anh lái chậm, lo lắng nhìn số đường, quan sát vô vàn những bảng số xe ngoài-bang. Con đường trống trơn, ngoại trừ những xe đậu và xe thải.

Nhà số 486 San Luis là một trong những căn nhà cũ nhất và bé nhất. Nó chỉ nhỉnh hơn chút đỉnh so với xe cắm trại. Lớp sơn nguyên thủy hình như là màu bạc, nhưng nó đã nứt nẻ và bong tróc. Một tấm mái màu xanh lục đậm phủ trên nóc và xuôi xuống một điểm phía trên các cửa sổ. Kính xe không còn nữa. Một cửa sổ phía trên cầu kéo bị gãy thảm hại, chỉ còn đính vào khung nhờ một đoạn băng keo điện màu xám. Một cổng vòm nhỏ bao quanh lối vào duy nhất. Cửa ngoài để ngỏ và, qua tấm rèm che, Mitch nhìn thấy một chiếc tivi màu và bóng dáng một người đàn ông đang đi tới đi lui.

Đó không phải là những gì anh muốn thấy. Anh đã quyết không bao giờ gặp người chồng thứ hai của mẹ, và nay lại càng không phải lúc. Anh lái xe đi, ước gì mình không đến. Anh tìm thấy ở Strip chiếc vòm mái quen thuộc của một Holiday Inn. Khách sạn trống trơn nhưng vẫn mở cửa. Anh giấu chiếc xe khỏi cao tốc, rồi đăng ký nhận phòng dưới cái tên Eddie Lomax, từ Danesboro, Kentucky. Anh trả bằng tiền mặt để lấy một phòng đơn trông ra biển.

Niên giám điện thoại của bãi Panama City liệt kê ba quán ăn Waffle Hut tại Strip. Anh nằm vắt ngang chiếc giường của khách sạn và quay số đầu tiên. Trật. Anh quay số thứ hai rồi cũng xin gặp bà Eva Ainsworth. Chờ một chút, ai đó nói. Anh ngắt điện thoại. Đã là mười một giờ đêm. Anh đã chợp mắt trong hai giờ. Chiếc taxi mất hai mươi phút để đến Holiday Inn. Người tài xế bắt đầu phân trần rằng ông đã về đến nhà, đang cùng vợ con và họ hàng thưởng thức món gà tây thì bị người điều phối gọi đến. Ông nói về tình hình Giáng sinh năm nay. Nói ông đã mong được ở cả ngày bên gia đình, khỏi phải lo nghĩ gì về công việc, chí ít là vào ngày này trong cả năm. Mitch thả một tờ hai mươi lên ghế trước và yêu cầu ông im lặng.

“Waffle Hut thì có gì hay ho chứ, anh bạn?” ông tài xế hỏi.

“Ông cứ lo lái đi.”

“Waffle, đúng không?” Ông ta cười rồi làu bàu gì đó, chỉnh lại âm lượng chiếc radio và dò sóng đài phát thanh mà ông yêu thích. Ông liếc nhìn tấm gương rồi nhìn ra cửa sổ, huýt sáo một lúc rồi nói, “Điều gì đưa anh xuống tuốt dưới này vào dịp Giáng sinh vậy?”

“Tôi tìm một người.”

“Ai vậy?”

“Một người phụ nữ.”

“Chúng ta ai cũng đều thế. Có cụ thể là người nào không?”

“Một người quen cũ.”

“Cô ta ở Waffle Hut à?”

“Tôi nghĩ vậy.”

“Anh kiểu như là thám tử tư, phải không?”

“Không.”

“Tôi ngờ lắm.”

“Sao ông không lo lái xe đi?”

Waffle Hut là một tòa nhà nhỏ vuông vắn, trông như một chiếc hộp, với khoảng một chục bàn ăn và một chiếc quầy dài đối diện với bếp nướng, nơi mọi món đều được nấu lộ thiên. Những cửa sổ kính tráng thủy nằm dọc một bên gần các bàn để khách có thể nhìn ra Strip và các căn chung cư xa xa trong lúc thưởng thức món bánh quế hồ đào và thịt xông khói. Bãi xe nhỏ hầu như chật kín, và Mitch hướng dẫn ông tài xế đến một lô trống gần tòa nhà.

“Anh có xuống không?” ông tài xế hỏi.

“Không. Ông cứ để đồng hồ chạy đi.”

“Trời, vụ này lạ đấy.”

“Ông sẽ được trả tiền.”

“Anh làm vậy là phải.”

Mitch nhoài tới, tì hai tay lên ghế trước. Chiếc đồng hồ khẽ nhịp khi anh dò xét những thực khách ở bên trong. Ông tài xế lắc đầu, ngồi thụp sâu trên ghế, nhưng vẫn tò mò nhìn.

Ở góc phòng, gần máy bán thuốc lá, có một chiếc bàn nơi những du khách to béo mặc áo sơ mi dài, chân trắng vớ đen, đang ngồi uống cà phê. Tất cả mọi người đều nói cùng một lúc khi họ nhìn vào các cuốn sổ thực đơn. Gã chủ xị mặc chiếc sơ mi không cài khuy để lộ sợi dây chuyền vàng nặng trịch trên đám lông ngực. Hắn có mớ tóc mai dày với nhiều sợi bạc, đầu đội chiếc nón lưỡi trai bóng chày Phillies. Và hắn cứ liên tục nhìn về hướng nhà bếp, tìm kiếm cô phục vụ.

“Anh đã thấy cô ta chưa?” ông tài xế hỏi.

Mitch không trả lời. Anh chau mày, chồm tới.

Bà đột ngột xuất hiện, đứng cạnh bàn với cuốn sổ gọi món và cây viết. Gã chủ xị nói câu gì đó khôi hài, và đám người béo phá lên cười. Bà không cười mà tiếp tục ghi. Trông bà mảnh mai và gầy đi rất nhiều. Quá nhiều nữa là khác. Bộ đồng phục đen trắng vừa khít, bó sát bờ eo hẹp. Mái tóc bạc của bà cột gọn gàng ra sau, ẩn dưới chiếc nón bê rê của Waffle Hut. Bà năm nay đã năm mươi mốt tuổi và, từ xa, trông bà đúng với độ tuổi của mình. Không có gì tệ đi. Bà có vẻ sắc sảo. Khi ghi xong tờ đặt món, bà giằng lấy cuốn sổ thực đơn từ tay họ, nói câu gì đó lịch sự, hơi mỉm cười rồi biến mất. Bà di chuyển nhanh nhẹn giữa các bàn, rót cà phê, trao những chai tương cà, chuyển lời đặt món cho đầu bếp.

Mitch thư giãn. Chiếc đồng hồ chầm chậm gõ nhịp.

“Là bà ta à?” ông tài xế hỏi.

“Phải.”

“Giờ thì sao?”

“Tôi không biết.”

“Vậy, ta đi tìm bà ta nhé?”

Mitch lặng thinh dõi theo các thao tác của bà. Bà rót cà phê cho một người đàn ông ngồi một mình. Ông ta nói gì đó và bà mỉm cười. Một nụ cười duyên dáng và tuyệt vời. Một nụ cười mà anh đã thấy hàng ngàn lần trong bóng tối, khi ngước mắt nhìn trần nhà. Nụ cười của mẹ anh.

Mội màn sương nhẹ bắt đầu ập xuống. Sau từng chặp mười giây, các cần gạt nước lại lau tấm kính chắn gió. Đã gần nửa đêm, ngày Giáng sinh.

Ông tài xế sốt ruột vỗ bánh lái, lộ rõ sự bồn chồn. Ông ngồi ngập sâu hơn vào ghế rồi đổi tư thế. “Ta còn ngồi đây bao lâu nữa?”

“Không lâu.”

“Trời ạ, chuyện gì lạ thế này?”

“Ông sẽ được trả tiền.”

“Trời, tiền đâu phải là tất cả. Đây là Giáng sinh mà. Tôi còn có mấy đứa nhỏ ở nhà, họ hàng đến viếng thăm, gà tây và rượu đã sẵn sàng để mà chén, thế mà tôi lại ngồi đây, trước cái quán Waffle này, để anh nhìn một bà già qua cửa sổ.”

“Đó là mẹ của tôi đấy.”

“Sao cơ?”

“Ông đã nghe rồi đó.”

“Trời đất. Tôi lãnh đủ rồi.”

“Ông im miệng đi có được không?”

“Được thôi. Anh sẽ nói chuyện với bà ta chứ? Ý tôi nói đây là Giáng sinh mà, và anh đã tìm ra được mẹ anh. Anh sẽ đến gặp bà ấy phải không?”

“Không. Không phải lúc này.”

Mitch ngồi lại vào ghế, nhìn bãi biển tối đen ở bên kia cao tốc. “Ta đi nào.”

Rạng sáng, anh mặc vào chiếc quần Jeans và áo nỉ, không mang vớ, không đi giày. Anh đưa Hearsay đi dạo trên bãi biển. Anh đi về hướng đông, tiến về phía những quầng sáng cam đầu tiên lấp ló phía chân trời. Những lọn sóng vỡ ra hiền hòa cách đó ba mươi mét rồi lặng lẽ dạt vào bờ. Cát mát lạnh và ẩm ướt. Bầu trời quang đãng, đầy những con mòng biển đang trò chuyện với nhau không dứt. Hearsay lóc cóc chạy ra biển rồi tức tối tháo lui khi ngọn sóng kế tiếp sủi bọt trắng ập tới. Với một con chó nhà thì dải cát và làn nước bất tận là một thứ gì đó đòi hỏi được khám phá. Nó chạy trước Mitch khoảng một trăm mét.

Sau khoảng ba cây số rưỡi, anh đi đến một cầu tàu, một cấu trúc lớn bằng bê tông dài khoảng sáu mươi mét từ bãi biển ra đại dương. Giờ đây đã hết sợ, Hearsay lao ra đó rồi chạy đến một xô mồi cạnh hai người đàn ông đang đứng bất động nhìn xuống nước. Mitch bước qua sau lưng họ rồi đi đến đầu mút của cầu tàu, nơi hàng chục người câu cá thi thoảng trò chuyện với nhau và chờ lúc để quăng dây. Con chó cạ vào chân Mitch và trở nên yên ắng. Mặt trời đang dần trở lại rực rỡ. Suốt nhiều dặm, nước biển đã bắt đầu lấp lánh, chuyển từ màu đen sang màu xanh lục.

Mitch tựa vào lan can và rùng mình trước một cơn gió lạnh. Đôi chân trần của anh tê cóng và đóng sạn. Cách nhiều cây số dọc bãi biển theo cả hai hướng, các khách sạn và nhà nghỉ đang yên ắng chờ ban ngày. Bãi biển không có lấy một mống người. Một cầu tàu khác nhô ra biển ở cách đó nhiều cây số. Những người câu cá nói với nhau bằng thứ âm điệu chói tai và rành rọt của dân phương bắc. Mitch phải lắng nghe khá lâu mới hiểu rằng cá đã không cắn câu. Anh nhìn ra biển. Nhìn xuống phía đông nam, anh chợt nghĩ đến Cayman và Abanks. Và anh nghĩ đến cô gái trong thoáng chốc rồi biến mất. Anh sẽ trở lại các đảo vào tháng Ba để nghỉ phép cùng vợ. Cái cô gái chết tiệt đó! Chắc chắn anh sẽ không gặp lại cô ta. Anh sẽ đi lặn cùng Abanks và phát triển một tình bạn. Hai người sẽ uống Heineken và Red Stripe trong quán bar của ông ta, nói với nhau về Hodge và Kozinski. Ông ấy sẽ bám theo bất cứ gã nào bám theo anh. Nay Abby đã trở thành đồng lõa, cô sẽ giúp anh.

Người đàn ông chờ trọng bóng tối, cạnh chiếc Lincoln Town Car. Ông ta sốt ruột nhìn đồng hồ rồi liếc nhìn ánh sáng mờ trên vỉa hè đang tan biến dần ở phía trước tòa nhà. Ở tầng hai, một ngọn đèn vụt tắt. Một phút sau, gã thám tử bước từ tòa nhà ra xe. Người đàn ông tiến về phía đó.

“Ông là Eddie Lomax?” ông ta lo lắng hỏi.

Lomax bước chậm rồi dừng lại. Họ đứng giáp mặt với nhau, “Phải. Còn ông là ai?”

Người đàn ông giữ hai tay trong túi. Trời lạnh và ẩm, và ông ta đang run rẩy.

“Al Kilbury. Tôi cần sự giúp đỡ, thưa ông Lomax. Thực sự là rất tệ. Tôi sẽ trả cho ông ngay bây giờ. Bằng tiền mặt. Bất cứ giá nào ông muốn. Xin hãy giúp tôi.”

“Giờ này muộn rồi, ông bạn.”

“Làm ơn đi. Tôi có tiền. Ông cứ ra giá đi. Ông phải giúp tôi, ông Lomax.” Ông ta rút ra một cọc tiền mặt từ túi quần bên trái rồi đứng đó, sẵn sàng để đếm. Lomax nhìn cọc tiền rồi nhìn ra sau lưng. “Vấn đề là gì?”

“Vợ tôi. Trong một giờ nữa có khả năng cô ta sẽ gặp một gã đàn ông tại một nhà nghỉ ở South Memphis. Tôi đã có số phòng và mọi thứ. Tôi chỉ cần ông đi cùng và chụp ảnh lúc chúng đến và đi.”

“Sao ông biết chuyện đó?”

“Nghe lén điện thoại. Cô ta làm việc chung với gã đó, và tôi đã nghi ngờ. Tôi là một người giàu có, ông Lomax ạ, và tôi nhất định phải thắng cuộc ly hôn. Tôi sẽ trả cho ông một ngàn bằng tiền mặt ngay bây giờ.” Ông ta nhanh nhẩu lột mười tờ giấy bạc rồi trao ra. Lomax cầm tiền. “Được rồi. Để tôi lấy máy ảnh đã.”

“Làm ơn nhanh lên. Mọi thứ đều bằng tiền mặt, được chứ? Không ghi chép.”

“Hợp ý tôi đấy,” Lomax nói khi bước về lại tòa nhà.

Hai mươi phút sau, chiếc Lincoln chầm chậm lăn bánh trong bãi đậu chật cứng của một Days Inn. Kilbury trỏ vào một căn phòng tầng hai ở phía sau nhà nghỉ, rồi trỏ vào một không gian đậu xe cạnh chiếc van Chevy nâu. Lomax cẩn thận lùi xe dọc chiếc van, rồi đậu chiếc Town Car của anh. Kilbury một lần nước trỏ vào căn phòng, một lần nữa nhìn đồng hồ, và một lần nữa nói với Lomax ông ta cảm kích các dịch vụ của anh như thế nào. Lomax nghĩ đến tiền. Một ngàn đô cho hai giờ làm việc. Không hề tệ. Anh lấy máy ảnh ra, bỏ cuộn phim vào rồi canh chỉnh ánh sáng. Kilbury sốt ruột nhìn, mắt ông đảo liên tục, hết từ chiếc máy ảnh sang đến căn phòng phía bên kia bãi đậu. Trông ông có vẻ đau đớn. Ông nói về vợ và những năm tháng tuyệt vời bên nhau. Và rồi tại sao? Tại sao cô ta lại làm vậy?

Lomax nghe ông nói và quan sát những dãy xe đậu phía trước. Anh nhấc máy ảnh lên. Anh đã không để ý đến cánh cửa của chiếc van nâu. Nó từ từ và lặng lẽ trượt mở phía sau lưng anh, cách anh chỉ một mét. Một gã đàn ông mặc áo khoác đen cao cổ, đeo găng tay đen, đang hụp thấp trong chiếc van và chờ đợi. Khi bãi xe im ắng, hắn nhảy ra khỏi chiếc van, giật mở cánh cửa sau bên trái của chiếc Lincoln rồi bắn ba phát vào sau ót của Eddie. Súng được gắn giảm thanh nên ở bên ngoài xe không ai nghe thấy được. Eddie gục chết trên bánh lái. Kilbury nhảy ra từ chiếc Lincoln, chạy nhanh đến chiếc van rồi phóng đi cùng với gã sát thủ