← Quay lại trang sách

Chương 30

Kỳ nghỉ ba ngày hàng năm tại Vail của Nathan Locke sau 15 tháng Tư đã bị hủy. Đó là do DeVasher và theo lệnh của Lazarov. Locke và Oliver Lambert đang ngồi ở văn phòng tầng năm, nghe DeVasher báo cáo chi tiết và cố gắng lắp ghép các mảnh miếng lại với nhau một cách bất thành.

“Vợ hắn đi rồi. Nói là về nhà thăm bà mẹ đang bị ung thư phổi. Nói là quá mệt mỏi với mấy cái chuyện tào lao của hắn. Trong những tháng qua, chúng tôi đã dò ra vài hục hặc nhỏ lúc này lúc nọ. Con bé có ca cẩm một chút về giờ giấc của hắn, nhưng chẳng có gì là nghiêm trọng cả. Thế rồi nó về nhà mẹ nó, nói là không biết khi nào trở lại. Mẹ ốm hả? Cắt phổi hả? Nhưng chúng tôi chẳng tìm ra được bệnh viện nào từng nghe đến cái tên Maxime Sutherland. Chúng tôi đã kiểm tra từng bệnh viện ở Kentucky, Indiana và Tennesse. Lạ phải không, các bồ tèo?”

“Coi nào, DeVasher,” Lambert nói. “Cách đây bốn năm vợ tôi đã phải làm phẫu thuật và chúng tôi đã bay đến bệnh viện tư Mayo Clinic. Theo như tôi biết, chẳng có luật nào quy định phải phẫu thuật ở cách nhà trong phạm vi một trăm năm mươi cây số cả. Vô lý quá. Và họ là những người có địa vị xã hội đấy nhé. Có lẽ bà ta đã nhập viện dưới một cái tên khác để tránh bị quấy rầy chăng? Chuyện đó diễn ra hà rầm ấy mà.”

Locke gật đầu đồng ý. “Hắn nói chuyện với vợ có nhiều không?”

“Con bé mỗi ngày gọi về một lần. Chúng trao đổi những chuyện bình thường, này nọ. Chuyện con chó. Chuyện mẹ của con bé. Chuyện ở văn phòng. Tối qua, con bé nói với hắn sẽ không trở về trong ít nhất hai tháng nữa.”

“Cô ta có bao giờ nói tên bệnh viện nào không?” Locke hỏi.

“Anh muốn nói gì vậy, DeVasher?” Lambert hỏi.

“Câm miệng đi, để tôi nói xong đã. Hãy giả thiết rằng đây là một cái mẹo để đưa con bé ra khỏi thành phố. Kéo nó ra xa khỏi chúng ta trước khi có chuyện gì đó xảy ra. Có theo kịp không đấy?”

“Anh nghĩ rằng hắn đang làm việc cho chúng?” Locke hỏi.

“Tôi được trả tiền để đưa ra những giả thiết kiểu đó, Nat ạ. Tôi nghĩ rằng hắn đã biết các điện thoại bị cài bọ, và đó là lý do vì sao hai vợ chồng hắn lại thận trọng như thế trên điện thoại. Tôi nghĩ rằng hắn đã đưa con bé ra khỏi thành phố là để bảo vệ nó.”

“Quá mong manh,” Lambert nói. “Giả thiết của anh quá mong manh.”

DeVasher bước qua bước lại sau chiếc bàn làm việc của ông. Ông nhìn xoáy vào Ollie rồi bỏ qua. “Khoảng mười ngày trước đây, ai đó đã thực hiện hàng đống những sao chép bất thường ở tầng bốn. Điều kỳ lạ là nó được thực hiện vào lúc ba giờ sáng. Theo ghi nhận của chúng tôi, khi việc sao chép diễn ra thì chỉ có hai luật sư đang ở đây. Mc Deere và Scott Kimble. Cả hai đều chẳng có công việc gì ở tầng bốn cả. Hai mươi bốn số truy cập đã được tiến hành. Ba thuộc về các hồ sơ của Lamar Quin. Ba thuộc về Sonny Capps. Mười tám truy cập còn lại thuộc về các hồ sơ của McDeere. Không có truy cập nào thuộc về Kimble cả. Victor Milligan rời văn phòng vào khoảng hai giờ ba mươi, lúc đó McDeere đang làm việc trong văn phòng của Avery. Trước đó hắn đã đưa anh ta ra sân bay. Avery nói anh ta đã khóa cửa, nhưng anh ta cũng có thể đã quên khóa. Hoặc là anh ta quên, hoặc là McDeere có chìa khóa. Tôi đã ép Avery chuyện này, và anh ta cảm thấy gần như chắc chắn mình đã khóa cửa. Nhưng đó là vào lúc nửa đêm và anh ta đã mệt rã rời mà lại còn đang vội nữa. Có thể là quên, đúng không? Nhưng anh ta đâu có cho phép McDeere trở vào văn phòng của anh ta để làm việc. Thực sự chẳng có việc gì quan trọng cả vì anh ta và McDeere đã dành nguyên cả ngày để làm việc với thuế thu nhập của Capps. Chiếc máy photocopy là máy số chín, và nó tình cờ cũng là chiếc máy ở gần văn phòng của Avery nhất. Tôi nghĩ ta có thể giả thiết một cách an toàn rằng chính McDeere là người thực hiện các sao chép.”

“Bao nhiêu?”

“Hai ngàn lẻ hai mươi.”

“Những hồ sơ nào?”

“Mười tám cái đều liên quan đến tiền thuế của các thân chủ. Giờ thì tôi tin chắc hắn sẽ biện bạch rằng đã hoàn tất việc khai thuế và chỉ đang sao chép lại toàn bộ. Nghe có vẻ hợp lý, đúng không? Chỉ có điều việc sao chép luôn luôn là công việc của thư ký. Hắn làm cái quái gì ở tầng bốn vào lúc ba giờ sáng mà lại in ra những hai ngàn bản? Và đó là vào buổi sáng ngày 7 tháng Tư đấy nhé. Có bao nhiêu cu cậu chỗ các anh hoàn thành xong công việc ngày 15 tháng Tư của họ và sao chép lại toàn bộ trước đó một tuần?”

Ông dừng đi qua đi lại và nhìn họ. Họ đang suy nghĩ. Ông đã thuyết phục được họ. “Và đây mới là điều ngạc nhiên. Năm ngày sau, thư ký của hắn đã đăng nhập vào cùng mười tám số truy cập đó trên máy photocopy của cô ta ở tầng hai. Cô ta đã sao ra chỉ khoảng ba trăm bản. Tôi không phải là luật sư nhưng tôi hình dung nó phải nhiều hơn thế. Các anh có nghĩ vậy không?”

Cả hai cùng gật đầu nhưng không nói năng gì. Họ là những luật sư, được huấn luyện để tranh cãi đến những năm mặt của mỗi vấn đề. Thế mà họ đã không nói năng gì. DeVasher mỉm cười nham hiểm rồi trở về với những bước chân qua lại của ông. “Giờ thì chúng ta đã phát hiện được hắn đang sao chép hàng ngàn trang giấy mà không thể giải thích. Cho nên, câu hỏi lớn là: Hắn đang sao chép những gì? Nếu hắn dùng số truy cập sai để sao chép thì hắn đang sao chép thứ gì vậy? Tôi không biết. Tất cả các văn phòng đều khóa cửa, dĩ nhiên ngoại trừ văn phòng của Avery. Cho nên tôi đã hỏi Avery. Anh ta có một dãy tủ hồ sơ bằng sắt, nơi anh ta cất giữ các hồ sơ thật. Anh ta luôn khóa chúng tại, nhưng anh ta và McDeere cùng các thư ký suốt ngày cứ lục lọi các hồ sơ này. Có thể anh ta đã quên khóa chúng lúc mải chạy đón máy bay. Câu hỏi lớn là: Tại sao McDeere lại sao chép các hồ sơ hợp pháp? Hắn sẽ không làm thế. Giống như tất cả những người khác ở tầng bốn, Avery có bốn tủ hồ sơ bằng gỗ chứa những thứ bí mật. Không ai được chạm vào chúng, đúng không? Luật của hãng mà. Thậm chí các đối tác khác cũng không được. Chúng được khóa chặt còn hơn cả các hồ sơ của tôi nữa đó. Cho nên McDeere không thể mó vào được nếu không có chìa khóa. Avery đã cho tôi xem các chìa khóa của anh ta. Nói anh ta không chạm đến các tủ hồ sơ này trong hai ngày trước ngày 7. Avery đã xem qua các hồ sơ này và mọi thứ có vẻ vẫn đâu vào đó. Anh ta không thể nói chúng có bị lục lọi hay không. Nhưng liệu các anh có thể nhìn vào một hồ sơ của mình rồi nói nó chưa bị sao chép không? Không, các anh không thể. Tôi cũng không thể. Cho nên sáng nay tôi đã rút các hồ sơ và đang sắp chuyển chúng đến Chicago. Họ sẽ kiểm tra dấu vân tay. Cũng phải mất khoảng một tuần.”

“Hắn không thể sao chép các hồ sơ đó được,” Lambert nói.

“Còn ai vào đây nữa, Ollie? Ý tôi là mọi thứ đều đã được khóa ở tầng bốn và tầng ba. Mọi thứ trừ văn phòng của Avery. Và giả sử hắn và Tarrance đang rủ rỉ với nhau thì thử hỏi hắn muốn gì từ văn phòng của Avery. Chắc chắn phải là các hồ sơ mật.”

“Anh cho rằng hắn đang có các chìa khóa?”

“Phải, tôi cho rằng hắn đã tạo ra được nguyên bộ từ xâu chìa khóa của Avery?”

Ollie khịt mũi rồi phát ra một tràng cười bực bội. “Chuyện đó không thể nào tin được. Tôi không tin chuyện đó.”

Mắt Đen nhìn xoáy vào DeVasher với một nụ cười khó chịu. “Hắn làm cách nào để có được bản sao của xâu chìa khóa?”

“Hỏi hay đấy. Và đó là câu hỏi mà tôi không thể trả lời. Avery đã cho tôi xem các chìa khóa. Hai xâu, mười một chìa. Hắn giữ chúng kè kè bên mình. Luật của hãng mà, đúng không? Điều mà một luật sư tốt được trông đợi phải làm. Khi anh ta thức thì các chìa khóa ở trong túi anh ta. Khi anh ta ngủ xa nhà thì các chìa khóa nằm ở dưới nệm.”

“Tháng trước anh ta có đi đâu không?” Mắt Đen hỏi.

“Quên chuyến đi gặp Capps ở Houston hồi tuần trước đi. Nó diễn ra quá gần đây. Trước đó nữa anh ta đã đến Grand Cayman trong hai ngày kể từ ngày 1 tháng Tư.”

“Tôi nhớ rồi,” Ollie nói rồi chăm chú lắng nghe.

“Anh nhớ được là tốt, Ollie. Tôi đã hỏi anh ta làm gì trong hai đêm đó. Anh ta nói chẳng làm gì cả, chỉ làm việc mà thôi. Có ngồi ở quán bar một đêm, nhưng cũng chỉ có thế. Thề rằng chỉ ngủ một mình trong cả hai đêm.” DeVasher nhấn một chiếc nút trên chiếc máy ghi âm xách tay. “Nhưng anh ta đã nói dối. Cú điện thoại này được gọi vào lúc chín giờ mười lăm ngày 2 tháng Tư, từ điện thoại trong phòng ngủ của Khu A.” Băng ghi âm bắt đầu phát:

“Ông ta trong phòng tắm.” Giọng nữ thứ nhất nói.

“Chị có sao không?” Giọng nữ thứ hai nói.

“Không sao. Ông ta có muốn cũng không thể.”

“Sao lâu vậy?”

“Chắc ông ta chưa tỉnh hẳn.”

“Ông ta có nghi ngờ gì không?”

“Không. Ông ta chẳng nhớ gì cả. Tôi nghĩ ông ta đang ê ẩm.”

“Chị sẽ ở đó trong bao lâu?”

“Tôi sẽ hôn tạm biệt ông ta khi ông ta tắm xong. Mười, hay có thể là mười lăm phút.”

“Được rồi. Nhanh lên nhé!”

DeVasher nhấn một chiếc nút khác rồi tiếp tục bước qua bước lại. “Tôi không có ý niệm họ là ai và tôi chưa đối chất với Avery. Chưa thôi. Anh ta làm tôi lo đấy. Vợ anh ta đã nộp đơn xin ly dị, và anh ta đang mất kiểm soát. Cứ đi săn gái miết. Đó là một sự vi phạm an ninh trầm trọng, và tôi ngờ rằng Lazarov sẽ nổi điên.”

“Cô ả nói như thể anh ta đang bị một cơn khó ở,” Locke nói.

“Chắc chắn rồi.”

“Anh nghĩ ả đã sao chép các chìa khóa?” Ollie hỏi.

DeVasher nhún vai rồi ngồi vào chiếc ghế da sờn tróc của ông. Vẻ vênh váo đã bay biến. “Điều đó cũng có khả năng, nhưng tôi ngờ lắm. Tôi đã suy nghĩ mãi về chuyện này suốt nhiều giờ đồng hồ. Cứ cho đó là một cô nàng mà anh ta lượm được ở quầy bar, rồi cả hai say xỉn. Thế thì họ phải lên giường vào lúc tối muộn. Làm cách nào ả lại sao chép được các chìa khóa vào lúc nửa đêm tại cái hòn đảo tí tẹo đó chứ? Tôi không nghĩ ả làm được.”

“Nhưng ả có đồng bọn,” Locke vặn lại.

“Phải, nhưng tôi vẫn không thể hình dung ra. Có thể chúng định chôm chiếc bóp của anh ta nhưng rồi có chuyện gì đó không ổn đã xảy ra. Anh ta mang theo vài ngàn đô tiền mặt và nếu anh ta xỉn thì ai biết được anh ta nói gì với chúng. Có thể ả định thó tiền vào phút chót rồi chuồn thẳng, nhưng ả lại không làm như vậy. Tôi không biết vì sao.”

“Còn giả thiết nào khác không?” Ollie hỏi.

“Tạm thời thì không. Tôi thích đưa ra giả thiết, nhưng sẽ là quá trớn nếu cho rằng hai ả đó lấy được các chìa khóa, cách chi đó sao chép được chúng lúc nửa đêm ngay trên đảo, mà anh ta không hề hay biết. Rồi ả đầu tiên lại còn leo trở vào giường cùng anh ta nữa chứ. Và tất cả những chuyện này cách chỉ đó lại liên quan đến McDeere và việc hắn sử dụng máy photocopy ở tầng bốn. Như thế thì đúng là quá rối.”

“Tôi đồng ý.” Ollie nói.

“Cái phòng kho thì sao?” Mắt Đen hỏi.

“Tôi đã nghĩ đến nó, Nat. Thực sự, tôi đã nghĩ về nó đến mất ăn mất ngủ. Nếu cô ả quan tâm đến các sổ sách trong phòng kho thì hẳn ả phải có mối liên kết nào đó với McDeere, hoặc một kẻ nào khác đang săm soi chúng ta. Nhưng tôi chẳng dò ra mối liên kết nào cả. Cứ cho là ả tìm ra được phòng kho và các sổ sách, thử hỏi ả biết phải làm gì với chúng vào lúc nửa đêm trong lúc Avery đang ngủ ở gác trên?”

“Ả có thể đọc chúng.”

“Phải rồi, ả là một người rất đặc biệt. Hãy nhớ rằng ả phải uống cùng Avery nếu không thì anh ta đã nghi ngờ rồi. Cho nên ả sẽ phải uống và làm tình suốt cả đêm. Ả sẽ chờ cho anh ta ngủ, rồi đột nhiên trong ả chợt xuất hiện cái nhu cầu phải xuống gác để đọc các sổ sách ngân hàng. Không ổn đâu, các bồ tèo.”

“Có thể ả làm việc cho FBI,” Ollie hãnh diện nói.

“Không, ả không thể nào.”

“Tại sao?”

“Đơn giản thôi, Ollie. FBI sẽ không làm việc đó vì việc khám xét là bất hợp pháp và khi đó các sổ sách sẽ không được công nhận. Và còn có một lý do tốt hơn thế nữa.”

“Lý do gì?”

“Nếu ả là Fibbie thì hẳn là ả đã không dùng điện thoại. Không một tay chuyên nghiệp nào lại đi gọi cú điện thoại đó. Tôi nghĩ ả chỉ là một con móc túi.”

Lý thuyết móc túi này được trình bày với Lazarov, người đã móc hàng trăm chiếc túi nhưng không tài nào nghĩ ra lý thuyết nào hay hơn. Ông ra lệnh thay toàn bộ các ổ khóa ở các tầng ba và bốn, cùng tầng hầm và cả hai căn hộ chung cư ở Grand Cayman. Ông ra lệnh tìm kiếm tất cả các thợ khóa trên đảo – sẽ đông lắm đấy, ông nói vậy – để xác định có ai sao chép khóa vào tối ngày 1 tháng Tư hay sáng sớm ngày 2 tháng Tư hay không. Hãy hối lộ chúng, ông dặn DeVasher. Cho chúng một ít tiền còm, chúng sẽ phun ra hết. Ông ra lệnh kiểm tra dấu vân tay trên các hồ sơ từ văn phòng của Avery. DeVasher hãnh diện trình bày rằng ông đã khởi sự việc đó rồi. Các dấu vân tay của McDeere có trong hồ sơ của hiệp hội luật sư bang.

Lazarov còn ra lệnh treo giò sáu mươi ngày đối với Avery Tolar. DeVasher gợi ý rằng sự bất thường đó có thể sẽ đánh động McDeere. Tốt thôi, Lazarov nói, bảo hắn nhập viện vì đau ngực. Hai tháng nghỉ ngơi, theo lệnh của bác sĩ. Bảo Tolar xem xét lại hành vi của hắn. Khóa cửa văn phòng của hắn lại. Giao McDeere cho Victor Milligan. “Ông nói ông đã có một kế hoạch hay để khử McDeere?” DeVasher hỏi.

Lazarov hỉnh mũi lên, cười toe. “Phải. Tôi nghĩ chúng ta sẽ sử dụng chiếc máy bay. Chúng ta sẽ cử hắn xuống các đảo trong một chuyến đi công tác nhỏ, và tại đó sẽ xảy ra cái vụ nổ bí ẩn kia.”

“Thí luôn hai phi công sao?” DeVasher hỏi.

“Phải. Tôi muốn vụ đó phải trông ổn.”

“Đừng làm việc đó ở bất cứ nơi đâu quanh Cayman. Sự trùng hợp là quá lớn.”

“Thôi được, nhưng nó phải xảy ra trên biển. Ít mảnh vỡ hơn. Chúng ta sẽ sử dụng một phương tiện khủng, do đó chúng sẽ chẳng tìm được gì nhiều.”

“Chiếc máy bay đó mắc tiền lắm đấy.”

“Phải. Tôi sẽ tính tiền Joey trước tiên.”

“Ông là sếp mà. Xin hãy cho tôi biết tôi có thể giúp được gì dưới đó.”

“Dĩ nhiên. Hãy bắt đầu nghĩ đến việc đó đi.”

“Còn người của ông ở Washington thì sao?” DeVasher hỏi.

“Tôi đang chờ đây. Tôi đã gọi đến New York sáng nay, và họ vẫn đang kiểm tra. Chúng ta sẽ biết trong vòng một tuần nữa.”

“Có tin tức đó thì sẽ dễ ra tay hơn.”

“Ừ. Nếu câu trả lời là có thì ta sẽ phải khử gã đó trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ.”

“Tôi sẽ bắt đầu lên kế hoạch.”

Văn phòng yên tĩnh vào sáng thứ Bảy. Một ít đối tác và một chục cộng sự đang lảng vảng với quần kaki và áo polo. Không có thư ký nào. Mitch kiểm tra thư và đọc ghi các trao đổi. Sau hai giờ, anh rời khỏi hãng. Đã đến lúc đi thăm Ray.

Trong bốn tiếng đồng hồ, anh lái sang đông trên đường Xuyên bang 40. Lái như một gã điên. Lái với tốc độ bảy mươi cây số, rồi một trăm bốn mươi cây số. Anh phi vào mọi điểm dừng và trạm cân. Anh thực hiện nhiều cú thoát đột ngột khỏi làn đường bên trái. Anh dừng lại ở một đường hầm rồi chờ đợi và quan sát. Anh không hề thấy họ. Chưa lần nào anh để ý thấy có chiếc xe hơi, xe tải hay xe van nào khả nghi. Anh thậm chí quan sát vài chiếc xe mười tám bánh. Chẳng có gì cả. Họ đơn giản không có mặt ở phía sau, nếu có thì anh đã nhận ra rồi.

Chiếc túi thăm nuôi chứa những cuốn sách và bao thuốc được tổ kiểm tra cho qua và anh được chỉ định đến khoang thứ chín. Vài phút sau, Ray ngồi xuống bên kia tấm ngăn dày.

“Chú ở đâu bấy lâu nay?” anh hỏi với một chút gắt gỏng. “Chú là người duy nhất trong cả thế giới này còn viếng thăm anh, thế mà đây chỉ mới là lần thứ hai trong bốn tháng.”

“Em biết. Hiện đang là mùa thuế nên em bị sa lầy. Em sẽ cố gắng hơn. Nhưng em có viết cho anh mà.”

“Phải rồi, mỗi tuần một lần anh nhận được đôi ba dòng. ‘Chào Ray. Chiếc giường thế nào? Thức ăn ra sao? Mấy bức tường sao rồi? Tiếng Hy Lạp hay tiếng Ý đến đâu? Em ổn. Abby rất tuyệt. Con chó bị bệnh. Em phải chạy đây. Sẽ sớm thăm anh. Yêu anh, Mitch.’ Chú viết thư cảm động ghê, em trai. Anh yêu quý các lá thư của chú lắm đó.”

“Anh viết cũng đâu có hơn gì.”

“Anh biết phải nói gì chớ? Đám cai ngục đang bán ma túy ư? Một thằng bạn bị đâm 30 nhát ư? Anh thấy một thằng nhóc bị cưỡng hiếp ư? Coi nào, Mitch, ai mà thích nghe mấy chuyện đó chứ?”

“Em sẽ cố gắng hơn.”

“Mẹ sao rồi?”

“Em không biết. Từ Giáng sinh đến giờ em chưa về.”

“Mitch, anh đã yêu cầu chú kiểm tra xem mẹ thế nào mà. Anh thấy lo cho bà ấy. Nếu cái lão lưu manh đó còn đánh đập bà ấy thì anh muốn chuyện đó phải chấm dứt. Anh mà ra khỏi đây thì đích thân anh sẽ chấm dứt chuyện đó.”

“Anh sẽ làm vậy.” Đó là một khẳng định chứ không phải là câu hỏi. Mitch đặt ngón tay lên môi và chầm chậm gật đầu. Ray chồm tới, tì lên cùi chỏ, mắt anh nhìn chằm chặp.

Mitch nhỏ nhẹ nói. “Español. Hable despacio.”. Ray khẽ mỉm cười.

“Cuándo?”

“La semana próxima.”

“¿Qué día?”

Mitch suy nghĩ một giây. “Martes o miércoles.”

“¿A qué hora?”

Mitch mỉm cười, nhún vai rồi nhìn quanh.

“Abby thế nào?” Ray hỏi.

“Cô ấy ở Kentucky từ vài tuần nay. Mẹ cô ấy bị bệnh.” Anh nhìn Ray rồi chầm chậm nhép miệng câu “Hãy tin em.”

“Bà ta bị gì vậy?”

“Bị cắt một lá phổi. Ung thư. Cả đời bà ấy nghiện thuốc lá nặng. Anh cũng nên bỏ thuốc đi.”

“Anh sẽ bỏ khi nào ra khỏi đây.”

Mitch mỉm cười, từ tốn gật đầu. “Anh còn ngồi ít nhất bảy năm nữa đấy.”

“Phải, không thể nào thoát ra ngoài. Thi thoảng cũng có vài người thử, nhưng họ luôn bị bắn hoặc bị bắt lại.”

“James Earl Ray đã leo được qua tường, đúng không?” Mitch chầm chậm gật đầu khi nêu ra câu hỏi. Ray mỉm cười, nhìn vào mắt em trai.

“Nhưng anh ta đã bị bắt lại. Họ đưa đến một đám những gã sơn cước cùng với lũ chó săn, và hậu quả khá là tệ hại. Anh nghĩ sẽ chẳng có ai vượt núi mà sống sót nổi sau khi leo qua tường.”

“Ta nói chuyện gì khác đi,” Mitch nói.

“Ý hay đấy.”

Hai cai ngục đứng cạnh cửa sổ sau dãy khoang của khách thăm. Họ đang thích thú xem một xấp ảnh con heo chụp bằng máy ảnh lấy liền Polaroid. Có ai đó đã tìm cách tuồn các tấm ảnh màu này qua trạm kiểm tra. Họ khúc khích cười với nhau, chẳng ngó ngàng đến khách thăm. Bên phía các tù nhân, một cai ngục duy nhất đang ngái ngủ dắt cây gậy đi qua đi lại một cách hiền hòa.

“Khi nào thì anh mới có cháu gọi bằng bác đây?” Ray hỏi.

“Có lẽ vài năm nữa. Abby muốn một trai một gái, và nếu như em muốn thì cô ấy sẽ khởi đầu luôn bây giờ, nhưng em chưa sẵn sàng.”

Gã cai ngục bước đến sau lưng Ray, nhưng không nhìn. Hai anh em nhìn nhau, cố đọc những ánh mắt của nhau.

“¿Adónde voy?” Ray hỏi nhanh.

“Perdido Beach Hilton. Abby và em đã đến quần đảo Cayman hồi tháng rồi. Hai đứa em đã có một kỳ nghỉ tuyệt vời.”

“Chưa từng nghe nơi này. Nó ở đâu vậy?”

“Ở Caribe, phía dưới Cuba.”

“¿Que es mi nombre?”

“Lee Stevens. Đi lặn ống thở một chút. Biển ở đó đẹp lộng lẫy. Hãng có hai căn hộ chung cư ngay tại bãi Seven Mile. Bọn em chỉ phải trả tiền đi máy bay mà thôi. Tuyệt.”

“Đưa anh cuốn sách. Anh muốn đọc về nơi đó. ¿Pasaporte?”

Mitch gật đầu, mỉm cười. Gã cai ngục bước đến sau lưng Ray và dừng lại. Hai anh em nói về thuở xa xưa ở Kentucky.

Lúc hoàng hôn, anh đậu chiếc BMW phía bên tối của một trung tâm mua sắm ở ngoại ô Nashville. Anh để lại chiếc chìa khóa trong công tắc rồi khóa cửa xe. Anh có một chìa dư trong túi. Đám đông những người bận rộn mua sắm dịp Phục Sinh lũ lượt đi qua những cánh cửa của Sears. Anh hòa vào dòng người. Vào đến bên trong, anh lẻn vào một gian hàng y phục nam và bắt đầu săm soi các đôi vớ và quần lót, mắt dòm chừng cánh cửa. Không có ai khả nghi. Anh rời Sears, bước nhanh vào đám đông đang đi xuôi theo trung tâm mua sắm. Một chiếc áo len bằng vải cotton đen treo trong tủ kính của một gian hàng y phục nam thu hút sự chú ý của anh. Anh tìm ra nó ở bên trong, ướm thử và quyết định mặc nó khi ra ngoài. Anh rất ưng nó. Trong khi người thu ngân đặt tiền thối lên quầy, anh đọc lướt qua các trang vàng để tìm số taxi. Trở ra trung tâm mua sắm, anh đi thang cuốn lên tầng một, nơi anh tìm thấy một điện thoại trả tiền. Chiếc taxi sẽ đến trong mười phút nữa.

Lúc này trời đã tối, một buổi tối đến sớm thật dễ chịu trong mùa xuân phương nam. Từ một quán bar duy nhất, anh dòm chừng cánh cửa ra vào trung tâm. Anh chắc chắn mình không bị đeo bám tại trung tâm mua sắm. Anh điềm nhiên bước đến chiếc taxi. “Brentwood,” anh nói với người tài xế rồi biến vào băng ghế sau.

Brentwood chỉ cách hai mươi phút. “Khu căn hộ Savannah Creek,” anh nói. Chiếc taxi dọ dẫm đi qua khu phức hợp ngổn ngang và tìm ra số 480E. Anh thả một tờ hai mươi lên ghế rồi mở toang cửa xe. Phía sau một chiếc cầu thang xoắn ngoài trời, anh tìm ra cánh cửa của căn hộ 480E. Nó bị khóa.

“Ai đó?” một giọng nữ bồn chồn cất lên từ bên trong. Anh nghe giọng nói ấy mà cảm thấy bủn rủn.

“Barry Abanks,” anh nói.

Abby giật tung cửa và tấn công. Họ hôn nhau mãnh liệt khi anh bế cô lên, bước vào trong, sập cửa lại bằng chân. Đôi tay anh hoạt động như điên dại. Trong chưa đầy hai giây, anh đã lột chiếc áo len của cô qua đầu, cởi khóa chiếc nịt ngực, kéo trượt chiếc váy lỏng của cô xuống đến tận gối. Họ tiếp tục hôn nhau. Một bên mắt anh lo lắng nhìn chiếc giường xếp rẻ tiền đang chờ chực. Hoặc là nó, hoặc là ở trên sàn. Anh nhẹ nhàng đặt cô xuống giường rồi cởi quần áo của anh.

Chiếc giường quá ngắn mà lại còn kẽo kẹt. Tấm đệm bằng cao su xốp chỉ dày năm phân bọc bằng tấm trải giường. Các chân giường kim loại ở bên dưới đâm ngược lên rất nguy hiểm.

Nhưng McDeere không để ý đến nữa.

Mọi thứ đều tối đen và thuận lợi khi đám đông mua sắm thưa thớt dần. Một chiếc bán tải Chevrolet Silverado sáng loáng trờ tới phía sau chiếc BMW rồi dừng lại. Một người đàn ông nhỏ thó với mái tóc cắt ngắn và tóc mai để dài nhảy khỏi xe. Hắn nhìn quanh quất rồi nhét một chiếc tua vít nhọn vào cánh cửa đã khóa của chiếc BMW.

Nhiều tháng sau, lúc bị kết án, hắn sẽ nói với thẩm phán rằng hắn đã lấy trộm hơn ba trăm chiếc xe hơi và bán tải ở tám bang; hắn có thể đột nhập vào xe và khởi động máy còn nhanh hơn ông thẩm phán với các chìa khóa của ông; và thời gian trung bình của hắn chỉ là hai mươi tám giây. Ông thẩm phán vẫn không thấy ấn tượng. Thi thoảng, vào một ngày rất may mắn, một gã ngốc sẽ bỏ lại chìa khóa trong xe, và thời gian trung bình của hắn sẽ còn giảm xuống một cách đầy kịch tính. Một tay đi thám thính đã tìm thấy chiếc xe của anh với chìa khóa cắm bên trong. Hắn mỉm cười và vặn khóa. Chiếc Silverado phóng đi, theo sau là chiếc BMW. Gã Bắc Âu nhảy ra khỏi chiếc van và nhìn quanh. Việc đó diễn ra quá nhanh, còn hắn thì lại quá chậm. Chiếc bán tải mới vừa trờ tới, chắn tầm nhìn của hắn trong giây lát thì, hấp!, chiếc BMW đã đi khỏi. Nó bị trộm! Ngay trước mũi hắn. Hắn đá vào chiếc van. Giờ thì biết giải thích sao đây? Hắn leo trở vào chiếc van, ngồi chờ McDeere.

Sau một giờ trên trường kỷ, nỗi đau của sự cô đơn đã nguôi ngoai. Họ nắm tay nhau và hôn nhau. Trong phòng ngủ, Mitch lần đầu tiên nhìn thấy cái mà, giữa ba người với nhau, họ gọi là “Hồ sơ Bendini.” Anh đã thấy các ghi chú và tổng kết của Tammy, nhưng chưa thấy các tài liệu thực. Căn phòng trông như một bàn cờ với những dãy giấy tờ xếp thành từng chồng ngay ngắn. Trên hai trong số các vách tường, Tammy đã dán những tờ giấy trắng rồi phủ lên chúng những ghi chú và sơ đồ. Một ngày nào đó sớm thôi, anh sẽ dành hàng giờ trong căn phòng này, nghiên cứu các giấy tờ và chuẩn bị cho phiên tòa của anh. Nhưng không phải đêm nay. Vài phút nữa anh sẽ để cô ở lại và quay trở về trung tâm mua sắm.

Cô đưa anh trở ra chiếc trường kỷ