Phần IV Những tản mạn về Sài Gòn xưa-
Chuyện phiếm về ba cái “Long mạch” của Sài Gòn.
- Võ Tòng đả hổ giữa Sài Gòn.
- Sài Gòn một thuở.
- Những cuộc phiêu lưu tình ái của Hắc công tử, Bạch công tử.
- Gặp người tình nhỏ, tuổi Rồng của Bạch công tử.
- Chợ Hôm, Xóm Củi, Cầu Hoa.
- Con đò Thủ Thiêm.
- Sài Gòn thời Trần.
- Sài Gòn phố cũ, đường xưa.
- Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa.
- Đua chó đuổi mèo trò chơi Sài Gòn xưa.
- Đại Thế Giới từ thiên đàng đến địa ngục.
- Dân nhà giàu Sài Gòn xưa chơi xe.
Chuyện phiếm về ba cái “Long mạch” của Sài Gòn
Long mạch - mạch rồng - thuộc khoa địa lý học Đông phương, được truyền tụng và phát triển mạnh ở Trung Hoa từ thời xa xưa. Ở ta, các truyền thuyết về long mạch phần nhiều đượm tính hoang đường, song vẫn còn nhiều người tin và từ đó nổi lên chuyện tìm long mạch của Sài Gòn từ hơn 300 năm trước cho đến thời cận đại...
Long mạch của Wang Tai
Năm 1859, người Pháp chiếm Sài Gòn và bắt đầu xây dựng thành phố. Họ vẽ họa đồ đường nội ô và các công trình trọng điểm, đến năm 1868 giao cho một nhân vật người Hoa đứng ra thầu xây dựng: ông Wang Tai, còn có tên phiên âm khác là Zhang Hongtai - âm Hán Việt: Trương Hoàng Phái.
Trương Hoàng Phái còn có tên khác là Zhang Peilin (Trương Phát Lâm), vốn là người tỉnh Quảng Đông (Trung Hoa) chạy nạn Mãn Thanh sang Việt Nam trước năm 1850 và lập nghiệp tại vùng đất Bến Nghé. Sở dĩ người Pháp tin tưởng Wang Tai là do họ thấy tòa nhà của ông này xây dựng tọa lạc tại ngã ba sông Bến Nghé và rạch cầu Sâu (đầu con rạch này thuở ấy có hầm nhốt cá sấu để xẻ thịt bán như thịt bò, thịt lợn). Đó là tòa nhà ba tầng theo lối Singapore, Wang Tai đã xây dựng từ trước khi người Pháp tới. Thời ấy, đây là tòa nhà lớn, sang trọng và bề thế số một của Sài Gòn (về vị trí tòa dinh thự này, ngày nay bạn có thể nhận ra: đó là chỗ trụ sở Hải quan TP Hồ Chí Minh, con rạch cầu Sấu giờ đã biến thành đại lộ Nguyễn Huệ). Ngoài danh tiếng của người giàu nhất nhì Sài Gòn - Bến Nghé thời ấy, Wang Tai còn là nhà thầu xây dựng có học nghề từ Singapore (Wang Tai còn kinh doanh nhiều ngành khác như vật liệu xây dựng, chủ rạp hát). Theo tài liệu xưa còn lưu lại thì Wang Tai đã tham gia xây dựng bưu điện Sài Gòn, nhà thờ Đức Bà và tòa nhà Tổng ngân khố (kho bạc hiện còn tồn tại trên đường Nguyễn Huệ).
Năm 1868, trong khi chờ xây cất trụ sở, Hội đồng thị xã Sài Gòn đã đặt vấn đề mua lại tòa nhà nổi trên của Wang Tai với giá khá cao, nhưng ông này nhất quyết không bán. Một thương nhân người Hoa dám cưỡng lại lệnh của chính quyền bảo hộ Pháp quả là chuyện lạ. Nhiều người lo ngại cho Wang Tai, nhưng ông vẫn giữ được ý định và chỉ bằng lòng cho thuê một phần nhà để Hội đồng thị xã (Xã Tây) làm việc tạm. Lý do của vụ này khá bí ẩn, mãi về sau mới được tiết lộ: Wang Tai không thể bán ngôi nhà đó, bởi vì nó được xây trên long mạch! Thì ra, khi từ Quảng Đông di cư sang Bến Nghé, chạy từ đầu rạch cầu Sâu dọc theo bờ sông đến quá chỗ mà sau này Pháp cho dựng lên cột cờ Thủ Ngữ, được gọi là “Long Địa” (đất rồng). Lập nghiệp nơi đó sẽ phát to. Đặc biệt là khu đất nằm ở ngay góc bờ sông, Bến Nghé với rạch cầu Sấu cực tốt, nó chính là long mạch (vị trí hiện nay: bến Bạch Đằng - Nguyễn Huệ)! Wang Tai đã cho xây ngay bờ sông cách rạch Cầu Sấu 200m (cạnh cột cờ Thủ Ngữ sau này) rạp hát Quảng Đông, còn tòa nhà đúng long mạch thì có tên Tây là Hotel Wang Tai.
Vô tình, Wang Tai làm ăn càng ngày càng phát đạt lên nên ông càng tin tưởng vào thế đất được thầy địa lý chỉ. Người Pháp rất “cay” vụ Wang Tai không nhượng nhà. Họ cố tìm mọi cách để ép ông, nhưng vẫn không lay chuyển được. Cuối cùng họ phải hạ độc thủ: cuối năm 1879, Pháp vu cho Wang Tai tội phải liên đới chịu trách nhiệm về vụ một số người Hoa trong bang hội Quảng Đông dính líu tới tổ chức bị cấm Thiên Địa hội. Trước sức ép quá nặng của Pháp, năm 1880 Wang Tai đành phải nhượng lại Hotel Wang Tai. Người Pháp lập tức cho lấp con rạch cầu Sấu, biến thành Boulevard Churner (đại lộ Nguyễn Huệ sau này) và san bằng ngôi nhà ba tầng đồ sộ!
Long mạch của Quách Đàm
Thông Hiệp Quách Đàm cũng là một Hoa kiều, người đã làm giàu từ hai bàn tay trắng, với đôi quang gánh mua ve chai. Ông này khi bắt đầu có tiền đã nhờ thầy địa lý chỉ cho nơi có long mạch để xây nhà. Nơi đó chính là rạch Chợ Lớn (nằm ở khu vực đường Châu văn Liêm và Hải Thượng Lãn Ông ngày nay), xưa có ngã ba sông. Trọn đoạn đường từ cầu Chà Và chạy dọc theo đường Hải Thượng Lãn Ông tới bến xe Chợ Lớn và một nhánh rẽ chạy thẳng từ trước Bưu điện quận 5 theo dọc đường Châu văn Liêm hiện nay tạo thành một đoạn sông ba nhánh mà thầy địa lý gọi là Lưu hà phi long (nước chảy như rồng bay), về sau, khi nghe tin chính quyền thành phố có ý định lấp hai nhánh sông để mở đường bộ, ông Quách Đàm đã phản đối quyết liệt, thậm chí đã phải xây tặng Nhà nước bảo hộ ngôi chợ Bình Tây để đổi, nhưng cũng không giữ được cái long mạch trước nhà. Nghe nói do long mạch bị tắc, nên chỉ mười năm sau, tỷ phú Quách Đàm đã thân bại danh liệt, tài sản bị khánh kiệt...
Long mạch của Nguyễn văn Thiệu
Tưởng đâu chuyện long mạch đã chết theo Wang Tai và Quách Đàm, nào ngờ nó vẫn còn đó cho đến tận thập niên 60. Thời Nguyễn văn Thiệu lên làm Tổng thống ngụy Sài Gòn, việc đầu tiên ông ta làm là nhờ thầy địa lý (rước từ Đài Loan sang) xem lại “thế đất” của “Phủ đầu rồng” (từ ngữ trên báo chí Sài Gòn gọi Phủ Tổng thống ngụy tức Dinh Độc Lập, ngày nay là Dinh Thống Nhất).
Chẳng biết thầy địa lý nói sao với đại tá Y (viên sĩ quan này là chuyên gia về chiêm tinh đẩu số riêng cho Thiệu) mà ngay sau đó, Thiệu sai Y đứng ra trông coi xây dựng một kỳ đài ở chỗ Hồ Con Rùa ngày nay. Về danh nghĩa thì đó là Công trường quốc tế nhằm lập bia (con rùa đội bia) ghi công các quốc gia đã đóng góp giúp cho chế độ Việt Nam cộng hòa. Nhưng kỳ thực, tấm bia cao gần 20 m nằm trên lưng con rùa, phía trên cũng có hình bông hoa đang nở, chính là... cái đuôi con rồng!
Tại sao là đuôi rồng? Chính viên đại tá Y sau đó đã thú nhận: Thiệu rất tin dị đoan, ông ta nghe lời thầy địa lý Đài Loan nói rằng “Thủ đầu rồng” nằm trên một long mạch ngầm, mà đuôi chính là chỗ Công trường Quốc tế (hồ Con Rùa). Chỗ ấy ngay từ ngày người Pháp xây Dinh Norodom (tiền thân của Dinh Độc Lập), họ đã cho dựng một tháp nước (Chateau d’eau de Saigon). Đến năm 1921, tháp bị phá bỏ... Sự phá bỏ tháp đồng nghĩa với chặt đứt cái đuôi (mạch) rồng. Do vậy, bằng mọi giá phải lắp lại cái đuôi cho nó (cái đuôi xòe trên lưng con rùa ở hồ Con Rùa), cũng có nghĩa là thêm cái đuôi cho đầu rồng (ám chỉ chế độ Thiệu), giúp cho nó vẫy vùng.
Vẫy vùng đâu không thấy, chỉ thấy từ ngày khánh thành cái “đuôi rồng” ấy, chế độ Thiệu càng bị lung lay (nội bộ xâu xé nhau, nhân dân vùng tạm chiếm nổi lên chống đối mạnh) và trước những đòn tấn công như bão táp của lực lượng cách mạng, phải sụp đổ vào tháng 4 năm 1975!
Võ Tòng đả hổ giữa Sài Gòn
Cách nay hơn 200 năm, Sài Gòn là vùng đất hoang sơ. Năm ấy cũng là một năm Dần (Tân Dần - 1771), vào lúc nửa đêm, tại làng Tân Kiêng (nay là khu Chợ Quán, thuộc Q.5 - TP Hồ Chí Minh) bỗng nổi lên tiếng trống chiêng inh ỏi, với tiếng la thất thanh của lương dân bảo động: “Hổ về! Hổ về!”. Đó là một “ông Hổ” thật, to lớn, hung dữ, đang đói khát tìm mồi... Và đó không phải là lần đầu, mà như một thói quen, thỉnh thoảng hổ lại mò về quậy phá con người giữa chốn đô thành...
Chung quanh ngôi đình Tân Kiểng, Chợ Quán ngày trước là rừng, với kênh rạch chằng chịt, nguyên có tên là làng Tân Cảnh, nhưng do kỵ húy tên của Hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long) nên phải gọi trại ra là Tân Kiểng (địa danh bến đò Long Kiểng và vài nơi khác ở Sài Gòn có chữ Cảnh đều phải đổi ra như vậy). Trước khi Nguyễn Ánh bị anh em nhà Tây Sơn đánh đuổi chạy vào Nam, tới đóng đô ở Gia Định (Sài Gòn ngày nay) vào năm 1772, thì một năm trước đó, ngay tại làng Tân Kiểng này đã xảy ra một cuộc thư hùng có một không hai, giữa hai nhà sư và con mãnh hổ từng gây khiếp đảm nhiều người.
Thuở ấy, nói chung toàn vùng Sài Gòn còn rất hoang vu. Khu làng Tân Kiểng nằm giáp ranh giữa Bến Nghé và Đề Ngạn (Chợ Lớn), nên có phần đông đúc dân cư hơn, nhưng chung quanh còn nhiều rừng cây, sông ngòi chằng chịt, nên cứ đêm đến là dân làng ai về nhà nấy, cửa đóng then cài. Vào một đêm tối trời cuối tháng Chạp, một phụ nữ làm nghề vựa lá lợp nhà, dậy sớm để nấu cơm cho chồng mang theo ghe đi chở lá, sau khi tiễn chồng ra bến xong, chị ta quay lên gian nhà nhỏ của mình ở đầu chợ Tân Kiểng. Bỗng chị đứng khựng lại, mồm há to định hét lên mà chẳng phát nên lời. Trước mặt chị lù lù một “ông ba mươi” đang chiếu cặp mắt như hai hòn lửa đỏ về phía chị! Con mãnh thú mỗi lúc càng tiến đến gần hơn. Vừa lúc ấy có một nhóm người xách đèn đi chợ sớm, họ vừa đi vừa nói chuyện làm kinh động, nên con mãnh hổ hơi chùn bước. Song, do quá sợ khi nhìn thấy cảnh tượng trước mắt, đám đông thay vì hô to cho hổ sợ thì lại ù té chạy. Hổ phóng tới và loáng cái đã mất dạng trong đám cành lá rậm rạp. Nó đã kịp vồ và mang theo người đàn bà xấu số kia vào rừng.
Câu chuyện hổ vồ người giữa xóm dân cư làm kinh động cả vùng, chẳng những về đêm, mà ngay cả ban ngày, hầu như ai nấy đều nơm nớp lo sợ, chỉ đi thành đoàn, ít khi dám đi một mình. Làng xã cũng sợ hãi không kém, họ tổ chức những toán tráng đinh đi tuần đêm với mõ chiêng, cứ nghe động tịnh hơi cọp là đánh chiêng trống lên inh ỏi. Vậy mà nào có ngăn được tai họa. Vào tháng Giêng năm ấy, cũng tại địa điểm họp chợ, hổ lại về hai đêm liền, suýt nữa sát hại thêm nhân mạng. Phủ, huyện đã có thông báo treo giải thưởng khá lớn cho ai diệt trừ hổ dữ, nhưng đã qua nhiều tháng vẫn chẳng ai dám ra tay. Vào cuối tháng 4, lại xảy ra một tai nạn thảm khốc nữa. Lần này, hổ táo tợn hơn, đã xông thẳng vào một nhà ở phía nam chợ Tân Kiểng và vồ hai đứa trẻ đang nằm ngủ trên giường.
Nỗi khiếp hãi đã lên tới tột cùng! Người dân ở chợ Tân Kiểng đã bắt đầu tính đến việc bỏ nhà đi lánh nạn. Đúng lúc đó có một nhà sư chùa Kim Tiên (chùa nằm ở bên kia cánh đồng bìa làng Tân Kiểng) xuất hiện và xin diệt hổ. Đó là sư Tăng Ân, không phải người địa phương, mà cư ngụ ở một ngôi chùa vùng Cần Giuộc đến tạm cư ở chùa Kim Tiên để bốc thuốc trị bệnh cho bá tánh. Ông xưa nay chỉ chuyên nghề thuốc, chưa tỏ rõ nghề võ, nên khi nghe ông xin đả hổ, mọi người đều không tin tưởng, lại có phần lo ngại. Họ khuyên nhà sư không nên liều lĩnh, song ông vẫn quyết tâm chuẩn bị đón hổ dữ.
Theo lệ thường, cứ vào canh ba thì hổ từ cánh rừng bên cạnh mò ra chợ. Đêm đó cũng thế, nó nhanh như chớp, thoắt cái đã nhảy từ bờ mương cạn qua trước khu nhà vựa lá. Nơi đó có một “con mồi” đang nằm trùm chăn ngủ say. Hổ nhẹ nhàng bước tới, mắt long lên, móng vuốt vươn ra chuẩn bị hành động. Chợt... vút một cái, cả khối đen đang trùm chăn lao bắn về phía trước với sức mạnh tối đa. Bị bất ngờ, hổ ta vươn vuốt chụp vào vật đang tấn công nó. Nhưng đòn tấn công đó chỉ là đòn giả, khi đến gần, bóng đen lạng sang một bên, đồng thời tung ra một đòn cầm nã thủ cực kỳ dũng mãnh. Đòn vừa ra đó đã trúng ngay đích, xé toạc một mảng da ở cổ con hổ dữ, làm cho nó kêu rông lên đau đớn. Càng đau, hổ càng hung tợn, lồng lên phản công ác liệt.
Cuộc tử chiến chỉ chấm dứt sau khi có thêm một người nữa xuất hiện tiếp tay. Hổ bị hạ tại chỗ. Mọi người vui mừng vây quanh hai con người tài ba đó. Thì ra, một là nhà sư Tăng Ân, còn người kia chính là Trí Năng, đồ đệ của ông. Cả hai vừa cho dân làng mục kích một trình độ võ công ít ai ngờ được. Những chiêu thức đúng là võ thuật Thiếu Lâm tự. Tuy nhiên, chính sư Tăng Ân đã tiết lộ, võ công của ông và đồ đệ chính là võ Việt do ông đã dày công nghiên cứu và luyện thành.
Từ hôm đó, chẳng riêng vùng Tân Kiểng, mà khắp Gia Định thành, ai cũng ca tụng nhà sư Tăng Ân đả hổ, họ ví ông tài nghệ siêu phàm như Võ Tòng trong truyện Thủy Hử đời Tống.
Khi Nguyễn Ánh lánh nạn Tây Sơn vào Sài Gòn, đã đích thân đi tìm nhà sư, để cầu ông này giúp một tay. Tương truyền rằng sư Tăng Ân chỉ tiếp Nguyễn Ánh một lần, khéo léo từ chối lời mời, rồi sau đó tìm cách lánh mặt luôn, dù đã được hứa hẹn nhiều điều lợi lộc.
Ngày trước, Sài Gòn chưa có hệ thống cống thoát nước, nhưng dưới nền chùa Kim Tiên đã có một đường hầm lớn, nối từ đó qua tận chùa Gia Điền ở Bàu Sen (thời đó, vùng bệnh viện Chợ Quán - Tân Kiểng nằm giữa một cánh đồng, một phía giáp với rừng cây, còn phía bên kia thì giáp với khu đầm lầy gọi là Bàu Sen, nơi ấy vẫn còn lưu lại địa danh đến ngày nay, tức khu vực Bàu Sen ở đoạn Nguyễn Trãi - Trần Bình Trọng và An Dương Vương, thuộc Q.5 - TH). Nghe nói, do không muốn hợp tác với Nguyễn Ánh, nhà sư Tăng Ân đã âm thầm đào địa đạo đó, để lánh mặt khi cần. Cũng có người nói rằng nhà sư có chân trong một hội kín gì đó.
Sau thời hổ lộng hành ở làng Tân Kiểng nói trên, hơn 100 năm sau, tức vào thời người Pháp xâm chiếm Sài Gòn, phát triển, đô thị hóa rộng lớn, vậy mà các thú hoang vẫn còn nhiều ở các vùng phụ cận. Nhiều sách báo, cũng như lời kể trong dân gian về hổ xuất hiện thường xuyên ở Nhà Bè, Thủ Đức, Bình Chánh... Nhưng đến lúc ấy, các tin tức đó không còn làm cho người dân hoang mang nữa, mà trái lại, nó gây hấp dẫn với một số người thích săn bắn. Vào đầu thế kỷ XX, Hoàng tử Henri d’Orleans của Pháp, Thái tử Đan Mạch Waldemar và Công tước de Montpensier là những khách săn bắn thường xuyên có mặt ở Sài Gòn để tìm bắn hổ, voi. Tuy nhiên, dù với súng săn tối tân, vũ trang tận răng, nhưng họ đã không lập được kỳ tích như nhà sư Tăng Ân. Sài Gòn một thuở
Sài Gòn mà chúng ta đang sống ngày nay là một thành phố Hồ Chí Minh hiện đại, đang phát triển, tiến lên công nghiệp hóa... điều mà cách đây nửa thế kỷ, người ta không bao giờ hình dung nổi. Sài Gòn một thuở là hình ảnh khác xa những gì đang có ngày hôm nay. Chưa hiện đại, chưa văn minh cao, nhưng có một cái gì đó rất đặc trưng, rất khó quên... Gợi lại những gì ngày nay không còn nữa, như một hồi ức đẹp, thiết nghĩ không phải là vô bổ.
Phong cách Sài Gòn
Ở đây muốn nói đến phong cách rất riêng của người Sài Gòn vào thời xa xưa ấy mà mãi đến nay vẫn còn có thể bắt gặp ở đâu đó. Chỉ xin kể một mặt nho nhỏ thôi: cái cách kiếm tiền và cách sống.
Thời đó (cách 50 năm về trước), cụm từ “tay làm, hàm nhai” đối với người Sài Gòn là một ý nghĩa “lãng mạn”, dân lao động Sài Gòn đã làm và nhai có khác hơn các nơi trong nước. Một người đạp xích lô (trước kia là xe kéo) lam lũ, cực nhọc “cuốc” từng cuốc, kiếm từng đồng, từng cắc, vậy mà chiều chiều vẫn lai rai “ba sợi” với vài chai “la-de” (la bière La rue - hiệu bia nổi tiếng của hãng BGI thời đó) với tôm khô củ kiệu. Và sáng nào, dù “túng” hay không, bác phu xe vẫn thong thả chất “má bầy trẻ” cùng hàng lố con cái, ra ngồi “tiệm nước” (quán bán cà phê và thức ăn) để chén một bữa no nê. Hôm nào trúng mánh thì cà phê sữa, bánh bao hay hủ tiếu, còn như “thất” thì cũng cho mỗi nhóc tì một cái “giò cháo quẩy” chấm cà phê! Có người hỏi anh ta, tại sao không dành dụm, lại “hàm nhai” hết như thế? Anh ta vô tư trả lời: “Ăn hết rồi kiếm nữa, lo gì!”.
Đó là dân lao động, còn dân thầy, dân cậu thì sao? Tầng lớp này được chia ra làm mấy hạng: loại “dân cậu” là thành phần giàu, ăn chơi sang, đi cao lâu (restaurant) nhảy đầm, đánh bạc. Loại “thầy chú” gồm đa số công chức, tư chức và “thầy chú” còn để ám chỉ dân áp phe, dân “cò bót” (cảnh sát, công an chìm, nổi). Có một khu vực rất đặc biệt ở Sài Gòn, mà ai đi sớm ngang qua đó, là thấy các “thầy chú” ngồi đầy ở các quán nước. Đó là khu Nguyễn Công Trứ (trước gọi là đường Le Fèvre) và chợ cũ đường Hàm Nghi (thời đó gọi là boulevard de la Some). Như một thông lệ, sáng nào họ cũng tụ tập, không thiếu mặt nào của dân áp phe kinh tế tài chánh, vì quanh đó là trụ sở các ngân hàng (có thời nó được gọi là Wall Street của Sài Gòn).
Còn một nơi tụ hội nữa của các “thầy chú” có thời được gọi là “Radio Catinat”, là các quán ở đường Catinat (Đồng Khởi bây giờ). Quán La Pagode, Continental, Givrai, Brodard là bốn nơi ngày nào cũng có mặt các tay thuộc cánh áp phe chính trị, dân nhà báo trong, ngoài nước. Họ gặp mặt trao đổi tin tức, tung tin thật có, vịt cồ có, đủ loại trên đời, để rồi từ đó truyền đi khắp nơi. Bởi vậy, dân Sài Gòn gọi đó là trụ sở của đài phát thanh, hay dễ nhớ hơn với cụm từ “Radio Catinat”.
Sài Gòn với những món ăn
Người Sài Gòn làm nhiều, tiền nhiều, nhưng khoản ăn chơi đã chiếm một phần quan trọng trong sinh hoạt thường ngày của họ. Xích lô, xe kéo còn có máu ăn chơi kiểu đó, nói gì thành phần khác. Sài Gòn bốn mươi năm trước không có nhiều chốn ăn chơi như ngày nay. Nói về quán ăn thì có thể điểm tên một số “cao lâu” của người Hoa như: Đồng Khánh, Ngọc Lan Đình, Ái Huê, Đại La Thiên, Soái Kình Lâm, Á Đông, Bát Đạt, Tân Lạc Viên... và không thể không kể tới các quán “bò bảy món”. Đây là một đặc trưng của món ăn Sài Gòn, cũng như Hà Nội có chả cá Lã Vọng, bánh tôm Hồ Tây...
“Đi ăn ngoài” của người Sài Gòn thời trước không kể các quán cơm thố của người Hoa thì hầu như người nào cũng thích đưa vợ con, bạn bè đi ăn bò bảy món. Nổi tiếng nhất và lâu đời nhất ở Sài Gòn từ trên nửa thế kỷ trước, là quán Au Pagolac (Chợ Lớn) và sau đó là Ánh Hồng (Phú Nhuận). Có người nhận xét rằng, nếu nói về món ăn chơi thì bò bảy món mới đúng nghĩa là để ăn chơi, vì với bảy món trong một bữa, mỗi món chỉ cần ăn một ít, ăn qua một lượt đã tới món khác, do đó, dù bảy món cùng một thứ thịt bò, vậy mà một người có thể thanh toán trọn vẹn cả repas (bữa ăn) một cách thoải mái mà không hề chán ngán.
“Đi ăn đồng quê” là nói đến kiểu “đi ăn ngoài” ở ngoại thành của Sài Gòn thời trước. Sài Gòn trước đây không ngột ngạt người và xe như bây giờ, người ta vẫn thích chiều chiều chở nhau ra vùng ngoại ô Nhà Bè, Bình Chánh, Thủ Đức, vừa hóng gió, vừa thưởng thức các món đặc sản. Phú Lâm, Bình Chánh nổi tiếng với các quán Đồng Quê (ở Phú Định) và Ba Râu (Bình Điền) do có những đặc sản tôm cá rất ngon (món chạo tôm ở Đồng Quê có thể nói là ngon nhất thời đó). Hướng Nhà Bè thì nổi danh với các quán “thủy tạ” trên các ao cá, với các món “độc chiêu” là gỏi cá chìa vôi. Một thời, món cá này là một đặc sản được quảng cáo là “có một không hai”, bởi nghe nói loại cá có cái tên rất lạ này chỉ thấy ở vùng nước mặn Nhà Bè, Phú Xuân (có thể một số nơi khác cũng có, nhưng với tên gọi khác). Thịt cá chìa vôi giòn, ngọt hơn cá chẻm, nên khi trộn gỏi, có vị rất ngon và lạ miệng. Người ăn thích nhất là ngồi trên sàn nhà, có thể nhìn thấy cá lội dưới ao, thích con nào chỉ con đó và sẽ được nhà hàng bắt lên làm ngay trước mặt, dọn ăn nóng sốt sau vài chục phút.
Hướng Thủ Đức thì được dân chơi đêm ưa thích. Các cô cậu thì đi nhảy ở vũ trường đến một, hai giờ sáng, có thể thoải mái chở nhau lên tận Thủ Đức để ăn nem, hoặc bánh canh bột lọc. Thủ Đức còn có một quán ăn đặc sản rất được ưa chuộng là quán Con gà quay với món gà quay cơm nếp độc đáo.
Sài Gòn với những cuộc chơi
Có ăn thì phải có chơi, chơi lành mạnh cũng có, nhưng không nhiều, ngoài các Công viên Bách Thảo (Thảo Cầm Viên), Vườn Ông Thượng (Tao Đàn), người Sài Gòn thời ấy không có những Kỳ Hòa, Đầm Sen như ngày nay. Trò chơi dành cho người lớn thì lại không thiếu. Đó là các vũ trường và các sòng bạc. Những vũ trường tiêu biểu, tồn tại từ trước năm 1954, gồm có: Mỹ Phụng, Đại Nam, Tabarin, Văn Cảnh, Au Chalet Tour d’Ivoire (thuộc vùng Sài Gòn) và Melody (thuộc Chợ Lớn), các “dân chơi” đều thuộc nằm lòng những cái tên ấy và nhẵn mặt từng ngóc ngách vũ trường. Sau này vào thời kỳ Mỹ, mới có thêm các Queen Bee, Ritz, Maxim’s...
Nhưng nổi trội và hấp dẫn nhất có lẽ là các sòng bạc. Người Pháp đã dựng lên ba sòng bạc thuộc loại lớn nhất nước (nếu không muốn nói là lớn nhất Đông Nam Á) tại Sài Gòn từ trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, đó là Kim Chung, Đại Thế Giới và trường đua ngựa Phú Thọ.
Gần 30 năm tồn tại, Kim Chung và Đại Thế Giới đã “thiêu” hàng vạn người mê đỏ đen. Người tán gia bại sản, kẻ thân bại danh liệt. Người ta ví đó là hai chốn địa ngục trần gian giữa hòn ngọc Viễn Đông. Còn trường đua Phú Thọ thì từ khi thành lập, chưa bao giờ là đấu trường thể thao như có người muốn gán cho nó. Đơn thuần, nó chỉ là cái lò sát phạt đỏ đen với bao mưu ma chước quỷ (làm độ, gian lận...) chẳng khác gì Kim Chung, Đại Thế Giới (hai casino này đã bị xóa tên từ năm 1956), giờ đây nếu các bạn muốn biết nó ở đâu thì chính Khu Dân Sinh bây giờ là Kim Chung ngày trước, còn Đại Thế Giới đã trở thành Nhà văn hóa Quận 5 (đường Trần Hưng Đạo B).
Dù không muốn, nhưng cũng không thể không nhắc tới những chôn lầu xanh đầy tai tiếng, nhớp nhúa một thời: xóm Bình Khang (gần rạp hát Vườn Lài quận 10 ngày nay) dành cho khách mua hoa nội địa và khu Borden (giới bình dân thường gọi là Bọt-Đền) ở góc đường Galiéni (Trần Hưng Đạo) và Nguyễn Khắc Nhu (ngày nay là câu lạc bộ Trần Hưng Đạo và dãy nhà của công ty Bách Hóa thành phố), nơi chuyên phục vụ “hoa” cho lính viễn chinh Pháp. Dân hay quân vào các nơi đó, đều được mua vé công khai, giống như mua vé hát hay vé vào vườn Bách thú.
Về giải trí văn hóa, thì có hai loại hình chính: rạp xi-nê (chiếu phim) và rạp cải lương. Những rạp xi-nê đầu tiên giờ đã biến mất, như Catinat (ở trong hành lang bán tranh bây giờ, ngang hông khách sạn Caravelle phía đường Đồng Khởi), rạp Majestic (bây giờ là nhà hàng dancing Maxim’s), rạp Long Thuận (góc đường Nguyễn An Ninh và Trương Định) và những rạp vẫn còn lưu lại dấu tích như Eden (Đồng Khởi), Casino (Sàigòn, Đakao), Vĩnh Lợi, Lê Lợi, Nam Việt, Hồng Bàng, sau năm 1954, Sài Gòn mới có thêm Đại Nam (vào đầu thập niên 1960 có thêm Rex), còn khu Chợ Lớn thì có Oscar, Palace (Đồng Tháp và Đống Đa bây giờ) và một số rạp nhỏ khác... về rạp cải lương, hát bội thì có Nguyễn văn Hảo (Công Nhân), Thành Xương (đầu đường Yersin, góc Colonel Grimau - Phạm Ngũ Lão) nay đã hư sập. Vào đầu thập niên 1960, mới có thêm hai rạp Hưng Đạo và Quốc Thanh. Các nhà hát lớn (nhà hát thành phố) thường được gọi là nhà hát Tây và rạp Norodom (rạp Thống Nhất, giờ trở thành hội trường xổ số kiến thiết) chủ yếu dùng để hòa nhạc.
Về khách sạn thì chỉ có hai cái được gọi là “quốc tế” đó là Continental vào thập niên 1950 mới bắt đầu được xây dựng. Hầu hết các khách sạn ở Sài Gòn thời trước chủ yếu chỉ là những “phòng ngủ” nhỏ, được gọi nôm na là “nhà ngủ”, để phục vụ cho dân bản xứ. Các nơi này luôn kết hợp ba thứ: ngủ + gái bán dâm + động phù dung (á phiện). Dân anh chị hay các thầy nhà báo, thường hay ghé “nhà ngủ” làm vài “cặp” nhựa đen (chỉ thuốc phiện) trước khi đi hành sự, gọi là để lấy khí thế.
Còn nhiều lắm những điều tốt có, xấu có của một Sài Gòn thời xa xưa... Nhưng dù ở mặt nào, Sài Gòn vẫn có nhiều điều để nhớ, nhiều cái không thể nào quên... Nếu có dịp nào đó, ta lại nói đến một số khía cạnh nữa của Sài Gòn một thuở... Những cuộc phiêu lưu tình ái của Hắc công tử, Bạch công tử
Chuyện Hắc công tử, Bạch công tử (công tử Bạc Liêu, công tử Mỹ Tho) ở Nam Bộ đã có nhiều người kể lại, dưới nhiều hình thức, với nhiều tình tiết, giai thoại... Song có lẽ những chuyện chơi ngông và những cuộc phiêu lưu tình ái của họ là đề tài lý thú nhất, buồn cười nhất. Chúng tôi xin ghi lại hai cuộc tình được xem là tiêu biểu nhất của hai chàng công tử ăn chơi khét tiếng ở Miền Nam một thời...
Cuộc tranh giành người đẹp của Ba Qui
Lúc mới đặt chân lên đất Sài Gòn vào năm 1938, Trần Trinh Qui đã có ngay cái “hỗn danh” Tám Bò, thay vì Ba Qui theo đúng thứ của cậu ta trong gia đình. Về cái hỗn danh này, có người kể lại rằng, vào thời đó, người nông dân nào làm ruộng mà có được một đôi bò để kéo cày, thì được gọi là trung nông, được bốn đôi gọi là phú nông. Bốn đôi bò (8 con) trị giá bằng 4.000 giạ lúa, một tài sản khá lớn đối với mọi người; nhưng với Ba Qui (Trần Trinh Qui, con trai thứ của ông Hội đồng hàm Trần Trinh Trạch, đại nghiệp chủ ở Bạc Liêu) thì chỉ là con số lẻ. Khi ấy Ba Qui mới 18 tuổi, chân ướt, chân ráo đến “Hòn ngọc Viễn Đông”, thường bị các vương tôn công tử thành phố coi là “công tử vườn”. Có lẽ do vậy, nên trong một canh bạc với các đại phú thương, Ba Qui thay vì đặt tiền, đã đặt mỗi canh bạc bằng đơn vị “bốn đôi bò”! Kết quả, hôm đó cậu Ba đã thua đến mười lần bốn đôi như thế và cũng từ ấy, cậu ta nổi tiếng thành danh luôn là cậu “Tám Bò” (để bạn dễ hình dung, chúng tôi đưa ra con số so sánh: hiện nay ở nông thôn miền Tây Nam bộ, nông dân bán một ngàn giạ lúa thì mua được một chiếc xe Dream, có nghĩa là, ngày xưa, mỗi lần Ba Qui thua bốn đôi bò, là vừa nướng vào sòng bạc khoảng 20 cây vàng!).
Nổi danh ở các chiếu bạc, nhưng ở các lĩnh vực khác, chàng công tử Bạc Liêu này vẫn chưa được nể trọng lắm. Bởi vậy, trước ngày sang Pháp du học theo lệnh của gia đình, Ba Qui đã “thề” trước bạn bè rằng, cậu ta sẽ trở thành trùm, dù cho phải bán hết ruộng muối và lúa của ông thân sinh ở Bạc Liêu!
Sau năm năm “du học” trời Tây, Ba Qui trở lại Sài Gòn với cái bằng... đăng-xê (dancer, khiêu vũ, hay còn gọi là nhảy đầm theo cách nói ở Nam Bộ). Và đúng như “lời nguyện”.
Ba Qui đã chơi... “mát trời” nên lập tức khẳng định thế đứng của chàng công tử Bạc Liêu lắm của, chơi ngông và đào hoa số một! Mục tiêu đầu tiên khi vừa quy cố hương của cậu Ba là một người đẹp đang nổi tiếng như cồn trong giới vương tôn lúc đó, hoa khôi Tuyết Lan!
Đúng ra Nguyễn thị Tuyết Lan chưa từng dự thi hoa hậu, cũng chẳng đạt được chức danh bà hoàng sắc đẹp, song bởi sắc đẹp của cô nghiêng nước đổ thành, nên được người ta tặng cho mỹ danh “hoa khôi”. Vào năm 1943, ở Sài Gòn, Tuyết Lan là số một, là bà hoàng của mọi cuộc yến tiệc, vui chơi. Nhân tình của cô toàn là những tay cỡ bự, vừa giàu sụ lại vừa nhiều thế lực, nhưng chưa một ai độc chiếm được nàng. Thời đó, một đối thủ đáng gờm của Ba Qui là Phước George, tức Bạch công tử, hay còn gọi là công tử Mỹ Tho, người cũng đang ngắm nghía Tuyết Lan. Ba Qui biết mình phải làm gì để chiếm thế thượng phong, để được là kẻ chiến thắng trên tình trường! Cậu ta tuyên bố với bạn bè: “Moa sẽ chiếm cho bằng được Tuyết Lan, dù phải đổi cả sản nghiệp của ông già moa!”.
Nói là làm. Chỉ hai tuần sau khi về nước, Ba Qui đã tổ chức ngay một buổi dạ tiệc lớn chưa từng có ở ngôi biệt thự mới, tọa lạc tại đường Chasseloup Laubat. Khách mời hầu như không thiếu một ai và dĩ nhiên là phải có Bạch công tử Phước George!
Và thật bất ngờ, đóa hoa tuyệt sắc xuất hiện bên cạnh chàng Hắc công tử Ba Qui, không ai khác hơn là nàng Tuyết Lan! Khi đến bắt tay Bạch công tử, Ba Qui cố tình trêu chọc: “Vợ chồng moa rất hân hạnh được Monsieur Phước George đến tệ xá!”. Điều này có nghĩa là hoa khôi Tuyết Lan đã chấp nhận làm “Hắc phu nhân”.
Sau đó, mọi người đều biết chuyện, để chiếm được người đẹp, Hắc công tử đã mua tặng cho nàng ngôi biệt thự dùng làm nơi tổ chức dạ tiệc hôm ấy và có lẽ còn có cả ngàn đôi bò theo kiểu trị giá bò để đánh bạc! Bạch công tử tạm thua keo đầu. Tất nhiên là chàng Bạch ấm ức lắm, nhưng vốn là người hào hoa, lại tính toán thâm hơn, nên Phước George giả bộ như chẳng có gì xảy ra để âm thầm toan tính một cuộc phục thù, rửa hận. Cuộc rửa hận còn “lưu danh muôn thuở” mà như chúng ta đều nghe kể, đó là vụ Bạch công tử đốt tờ giấy bạc 100 đồng (cent piastres) để soi sáng cho Hắc công tử tìm tờ giấy 20 đồng (giấy “Hoảnh”, tức vingt piastres, hai mươi đồng) trong một bữa tiệc do Bạch công tử mời, có mặt cả người đẹp Tuyết Lan! Gặp người tình nhỏ, tuổi Rồng của Bạch công tử
Hắc công tử và Bạch công tử gần như là một “huyền thoại” ở Sài Gòn xưa nói riêng và Nam Kỳ lục tỉnh nói chung. Chung quanh họ, người ta đã kể, viết biết bao nhiêu chuyện. Gần một thế kỷ đã qua đi, mọi chuyện gần chìm trong quên lãng... vậy mà thật bất ngờ, chúng tôi đã gặp một người yêu của Bạch công tử...
“Con rồng nhỏ” của Bạch công tử
Ngồi trước mặt tôi là một phụ nữ đã 84 tuổi, song người ta vẫn gọi bà là cô. Cô Sáu Ngọc Sương. Cuộc gặp gỡ “cô Sáu” diễn ra vào buổi sáng ngày 6 tháng 12 năm 1999, tức sau hơn sáu mươi năm so với thời điểm mà người ta vẫn thường nhắc đến một con người: Bạch công tử của xứ Nam Kỳ lục tỉnh.
Già, yếu, bước đi chậm, nhưng cô sáu Ngọc Sương vẫn còn cái nét mỹ nhân của một thời vàng son. Cô vào đề ngay khi tôi nhắc tới “Phước George” - chàng Bạch công tử.
Phước George thường kêu tôi bằng “con rồng nhỏ”. Bởi tôi tuổi Thìn. Ảnh tuổi Mão, lớn hơn tôi 13 tuổi. Khi gặp Phước George thì tôi mới 19 tuổi. Ngày đó, ai cũng nói con Sáu Ngọc Sương là người tình nhỏ của Bạch công tử. Nhìn căn phòng chưa đến chục mét vuông, trong khu dưỡng lão dành cho nghệ sĩ ở đường Âu Dương Lân, Q.8, TP Hồ Chí Minh, tôi đoán người phụ nữ này sống một mình. Cô Sáu tâm sự:
- Tôi không còn người thân nào cả, cũng may nhờ Nhà nước, nhờ Hội Nghệ sĩ sân khấu thành phố, nên tôi còn có chỗ nương thân qua ngày ở dây.
- Nhưng ngày xưa, người ta còn nhớ khi cô Sáu sống với Phước George, cô đã có với ông ấy một đứa con?
Giọng cô Sáu Ngọc Sương trầm xuống, đượm buồn:
- Đúng là có một đứa con gái.
- Cô ấy...?
- Nó vẫn còn sống. Năm nay 63 tuổi, đang sống ở Pháp.
Sau một tiếng thở dài, cô Sáu tiếp:
- Cái tên Ly Ly của nó chính là do Phước George đặt. Hồi ấy, ổng thương con bé lắm, nhưng cái máu trăng hoa đa tình của người ấy, khiến cho con nhỏ ngay từ lúc còn nằm trong nôi đã hầu như không thấy mặt cha.
- Nhưng nhiều người lại nói rằng Phước George ít khi bỏ rơi người phụ nữ nào có con với ông ta?
Cô Sáu Ngọc Sương lắc đầu:
- Không phải đâu. Con người ấy đi đâu là “gieo rắc” đến đó. Đặc biệt là với người đàn bà nào ông ta thương thật lòng.
Cô Sáu như cố nhớ lại một thời dĩ vãng đã xa, cái thời hoa mộng nhất của một cô gái nghèo, từ một tỉnh miền Trung vào đất Sài Gòn tìm chỗ dung thân...
Sinh ra ở một vùng quê ven biển Phan Thiết, cho đến năm cô Sáu 17 tuổi thì có người bảo: “Chỉ có Sài Gòn mới thay đổi được cuộc đời cơ cực”. Thế là cô Sáu tìm về vùng đất hứa. Nghèo, ít học, lại không nơi nương tựa, nên khi có người dìu dắt cho làm “tì nữ” của gánh hát, Sáu ưng ngay. Gánh hát đầu tiên trong đời cô gái trẻ là gánh Trần Đắc. Cũng ở đó, cô chọn cho mình một cái tên nghệ sĩ: Ngọc Sương, ghép với tên gọi là Sáu thành ra Sáu Ngọc Sương có từ dạo ấy.
Đoàn Trần Đắc rã gánh và có lẽ do trời định, Sáu Ngọc Sương “đầu quân” cho gánh Huỳnh Kỳ. Cô gặp ông chủ Phước George - Bạch công tử và “con rồng nhỏ” đã bị con “mèo ngao” vồ lấy. Có người nói đó chỉ là cuộc tình trăng hoa của Phước George, bởi cùng thời ấy trong tay chàng công tử Bạch này có hàng chục, hàng trăm cô gái khác, trong số này có cả những giai nhân tuyệt sắc thời ấy như Lucie B., cô Ba Trà...
Theo một người thân cận với Phước George, khi đã xế bóng, chính ông ta đã thú nhận: “Trong vô số những giai nhân, tôi thương con Sáu nhất. Nó không vụ lợi như nhiều người khác. Chỉ tiếc là ngày ấy tôi quá nhiều mối tình. Cái mà tôi cho má con Ly Ly chỉ là mối tình lẻ...”
Ai là vợ chính thức của Bạch công tử?
Khó mà trả lời chính xác. Bởi lúc sinh thời, chưa ai nghe nói Phước George cưới vợ bao giờ. Chỉ có các cuộc phiêu lưu tình ái gần như vô tận. Hơn chục giai nhân khá nổi tiếng thời ấy đã nói rằng họ là “madame George” và kê ra những đứa con mang dòng họ Lê (Bạch công tử tên thật là Lê Công Phước).
Hoa khôi Lucie B., từng một thời sống chính thức với Phước George, đi đâu cũng xưng là madame George, nhưng khi Phước cặp với cô Ba Trà, thì giai nhân chim sa cá lặn này lại dõng dạc tuyên bố: “Anh ấy chỉ có mình tôi!”.
Phước George quả đã gắn bó với cô Ba Trà một thời gian dài, tiêu tốn chẳng biết cơ man nào tiền của cho người phụ nữ này. Gánh hát Huỳnh Kỳ của Bạch công tử lập nên cũng chính là để vui lòng Ba Trà. Song sự thật chưa bao giờ Ba Trà là vợ của Phước George.
Thời Phước George đi “phiêu lưu” ở Pháp, khi cặp bồ với nàng công chúa Nga lưu vong, tưởng chừng như ông đã có “vợ đầm”, vậy mà chỉ một năm sau, Phước George lại về Sài Gòn và đi với hàng tá phụ nữ khác. Cuối năm 1941, khi vừa thoát nạn trong vụ đắm tàu ở Địa Trung Hải, Phước George đã thổ lộ với người bạn thân: “Mình suýt nữa chết thành ma không vợ. Nghĩ mà tức cười, bao nhiêu là nhân tình, đến khi cần chưa chắc có một ai nhỏ cho một giọt nước mắt!”. Lời than vãn này không ngờ lại đúng với cuộc đời về chiều của Bạch công tử.
Cô Sáu Ngọc Sương bùi ngùi kể lại đoạn kết rất buồn của người gây sóng gió một thời:
- Lúc sống, chẳng ai “lên voi” bằng Phước George - Bạch công tử. Cả Nam Kỳ lục tỉnh đều biết tiếng, nghe tên, Tây đầm đều biết, vậy mà khi nằm xuống chẳng có một người thân chôn cất. Chết cô đơn, nghèo túng, âu cũng là nhân quả.
Cô Sáu Ngọc Sương nói rằng ngày Phước George qua đời, ở tuổi trên 60, lúc đó đã là thời xế bóng, tàn tạ của một công tử ăn chơi khét tiếng Nam Bộ. Ông đã lãng phí qua những cuộc chơi mấy chục năm, đã đốt tiền vào các sòng bạc, tiệm nhảy và nhan sắc đàn bà... để rồi khi cuối đời, trong tay chẳng còn chút gì. Bạn bè thương tình, đưa di thể về an táng ở quê nhà (huyện chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho). Loạn lạc nổi lên, chính người chôn Phước George cũng chẳng làm sao tìm lại được nấm mồ của ông ta ở đâu.
Cô Sáu Ngọc Sương nói thật chậm, khi tiễn tôi ra về:
- Tôi vẫn ao ước có ngày tìm được mộ anh Phước George, đốt cho ảnh nén nhang. Nhưng có lẽ không còn kịp nữa rồi. Tôi đã quá yếu... Chợ Hôm, Xóm Củi, Cầu Hoa
Những chứng tích thành địa danh của Sài Gòn xưa, từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, ngày nay còn lại rất ít, thậm chí có những nơi chỉ còn lại cái tên. Như chỗ hồ Con Rùa hiện thời. Ngày xưa, lúc người Pháp mới tới, một trong những công trình họ dựng lên đầu tiên là “Tháp cấp nước” gọi là “Château d’eau de Saigon” (xây năm 1878), mục đích trữ nước ngọt cung cấp cho cư dân thành phố. Thời đó, dân thành phố còn rất ít, độ vài trăm ngàn người, nên buổi đầu lượng nước chứa trong tháp còn đủ dùng. Song, sau đó dân tăng lên dần nên đến năm 1921, Thị trưởng thành phố đã phải ra lệnh phá bỏ, và biến nơi đó thành “Công trường chiến sĩ trận vong”, được dân Sài Gòn gọi tắt là Công trường chiến sĩ. Công trường này cũng “thọ” không lâu. Đến giữa thập niên 60, Nguyễn văn Thiệu làm Tổng thống, công trường được đổi tên “Công trường viện trợ Quốc tế”, với một công trình kiến trúc mới: một hồ nước rộng, ở giữa có một vọng đài, và đặc biệt là một bia đá cao trên 20m, khắc tên những đồng minh của “chế độ Việt Nam cộng hòa” đã có công viện trợ tiền, của, súng đạn cho chính quyền Sài Gòn. Cái tên Công trường viện trợ quốc tế nghe dài ngoằng, khó nhớ, nên dân Sài Gòn lại đặt cho nó cái tên khác: Hồ Con Rùa, bởi bên dưới cái bia đá có đúc một con rùa thật to (kim quy đội bia). Cho mai đến sau này, cái tên “Hồ Con Rùa” gần như là tên chính thức.
Về cái “Phủ đầu rồng” tức Dinh Độc Lập (nay là Hội trường Thống Nhất), khởi thủy do người Pháp xây, dùng làm Dinh Toàn quyền. Lễ đặt viên đá xây dựng đầu tiên vào ngày 23 tháng 2 năm 1863, hoàn thành sơ bộ vào năm 1869. Mãi đến năm 1875, mới hoàn tất phần trang trí bên trong. Viên Toàn quyền Đông Dương (người Pháp) ngụ ở đây, do đó được đặt tên là Dinh Toàn quyền, nhưng người Sài Gòn quen gọi nó là Dinh Norodom, có lẽ vì dinh này nằm trên đường Norodom (nay là đường Lê Duẩn). Sau đó, dinh dành cho Quốc trưởng và Tổng thống. Đến năm 1961, trong cuộc chính biến giữa Ngô Đình Diệm với các phe phái, Dinh Độc Lập bị hai phi công của phe đối lập ném bom, phá hủy một phần lớn. Ngô Đình Diệm chuyển “Phủ Tổng thống” sang Dinh Gia Long (đây là Dinh phó soái trước kia), và cho xây lại dinh mới (do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ vẽ kiểu và chỉ huy xây dựng, hoàn thành khoảng giữa thập niên 60, duy trì mãi đến nay).
Gần Dinh Độc Lập có Vương cung Thánh đường (thường gọi là nhà thờ Đức Bà). Nơi này trước khi xây ngôi thánh đường (khởi công ngày 7 tháng 10 năm 1877) nguyên là “Công trường Đồng Hồ” (Place de l’Horloge), nơi đặt một đồng hồ lớn, bốn mặt. Cách nhà thờ Đức Bà hơn 500m, nằm trên đường Catinat (nay là đường Đồng Khởi), có “Nhà hát lớn”, xây dựng vào năm 1898, khánh thành ngày 1 tháng 1 năm 1900.
Đối diện với Dinh Độc Lập, ở đầu kia đường Norodom, ngay từ năm 1864, người Pháp đã cho lập Vườn Bách thảo (sau này nuôi thêm thú, nên đổi tên là Thảo Cầm Viên). Cách đó 500 mét là Thủy xưởng (Arsenal), sau đổi thành xưởng Bason.
Dân Sài Gòn quá quen thuộc với Cầu Bông (vùng Đakao), nhưng chắc ít người biết trước kia nó có tên là cầu Cao Miên (vua Cao Miên thời trước thường ngự ở đây thưởng hoa, do hoa được trồng chung quanh nhà thủy tạ dựng ở nơi xây cầu ngày nay), sau đổi lại là Cầu Hoa. Qua thời Minh Mạng, vì kỵ húy tên một bà phi của vua (bà này tên Hoa) nên cầu được đổi thành cầu Bông.
Cầu Kiệu (nối đường Hai Bà Trưng với Phú Nhuận) nguyên có tên là “Cầu Xóm Kiệu”, bởi nơi đó, vào thời kỳ đầu thành lập Sài Gòn, là chỗ trồng và trữ kiệu (củ kiệu) cung cấp cho toàn thành phố.
Cầu Kiệu bắc ngang qua con kênh mà sau này ta gọi là kênh Nhiêu Lộc (nối theo rạch Thị Nghè). Truy ra thì Nhiêu Lộc là tên vị quan nhà Nguyễn có công xây dựng thành phố Sài Gòn thuở sơ khai (có mộ chôn ở vòng rào sân bay Tân Sơn Nhất). Còn rạch Thị Nghè, là lấy tên con gái của ông Nguyễn Cửu Vân. Nguyên chồng bà này là một ông Nghè (đỗ nghè) giữ chức lại mục trong dinh Tả quân Lê văn Duyệt. Do thương chồng, hàng ngày phải từ nhà bên kia sông (phía làng Thanh Mỹ, chợ Thị Nghè ngày nay) đi làm ở trung tâm thành phố, nên bà đã xuất tiền riêng làm một cây cầu gỗ ngang qua sông, dân chung quanh gọi là cầu Bà Nghè, sau đổi thành Thị Nghè, về sau, cầu được xây dựng thành cầu đúc kiên cố.
Cũng ở gần Thị Nghè, có nơi gọi là Văn Thánh. Nơi này theo tài liệu của ông Trương Vĩnh Ký thì là miếu thờ Đức Thánh Khổng Phu Tử, gọi là Văn Thánh Miếu. Hiện nay không còn dấu vết, chỉ còn địa danh Văn Thánh.
Lăng Ông ở Bà Chiểu là mộ phần và nơi thờ cúng Tả quân Lê văn Duyệt. Ông Lê văn Duyệt từ trần năm 1832, đến năm 1835, do con nuôi là Lê văn Khôi làm loạn, nên bị vua Minh Mạng trị tội bằng cách san bằng ngôi mộ, trên nấm mộ còn bị xích sắt. Mãi đến năm 1848 mới được vua Tự Đức ân xá, cho xây lại như mộ cũ, còn đến hiện nay.
Còn địa danh Lăng Cha Cả là để chỉ nơi phần mộ của Bá Đa Lộc (Évêque d’Adran), nằm ở đầu đường Trương Minh Giảng (nay là Lê văn Sỹ) và Võ Tánh (nay là Hoàng văn Thụ), chỉ còn lại cái tên gọi do quen miệng.
Trở lại trung tâm Sài Gòn, nơi trước đây gọi là nhà thương Đồn Đất (hay là Hôpital Grall), nguyên buổi đầu đó là Hôpital Militaire (Dưỡng đường quân sự), sau đổi là Grall, dành cho người Pháp, sau dần dần thu nhận cả người Việt (ngày nay là Bệnh viện nhi đồng 2).
Vườn Ông Thượng (nay là công viên văn hóa Tao Đàn), vốn xưa kia là “Ngự Hoa Viên” của thượng công Tả quân Lê văn Duyệt (thuở chưa xây Dinh Độc Lập, thì biệt thự của bà phu nhân Lê văn Duyệt nằm lọt trong vòng rào dinh sau này. Thời đó, oai danh của ông Lê văn Duyệt ở Sài Gòn - Gia Định rất lớn, nên những nơi nào lớn, đẹp thường được mang chức danh của ông. Gọi là Vườn Ông Thượng là vì thế. Còn một tên nữa, đó là “Vườn Bờ-rô”. Về tên gọi này, cho đến nay vẫn chưa có ai giải thích chính xác là xuất xứ từ đâu? Theo một số giả thuyết do cố học giả Vương Hồng Sển ghi lại, thì có những từ được nghi là xuất xứ của “Bờ- rô”: préau (sân chơi ở trường học hay tu viện), hoặc do chữ Moreau, lại có người cho rằng Bờ-rô chính là chữ pelouse (bãi cỏ) mà ra. Xem ra, thuyết sau cùng này có lẽ đúng hơn (pelouse = bãi cỏ).
Trước 1960, trường Y Khoa Sài Gòn còn đặt tại số 28 Tastard (nay là Võ văn Tần), tức chỗ Nhà trưng bày tội ác chiến tranh hiện nay. Còn chỗ câu lạc bộ Phan Đình Phùng thì vốn là một vườn hoa mang tên Công viên Vạn Xuân.
Khám đường Sài Gòn trước năm 1950 tọa lạc tại số 69 đường Lagrandière (nay là Lý Tự Trọng), tức chỗ khu vực của Thư viện quốc gia sau này.
Trường trung học Lê Quí Đôn ngày nay, xưa kia là trường học dạy cho con em người Pháp và các nhân vật bản xứ có quốc tịch Pháp, dân nhà giàu, được gọi là trường Chasseloup - Laubat, sau đổi lại là Jean Jacques Rousseau.
Chợ Bến Thành trước khi được xây dựng (1913) nguyên là một ao sình lầy rộng lớn chạy dài qua gần cầu Ông Lãnh, người Pháp đặt tên là Marais Boresse (Đầm Bồ-rệt), sau được san lấp và cất chợ, để thay thế ngôi chợ cũ ở vùng Hàm Nghi - Phủ Kiệt sau này. Gọi là Bến Thành là vì cất trên bến trước cổng thành Sài Gòn.
Khu vực chợ Đũi có từ xa xưa, vốn hồi đó là nơi chuyên bán đũi, lụa, phạm vi của chợ gồm khu Boresse lên tới đường Richaud (nay là Nguyễn Đình Chiểu) xuống tới ga xe lửa (gần nhà thờ Huyện Sĩ).
Vùng bờ sông có cầu Ông Lãnh. Đây là chức danh của ông Lãnh binh triều Nguyễn. Còn cầu Muối thì do nơi đó xưa ở bến đậu thuyền, trên bờ có nhiều vựa muối, nên lâu ngày thành danh là chợ cầu Muối.
Cách đó không xa là Cầu Kho. Có tên này là do từ thế kỷ XVII, nơi đó có nhiều kho chứa lương thực để cung cấp cho toàn thành phố, ngày nay vẫn còn một số dấu tích.
Phía trên, đường Frèvre Louis (nay là đường Nguyễn Trãi) có thành ô-ma camp des Mares), nơi đó thời Gia Long, Minh Mạng còn là chốn ao, vũng, cây cối hoang vu. Qua thời Pháp, quân đội Pháp dùng làm doanh trại, nên gọi là Camp des Mares (trại binh vũng lầy), sau 1954 là “Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia” Sài Gòn.
Về địa danh “Đồng Tập Trận” (Pleine des tombeaux), được ghi nhận là trọn con đường Lý Thái Tổ và vùng phụ cận ngày nay, chạy dài lên tận khu vực gọi là Mả Ngụy (nay là hồ Kỳ Hòa và một phần đường 3-2). Tuy gọi là Đồng Tập Trận, chứ thực sự đó là bãi tha ma, nơi để bắn xử tội nhân. Ở gần đó, chỗ Ngã Bảy (sau rạp hát Long Vân) có ngôi nhà xưa mà thời trước gọi là “Vườn Bà lớn” hay “Vườn xoài” là biệt thự của phu nhân Tổng đốc Phương (tức Đỗ Hữu Phương).
Tên gọi Chợ Quán là bởi xưa kia dân chúng họp chợ dưới những cây me đại thụ (gần bệnh viện Chợ Quán ngày nay), chung quanh có nhiều quán lều buôn bán tấp nập. Lâu dần thành tên, đến ngày nay tên Chợ Quán vẫn còn đó.
Ở Sài Gòn cũng có Chợ Hôm, Chợ Mai như Hà Nội. Chợ Mai ở vào khu vực chợ Nancy hiện nay, xưa ở đó có con rạch gọi là rạch Bà Đô (sau lấp đi, chỗ Trần Hưng Đạo - Nguyễn văn Cừ). Còn Chợ Hôm thì hình như ở gần chợ Hòa Bình hiện thời. Một nơi bán sáng, một nơi họp chợ vào buổi tối.
Đi sâu vào Chợ Lớn, có những địa danh nghe rất lạ như cầu Chà Và, chợ Xóm Củi. Gọi là cầu Chà Và vì xưa kia (thời Tây mới qua) có một số người gốc Java cư ngụ, chuyên bán vải, nên lâu ngày nơi đó được dân địa phương gọi là cầu Chà Và (Java). Còn Xóm Củi là vì nơi ấy là vựa củi lớn nhất của thành phố.
Nơi được xem như trung tâm đô thị ngày xưa của Chợ Lớn, đó là khu phố Quảng Tông Cái (Quảng Đông Nhai), tên Pháp là Rue de Canton (đường Quảng Đông). Thời trước, các nhà buôn lớn của người Hoa đều tập trung ở đó.
Chợ Lớn còn có những địa danh như cầu Xóm Chỉ (chuyên kéo chỉ), kênh Tàu Hủ (Arroyo Chinois) là con kênh nối liền đường thủy từ Bến Nghé (Sài Gòn) vào tận Chợ Lớn. Trên kênh này có những cây cầu như cầu Ông Lớn (Ông Lớn là gọi một cách tránh né tên tộc của Đỗ Hữu Phương), cầu Lò Gốm, Lò Siêu (sản xuất gốm, siêu) và đặc biệt có “kênh Vòng thành” (Canal de Centure). Kênh Vòng thành là một dự án táo bạo của Pháp thuở mới chiếm Sài Gòn. Thời ấy, Đô đốc Bonard truyền cho kỹ sư Coffyn vẽ họa đồ con kênh đào từ rạch Chợ Lớn đi vòng lên đồn Cây Mai, đi thẳng ra Đồng Tập Trận, xuyên tới tận Cầu Kiệu, tạo ra một con kênh vành đai, bao bọc Sài Gòn - Chợ Lớn vào giữa như một ốc đảo (có lẽ nhằm mục đích để kiểm soát và phòng thủ?). Họ huy động đến 40.000 nhân công để đào con kênh, ngang 20m, sâu 6m, dài trên 6km. Tuy nhiên, do một số yếu tố khách quan, nên dự án bị bỏ dở, kênh chỉ đào được một đoạn phía Chợ Lớn đến đồn Cây Mai (sau này đã bị lấp mất).
Còn một con kênh nữa, từng có nhiều dấu ấn, đó là rạch Phố Xếp, tức chỗ ngã tư Tổng đốc Phương (nay là Châu văn Liêm) và Khổng Tử (xưa có tên Gaudot, rồi Bonhoure, hiện nay là Hải Thượng Lãn Ông). Trên bờ con kênh này có ngôi nhà rất to của ông Thông Hiệp Quách Đàm (chủ chợ Bình Tây), sau kênh bị lấp, ngôi nhà và cả ông chủ cũng đi vào quá khứ. Ngoài những địa danh kể trên, Sài Gòn - Chợ Lớn còn rất nhiều những địa danh khác nữa. Phần nhiều mang tên làng, thôn, xã, ấp thời xưa như Phú Thọ, Bình Quới, Phú Lâm, Tân Bình, Tân Sơn Nhất, Tân Sơn Nhì, Khánh Hội, Nhà Bè... có địa danh còn lưu lại đến ngày nay, có nơi đã biến dạng, bị xóa tên, nhường cho các công trình mới, địa danh mới... Con đò Thủ Thiêm
Dân cựu trào Sài Gòn đều thuộc lòng hai câu hò rất quen thuộc:
“Bắp non mà nướng lửa lò
Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm”.
“Con đò Thủ Thiêm” thường ví các cô gái tuổi đời chưa quá 20, ngày ngày chèo những chiếc đò ngang, đưa đón người qua lại giữa hai bên bờ con sông Sài Gòn, đoạn chảy qua bến chợ của thành phố Sài Gòn, mà người Pháp thời đó đọc là Pinghe, tức Bến Nghé. Thủ Thiêm là tên một làng, tuy chỉ cách trung tâm Sài Gòn chưa đầy năm trăm mét, nhưng ngày xưa đã được xem như là “Xóm nhà quê”.
Chính cái xóm nhà quê đó lại luôn là cầu nối giữa một bên là chốn phồn hoa đô hội, đang trên đà phát triển kể từ buổi khởi đầu, khi có cuộc Nam tiến của ông cha ta vào những ngày tháng lịch sử; và bên kia, dọc theo bờ sông nơi những lưu dân từ mọi miền đất nước tựu về tìm kế sinh nhai. Nơi ấy hàng ngày cung cấp cho đô thị Sài Gòn hàng ngàn thợ thuyền, những người ít học, nghèo tiền, nhưng lại tràn đầy sức lực, chịu thương chịu khó, góp phần cho hoạt động của các cơ xưởng như thủy quân công xưởng (Arsenal) - sau này là xưởng Bason - Sở thùng (sở vệ sinh), Nhà đèn (nhà máy điện chợ Quán).
Con đò Thủ Thiêm đóng vai trò quan trọng và gây nhiều ấn tượng, bởi vì Sài Gòn xưa đường bộ ít, xe cộ chưa nhiều (ngày đầu chủ yếu là xe thô sơ, xe ngựa...) nên chưa có cái mà sau này người ta gọi là “bến xe”. Thử tưởng tượng nếu thời ấy không có những con đò nhỏ qua lại bến sông Thủ Thiêm, thì người hai bên đi lại bằng gì? Hai bên tuy cách nhau một dòng sông, vậy mà khác nào vạn dặm trùng dương. Hai câu hát trên đã ngụ ý nói rằng, dù ai có làm gì, nói gì, con đò Thủ Thiêm vẫn cứ đưa, vẫn muôn thuở cần cho mọi người... Theo ông bà kể lại thì thuở xưa, bến đò phía bên Sài Gòn chưa được xây kè và cầu nổi lên xuống như ngày nay, mà chỉ là một bờ sông đất, có tạo những bậc lên xuống lót bằng ít đá xanh. Buổi đầu, từ cuối thế kỷ XVII đến những năm đầu thập niên 10-20 của thế kỷ XVIII, bến đò Thủ Thiêm đặt ở hai nơi: một ở chỗ cột cờ Thủ Ngữ, còn bên kia ở gần xưởng Bason. Sau đó, có lệnh của quan Tổng trấn Gia Định, dồn hai bến làm một, đặt chỗ lên xuống ở bến phà hiện giờ. Lý do của việc di dời này được kể lại rằng: Ngày đó, tại bến sông Sài Gòn (bến Bạch Đằng ngày nay) ở đầu kia (đường Loro - sau đổi là Cường Để và hiện thời là đường Tôn Đức Thắng) quá gần với cổng thành Sài Gòn (nằm ở khoảng đường Lê Thánh Tôn và Tôn Đức Thắng hiện nay), còn đoạn gần cột cờ Thủ Ngữ thì thuở ấy có xây hai tòa nhà trên sông, dành cho vua, gọi là Thủy Các và Lương Tạ. Nhà xây trên bè tre, theo kiến trúc Đông phương, kiểu dáng cung đình Huế.
Theo tài liệu của cố học giả Vương Hồng Sển, thì ngày xưa, chỗ bến sông từ Thủy xưởng (Arsenal) đến cột cờ Thủ Ngữ được gọi chung là “Bến Ngự” (nơi vua ngự vui chơi, hóng mát), xuất phát từ tiếng Cao Miên gọi là Compongluong (người Việt ta âm ra là Tầm Phong Long) cũng có nghĩa là “bến vua”. Vốn nơi này là chỗ dành riêng cho vua, quan và giới quý tộc ngày xưa lui tới, hóng mát giải sầu... Đối diện với Bến Ngự là xóm Thủ Thiêm, hay còn gọi là xóm Thủy hoặc xóm Tàu Ô. Về hai địa danh này được giải thích rõ như sau: nguyên chỗ đối diện với Thủy xưởng (Arsenal), phía bờ Thủ Thiêm, khi người Pháp chiếm Sài Gòn, họ đã vừa lập Arsenal, vừa lập Thủy Trại, là nơi chuyên đóng tàu chiến. Dân địa phương đặt xóm đó là “xóm Thủy Trại”, sau đọc ngắn lại là “xóm Thủy”. Còn từ “xóm Tàu Ô” là bởi vùng bờ sông Thủ Thiêm thuở người Pháp chưa đến chính là căn cứ địa của nhóm thương lái kiêm hải tặc đường biển gốc Tàu (Hoa) di chuyển trên những chiếc thuyền, buồm toàn một màu đen (nên gọi là Tàu Ô). Bọn này quy thuận chúa Nguyễn, được đặt cách cho sinh sống ở vùng Đồng Nai (Cù lao Phố) và vùng Gia Định, Sài Gòn (do việc này mà vùng Đề Ngạn - sau gọi là Chợ Lớn - mới thành nơi tập trung toàn người Hoa). Nhóm Tàu Ô cũng dùng Thủ Thiêm làm bàn đạp, quậy phá thành phố Sài Gòn. Sau này, khi người Pháp đã làm chủ thành phố, họ vẫn còn sợ sự quấy nhiễu đó, nên luôn đặt lực lượng hải quân trong tình trạng phòng thủ. Những khẩu đại pháo mà hiện nay ta còn thấy đặt ở dọc bờ sông trước doanh trại hải quân gần Bason và ở vài nơi khác, là tàn tích của công cuộc phòng thủ thời ấy.
Khi xóm Tàu Ô tan rã, những chiếc thuyền với cánh buồm đen không còn nữa, thì Thủ Thiêm trở lại cuộc sống bình nhật của nó. Song, do bị ảnh hưởng bởi một thời gian dài sống chung với bọn cướp biển, nên dù muốn dù không, dân địa phương cũng chịu ảnh hưởng phần nào.