← Quay lại trang sách

Chương 8 - Xuyên Nguyên Tố Hoá Ở Transylvania.

Chuyến tàu Tốc hành Hoàng gia Hungary gầm rú suốt đêm. Trong khi Philippa đã yên giấc ngay sau bữa tối, John vẫn cố thức, phòng trường hợp Izaak xuất hiện. Nhưng thật khó để không buồn ngủ với cái toa xe đu đưa, lắc lư như một chiếc nôi, cùng tiếng bánh xe lăn trên đường ray đều đều như thôi miên. Ngáp dài vài cái và duỗi mình như một con mèo lười, cậu áp mặt vào sát khung cửa sổ lạnh buốt, hy vọng sẽ thấy một cái gì đó thú vị ở trên những dải đất phủ đầy ánh trăng bên ngoài. Nhưng cậu gần như không thấy được gì ngoài khuôn mặt trắng bệch, lờ mờ của chính mình phản chiếu trên lớp kính.

John cho phép mi mắt cậu khép lại một chút. Rồi “một chút” trở thành vài cái “một chút” khác dài hơn khi chuyển động của đoàn tàu nhẹ nhàng đưa tâm trí cậu đến một nơi yên tĩnh và tối thẫm. Izaak sẽ lên tàu khi nào nhỉ? Tại sao trên tàu lại không có tivi như ở trên máy bay? Tại sao nhà ga Berlin lại ở trong một sở thú? Tại sao ba mẹ cậu lại ở trên tàu? Và tại sao họ lại mỉm cười nhìn lên giá để hành lý, nơi một con rắn lớn với cái đầu của gã Iblis đang trừng mắt nhìn xuống họ? Mà tại sao Iblis lại ngừng tàu lại?

John ngồi bật dậy khi nhận ra con tàu Tốc hành đang đứng im một chỗ. Ngay cả khi nhận ra tất cả chỉ là một giấc mơ, cậu vẫn lo lắng liếc nhìn lên giá hành lý. Nằm dọc theo ba phần ghế, Philippa vẫn đang chìm sâu trong giấc ngủ, ngáy nhè nhẹ. Thình lình, một tiếng sấm to đùng nổi lên, và đi liền đó là một tia chớp sáng rực xé toạc màn đêm, làm hiện ra một sân ga vắng lặng treo biển SIGNISOARA. Họ đang ở Transylvania. Và không đơn giản chỉ ở Transylvania, mà, theo lời ông Groanin, ở ngay tại quê nhà của Dracula.

Lo lắng liếc nhìn đồng hồ đeo tay của mình, John nhận ra giờ chỉ vừa mới qua nửa đêm, và ước gì cậu nghe lời khuyên của ông Groanin về bữa tối. Món ragu Hungary có vị hơi buồn cười – nó là loại thức ăn mà ông Groanin, với cái dạ dày mỏng manh của mình, sẽ chẳng bao giờ đụng đến – nhưng cậu không biết liệu người ta có bỏ chút tỏi nào vào nấu chung với nó hay không. Ngoại trừ tiếng động cơ đầu xe lửa quay vòng chậm chạp, còn lại mọi thứ hoàn toàn im lặng bên trong toa xe. Với tay bật ngọn đèn trên đầu lên, John dí mũi vào khung cửa sổ, cố nhìn xem thị trấn Transylvania cổ kính thì có gì hay. Và gần như ngay lập tức, cậu kinh hoảng nhảy giật lùi lại, vì trong một tích tắc, một tia chớp khác nổ lên, rọi sáng một khuôn mặt đang nhìn thẳng vào cậu. Một khuôn mặt có thể dễ dàng thắng cuộc trong Giải Vô địch Đầu tượng Ghê khiếp Nhất Thế giới. Tim đập dồn dập như trống thúc, John lồm cồm bò đến đầu giường phía bên kia, càng xa cửa sổ càng tốt.

Hoàn toàn mù tịt về sinh vật ở bên ngoài cửa sổ, Philippa hé một mắt ra nhìn anh và hỏi một cách ngái ngủ:

– Gì vậy? Nhìn anh cứ như là vừa thấy ma ấy.

Chỉ tay về phía cửa sổ, John lo lắng nói:

– Có cái gì đó ở bên ngoài.

Philippa ngáp dài:

– Ngốc ạ, dĩ nhiên phải có cái gì đó chứ. Người ta gọi nó là châu Âu.

– Không, không phải cái đó. Một cái gì khác cơ. Một cái gì đó, hoặc một ai đó.

Hít một hơi thật dài để cưỡng lại cơn buồn ngủ, Philippa ngồi dậy và nhìn ra ngoài cửa sổ. Lại một tia chớp khác thắp sáng tấm biển ga, nhưng cô không thấy có gì đáng chú ý bên ngoài. Sân ga vắng lặng như tờ.

Lắc đầu buồn bã như thể tội nghiệp cho ông anh và cái óc hài hước trẻ con của cậu, cô nói:

– Đừng nói với em là anh thấy Dracula nha. Giỡn hoài!

– Không, thật sự có ai đó ở bên ngoài mà.

– Đây là sân ga mà anh. Lúc nào mà chẳng có người ở sân ga. Ngay cả ở Transylvania. Ngay cả trong thời tiết thế này.

– Người đó trông kinh lắm.

– Xấu mặt không đồng nghĩa với xấu nết. Anh phải biết điều đó chứ.

Vẫn chỉ thẳng vào cửa sổ, John khăng khăng:

– Xấu bình thường thì nói làm gì? Anh đang nói về xấu như trong phim kinh dị ấy. Tin anh đi, anh biết sự khác biệt giữa hai định nghĩa đó mà.

Nhìn xuống dưới sân ga, Philippa nhận xét:

– Dù là gì thì thứ anh thấy phải rất cao đó. Bét nhất cũng phải cao 7-8 feet[13] nếu muốn nhìn vào cửa sổ toa xe này.

Mười phút trôi qua, nhưng con tàu vẫn đứng im tại chỗ. Philippa rùng mình. Cô bắt đầu nhận ra có thể John thật sự không nói đùa với cô. Không chỉ vậy, có một điều gì đó về sân ga này làm cô bắt đầu thấy sợ.

Cô lo lắng nói:

– Hy vọng con tàu không bị hư hỏng gì.

John đứng dậy, mở cửa toa và rụt rè liếc nhìn xuống lối đi vắng lạnh bên trong con tàu, cố dỏng tai nghe ngóng xem rốt cuộc chuyện gì đang xảy ra. Nhưng cậu không nghe thấy gì. Cậu bước ngược vào trong toa xe của mình và đóng cửa lại sau lưng. John không muốn nói thêm điều gì làm Philippa hoảng sợ thêm – giờ này thì cô đã bắt đầu sợ hãi như cậu – nhưng cậu chắc chắn đã thấy khuôn mặt trên cửa sổ trước đây, trên một bức tranh minh họa trong cuốn Quy luật Baghdad Rút gọn của ông Rakshasas.

Trước đây, cậu từng nghĩ chỉ có ba sinh vật trên trái đất: con người, djinn và thiên thần. Tuy nhiên, cuốn QBRG đã chỉ rõ còn có một sinh vật thứ tư – những thiên thần bị đuổi xuống trần, hay còn được gọi là quái vật. Trong số những quái vật được nói đến trong sách, Asmodeus là một trong những quái vật khủng khiếp và độc ác nhất. Tương truyền con quái vật này có ba đầu, bao gồm một cái đầu bò và một cái đầu cừu, nhưng chính cái đầu thứ ba – cái đầu của một con yêu tinh hung ác – là thứ mà John chắc chắn đã thấy bên ngoài cửa sổ dù chỉ trong chốc lát. Tuy không chắc lắm, nhưng cậu tin một quái vật như Asmodeus có lẽ đủ cao để nhìn vào cửa sổ một toa xe lửa. Cậu chắc rằng chẳng quái vật có lòng tự trọng nào lại thèm đi kê một cái hộp để đứng lên.

Philippa thú thật:

– Sau những gì ông Groanin nói về Sighisoara, em chẳng thích bị kẹt ở đây vào ban đêm tí nào.

John nói:

– Ông ấy chỉ dọa chúng ta thôi mà.

– Ờ, anh nói như thể anh không sợ ấy.

John cố trấn an em gái:

– Cố nghĩ tích cực đi nào, Philippa. Chúng ta đang ở toa hạng nhất mà. Dù tàu có bị trục trặc, thì gần như tất cả những gì chúng ta muốn đều có. Và có lẽ cũng phải nói thêm là cũng không có cái gì mà chúng ta không muốn hết.

Cậu vừa nói dứt lời, tất cả bóng đèn đang bật trong toa bỗng phụt tắt, động cơ đầu máy xe lửa ngừng quay, và ngoại trừ ánh sáng nhấp nháy của những tia chớp bên ngoài, còn lại tất cả mọi thứ đều chìm trong bóng tối.

Philippa hỏi:

– Anh vừa nói gì nhỉ?

Cố thuyết phục bản thân, John lý giải:

– Chắc là do nước thấm vào các khớp nối điện tử của tàu. Mưa nhiều thế cơ mà. Anh cá là người ta sẽ cho người đến sửa. Mà có thể người đó đang ở ngoài rồi cũng nên.

John mở cửa sổ. Cực kỳ cẩn thận, cậu thò đầu ra không khí lạnh lẽo, ẩm ướt bên ngoài và nhìn dọc xuống chiều dài con tàu, hy vọng sẽ thấy nó đang được sửa chữa. Thay vào đó, lù lù cạnh lề rừng ở khúc đường ray đằng xa, cậu nhìn thấy một thân hình to lớn lẩn khuất trong bóng đêm. Ban đầu, John hy vọng đó chỉ là bức tượng một vị anh hùng nào đó của Transylvania. Nhưng rồi, khi đám mây che phủ ánh trăng tròn trôi đi, rọi sáng đường ray và khu sân ga, John cảm thấy như ai đó đang bóp chặt lấy trái tim mình khi cậu nhận diện được ba cái đầu đặc trưng, cái đuôi của loài bò sát và hai bàn chân gà màu đen khổng lồ. Đúng là con quái vật đó rồi, và dường như nó đang chờ đợi ai đó lên tàu Tốc hành.

Philippa hỏi:

– Có thấy gì không anh?

John trả lời:

– Không. Không thấy gì cả.

Đóng vội cửa sổ, cậu ngồi xuống với một nụ cười giả tạo trên mặt, như thể không có gì bất thường. Nhưng trong đầu, cậu bắt đầu cân nhắc việc sử dụng cái ký gửi ước – điều ước khẩn cấp – mà ông Vodyannoy đã tặng cho cậu ở tòa nhà Dakota của New York. John chỉ vừa mới nhớ ra cậu có nó, bây giờ chỉ cần cậu nhớ ra cái từ trọng tâm bằng tiếng Đức mà ông Vodyannoy đã gắn lên điều ước là được. Trên thực tế, cậu ngay lập tức nhớ ra cái từ đó đúng như dự kiến của ông Vodyannoy. Vấn đề ở chỗ, dù cậu nhớ rõ – cậu có thể thấy từ DONAUDAMPFSCHIFAHRTSGESELLSCH AFTKAPITAEN rõ mồn một như thể nó được in ngay bên trong mi mắt cậu – cậu hoàn toàn không có khái niệm cái từ đó phát âm như thế nào.

Cậu lẩm bẩm:

– Don Ow damp schiff…

Philippa trợn mắt nhìn anh:

– Não của anh lại bị bội thực nữa à, John. Anh lảm nhảm gì vậy? Chẳng có nghĩa gì cả.

– Hả? Ờ…

Tiếng nói huyên thuyên của cô em gái dường như càng làm cậu rối trí hơn khi cố phát âm từ của ông Frank Vodyannoy:

– Donut ampfi…

– Bó tay với anh luôn. Dù gì thì gì, có vẻ chúng ta sẽ ở đây lâu à. Ý em là, đây là tàu lửa, không phải xe hơi. Sẽ tốn ối thời gian để kiếm ra một cái máy sấy tóc đủ lớn để làm khô mấy khớp nối điện tử của nó đấy.

Nhưng ngay khi Philippa đang nói, động cơ tàu bắt đầu hoạt động và những bóng đèn bên trong toa bật sáng trở lại. Và, gần như ngay lập tức, John quên phắt việc cố phát âm cho đúng từ trọng tâm của cái ký gửi ước sẽ ước cho con quái vật bên ngoài biến mất. Giờ đến lượt cậu tỏ ra thông minh với em gái.

Khi con tàu giật mạnh một cái và bắt đầu di chuyển, cậu nhại lại lời Philippa:

– Em vừa nói gì nhỉ?

Nhẹ cả người, Philippa cười nói:

– Ôi, cảm ơn Chúa. Phải nói là em có thể nghĩ ra nhiều chỗ qua đêm khác dễ chịu hơn nhiều so với chỗ này.

Tuy nhiên, ngay trong giây tiếp theo, cặp sinh đôi cứng đờ cả người khi nghe một tiếng gầm lớn từ đằng xa vọng lại. Tiếng gầm như của một con thú lớn.

Nuốt nước miếng cái ực, Philippa thều thào hỏi:

– Con gì vậy?

John biết tốt nhất cậu không nên nói cho Philippa biết chính xác cậu đã nhìn thấy gì. Cậu chỉ ậm ừ:

– Chắc là một con bò.

Lại một tiếng gầm khác, lần này lớn hơn nhiều. John nhún vai:

– Hoặc là một con nai sừng tấm.

Philippa lắc đầu:

– Làm gì có con nai sừng tấm nào ở Transylvania.

Con vật bên ngoài lại gầm lên. Lắc đầu một cách sợ hãi, Philippa nói:

– Và nếu em không lầm, ngay cả con bò lớn nhất ở đất nước này cũng không thể nào to bằng một cái xe buýt để có thể gầm lớn như vậy. Ngoài ra, nó sẽ không gầm rống như vậy nếu nó không có nhiều răng và móng vuốt sắc nhọn đi kèm.

Một tiếng lộc cộc vang lên bên ngoài làm John quay mặt ra cửa sổ, vừa kịp nhìn thấy một cỗ xe ngựa nhỏ đen ngòm được kéo bởi hai con ngựa đen, chạy dọc theo sân ga để đuổi theo con tàu đang từ từ tăng tốc. Dán mặt vào sát cửa sổ, cặp sinh đôi thấy cỗ xe ngựa đen chạy vượt qua toa tàu của họ, rồi dừng lại trước họ khoảng hai mươi dặm. Trùm kín người trong cái áo khoác Ulster dày cộm và đội cái mũ rộng vành, người đánh xe ngựa quăng cặp dây cương qua một bên, nhảy xuống xe, chạy dọc theo con tàu trong vài giây trước khi mở một cánh cửa và nhảy lên tàu.

Philippa hỏi:

– Anh có nghĩ đó là Izaak không?

John trả lời:

– Hy vọng thế. Tốt nhất là thế.

Một giây sau, cặp sinh đôi nghe con vật gầm lên lần nữa, chỉ có điều lần này tiếng gầm có vẻ ở xa hơn, như thể con tàu đã bỏ nó lại phía sau trong bóng đêm Transylvania. John cảm thấy cậu đã có thể thở phào nhẹ nhõm.

Khi nghe tiếng cửa tàu đóng sập lại sau lưng vị hành khách bí ẩn, Philippa hỏi lại: - Rốt cuộc con gì vậy anh?

Bây giờ John mới dám nói cho em gái nghe chính xác cậu đã thấy cái gì đứng cạnh đường rày, và Philippa mừng vì cậu đã giữ im lặng. Nếu cậu nói, có lẽ cô sẽ phải dùng cái ký gửi ước mà chú Nimrod đã đưa cho cô trước cuộc hành trình. Cô, chứ không phải John (người thậm chí không biết cô có nó), vì chú Nimrod nói ký gửi ước chỉ dành cho tình huống thật sự khẩn cấp, và khái niệm về tình huống khẩn cấp của John có thể chỉ là cậu cảm thấy chán hoặc đói bụng, hoặc cả hai thứ cùng một lúc. Dù gì đi nữa, Philippa cũng không bao giờ nghi ngờ sự can đảm của anh trai. Nếu John nói cho cô biết Asmodeus đang đuổi theo họ, thể nào cô cũng nói lớn từ trọng tâm SHABRIRI, và ký gửi ước của cô sẽ biến mất cùng với con quái vật. Vẫn còn một chặng đường dài trước khi hai anh em tới được Berlin, và Philippa cảm thấy yên tâm hơn rất nhiều khi biết cô vẫn còn một cái ký gửi ước để dành. Dĩ nhiên, cô hoàn toàn không biết John cũng có một cái ký gửi ước của riêng cậu.

Ngồi phịch xuống ghế, Philippa hỏi:

– Anh nghĩ tại sao Asmodeus lại theo đuổi chuyến tàu này?

Tiếng bước chân vang lên từ hành lang bên trong tàu, và một bóng người trong cái áo khoác ướt sũng nước hiện lên trên cánh cửa kính toa tàu của cặp sinh đôi.

John nhún vai:

– Anh cũng không biết. Nhưng anh nghĩ chúng ta sắp biết được lý do ngay thôi.

Cánh cửa mở ra, vị hành khách bí ẩn bước vào trong toa tàu của cặp sinh đôi và ngồi phịch xuống ghế. Anh chàng quàng đến mấy lớp khăn choàng và một cái mũ trùm kín cả hai lỗ tai, nên phải mất đến mấy phút, cặp sinh đôi mới có thể chắc chắn đó đúng là Izaak Balayaga. Gỡ lớp khăn choàng cuối cùng ra khỏi cổ, anh thở dài nhẹ nhõm và mỉm cười tinh quái với cặp sinh đôi. Anh hỏi lớn:

– Có thấy nó không? Ashmadai. Có thấy nó canh me anh không? Cái thứ vô lại già nua đó?

Hơi thất vọng vì đã đoán sai danh tính con quái vật, John hỏi:

– Ashmadai là ai?

Izaak cười cái khịt:

– Nghe cậu bé nhà ta hỏi Ashamadai là ai kìa? Dĩ nhiên là Asmodeus rồi. Quái vật phán quyết chứ ai nữa. Một tên ma đầu cuồng nộ và vô cùng quỷ quyệt mà cậu chỉ nên động đến khi nào đã cởi mũ ra.

Vừa cười lớn, Izaak vừa quăng cái mũ của mình xuống sàn. Nhìn anh có vẻ đang rất hài lòng với bản thân. Có lẽ với cả hàm răng của anh nữa, vì anh đang khoe với Philippa một nụ cười vừa rộng mở vừa trắng lóa. Izaak đứng dậy cởi cái áo khoác Ulster ra trước khi nói tiếp:

– Hắn còn mang tên Saturn, Marcoft và Chammaday. Và gần đây hắn còn được anh gọi bằng những từ không thể nói ra trước mặt một quý cô. Đã hai ngày nay hắn ta bám đuôi anh. Bất kể ngày đêm.

Mỉm cười chua chát, anh hỏi:

– Hai đứa có ai biết bị một con quái vật đầy rẫy chiến tích bất hảo như Ashmadai bám theo sát nút suốt bốn mươi tám tiếng đồng hồ là như thế nào không?

Philippa thừa nhận:

– Không ạ.

– Đảm bảo không như một cuộc dã ngoại. Nếu bị tóm được, thể nào tim và gan anh cũng trở thành bữa sáng cho Ashmadai. Chiên tim, gan anh trong máu cừu và mở tiệc mừng. Vâng, chúc ngon miệng.

Philippa thắc mắc:

– Nhưng sao Ashmadai lại bám theo anh chứ?

Izaak nhe răng cười:

– Ấy, anh nghĩ điều đó phải quá hiển nhiên rồi chứ, cô bé.

Philippa cắn lưỡi. Cô không thích bị gọi “cô bé”, đặc biệt khi người gọi chỉ lớn hơn cô có vài tuổi.

Izzak mặc một áo choàng đen dài, có dây buộc kiểu như dây giày, áo sơ mi trắng tinh, và đeo găng tay da đen. Đốt một điếu xì gà to tướng, như thể ăn mừng sự thoát nạn trong gang tấc của mình, anh giải thích:

– Dĩ nhiên con quái vật đó theo đuổi cuốn Grimoire của vua Solomon rồi. Asmodeus – như cách hai đứa gọi nó – và Solomon quay trở lại. Khi vua Solomon trị vì Israel, Asmodeus đã rất ghen tị việc ông có đến một ngàn bà vợ. Và là một tên ác quỷ ranh mãnh, hắn đã lấy trộm chiếc nhẫn chứa đựng quyền lực của vua Solomon. Tháo cái nhẫn khỏi tay Solomon khi ông đang ngủ và đeo vào tay hắn. Giả làm Solomon, và vì ma thuật của cái nhẫn, tất cả mọi người đều tin hắn. Trong khi đó, không ai tin lời giải thích của vua Solomon thật sự, và ông đã phải cắn răng làm đầu bếp trong chính lâu đài của mình suốt một thời gian dài.

May cho Solomon là một ngày nọ, một bà vợ của ông làm rớt ít bột xuống sàn, và Asmodeus tình cờ đi qua nó. Và bà vợ đã nhận ra dấu chân để lại trên lớp bột của bà là chân của một con quái vật. Đoán được chuyện gì đã xảy ra, bà đã rình lúc Asmodeus ngủ để trộm lại cái nhẫn, và vua Solomon thật sự đã được quay lại ngai vàng của mình.

Tuy nhiên, khi còn giả dạng là Solomon – vị pháp sư vĩ đại, Asmodeus đã mò vào thư viện của Solomon và phát hiện cuốn sách ông đang viết. Cuốn sách chứa đựng tất cả sự thông thái của ông, cũng như cách dùng sức mạnh khống chế mọi djinn, thiên thần, mundane và quái vật. Rất may người tiếp theo có được cuốn sách chính là Ishtar. Nghe bảo đó là một món quà từ Hoàng đế Nebuchadnezzar. Nhưng kể từ đó, Asmodeus luôn tìm mọi cách để có được cuốn sách.

Izaak bật ra một tiếng cười rầu rĩ:

– Nói thật cho hai đứa biết, anh cũng mới phát hiện ra chuyện đó thôi. Nó là một trong những lý do anh muốn trả cuốn sách lại cho Bà ấy càng sớm càng tốt.

Anh không muốn cứ bị Asmodeus bám đuôi hoài.

– Bà ấy?

– Ayesha. Người-Phải-Được-Phục-Tùng-Mọi-Lúc chứ còn ai.

Philippa hỏi:

– Vậy cuốn Grimoire đó giờ đang ở đâu?

Vén áo khoác lên, Izaak chỉ cho cô một cái túi áo to cỡ cái ba lô được đính ngầm bên trong một cách khéo léo. Từ bên trong túi, anh rút ra một cuốn sách bọc da đẹp đẽ được chạm nổi hình một cái thang bằng vàng, trên đỉnh thang, cũng được chạm nổi bằng vàng, là con mắt Horus, con-mắt-nhìn-thấy-mọi-thứ, biểu tượng có trên mọi tờ một đô Mỹ.

Đặt cuốn sách lên cái ghế bên cạnh, Izaak nói:

– Nó đây.

John thắc mắc:

– Nhưng nếu anh có cuốn sách này, và cuốn sách có giải thích cách khống chế tất cả quái vật, tại sao anh không dùng nó để đối phó với Asmodeus?

Izaak trả lời:

– Cậu nghĩ đơn giản vậy à? Vấn đề ở đây là sau khi anh… ừm… mượn cuốn sách, anh mới biết thật sự không phải ai cũng mở được nó. Chỉ những người thật sự thông minh và có một trái tim thánh thiện mới có thể mở được cuốn Grimoire của vua Solomon. Đó là một biện pháp an toàn nho nhỏ mà Djinn Xanh gắn cho cuốn sách, để phòng trường hợp nó bị mất trộm.

Philippa hỏi:

– Có nghĩa là anh không thể sử dụng cuốn sách dù rất muốn?

Izaak nhún vai:

– Anh e là thế. Có vẻ như sẽ có người sử dụng được, có người không. Và việc anh trộm cuốn sách có nghĩa, theo mặc định, anh thuộc nhóm người thứ hai. Cho nên, ờ, chúng ta mới có mặt ở đây.

Ngắm nghía kỹ cuốn sách, John hỏi:

– Em thử được không?

Izaak khoát tay nói:

– Cứ tự nhiên.

Rụt rè cầm cuốn Grimoire lên, John khá ngạc nhiên khi phát hiện nó nặng ngang một tảng đá cùng kích cỡ.

Cậu nhận xét:

– Cái này nặng cả tấn chứ không ít. Và nó có mùi hơi kỳ kỳ. Giống như hương hoa, chỉ có điều nồng hơn.

Bìa sách được bảo vệ bởi một lớp mỡ bôi lô hội, chắc là để giữ cho bìa không bị rạn.

Đặt cuốn sách lên lòng, John thử mở nó ra. Loay hoay một lúc, cậu đầu hàng:

– Anh nói đúng. Cái bìa sách chả nhúc nhích gì cả. Em không mở được nó, chẳng hơn gì anh.

Philippa nhận xét:

– Vô lý. John, anh đâu có trộm nó. Và anh chỉ là một đứa trẻ như em. Một đứa trẻ mười hai tuổi sao lại chẳng có một trái tim thánh thiện chứ? Để em thử.

Và cô đưa tay lấy cuốn sách. Cũng nhận ra cái mùi kỳ lạ của cuốn sách, Philippa dí sát mũi xuống bìa cuốn sách hít thử vài cái, rồi tuyên bố:

– Là mùi hoa huệ tây.

Quan tâm đến việc em gái có mở được cuốn sách hay không hơn là việc nó có mùi như thế nào – một cái mùi còn lưu lại trên đầu ngón tay cậu – John giục:

– Em mở thử nó đi.

Nhưng Philippa cũng thất bại trong việc mở cuốn sách ra. Cô lắc đầu, cảm thấy bực bội. Là người luôn tự hào về trí thông minh và sự tốt bụng của mình, Philippa hơi cáu khi một cuốn sách dành cho những ai thông minh và có trái tim thánh thiện lại từ chối cô. Thật quá vô lý.

Izaak lấy lại cuốn sách, và đến tận lúc này, cặp sinh đôi mới nhận ra anh vẫn đeo găng tay, và dường như nụ cười của anh bắt đầu có một cái gì đó kỳ lạ. Phải mất một phút nữa John mới nhận ra không phải nụ cười của Izaak kỳ lạ mà chính là cơ thể cậu. Một cảm giác đờ đẫn kỳ lạ bắt đầu bò dọc đầu ngón tay cậu, leo lên bàn tay, rồi cánh tay theo một cách gợi cho cậu biết một cái gì đó đã thấm vào da cậu khi cậu đụng đến cuốn sách. Cảm giác tê cứng cả người này nhanh chóng nối đuôi bằng sự tức giận khi cậu thấy Izaak, không gặp một chút khó khăn nào, mở cuốn sách ra và gỡ vài món đồ ra khỏi một phần không gian rỗng bên trong nó.

Vẫn chưa hoàn toàn nhận rõ cái bẫy của Izaak, John hỏi:

– Ủa, sao anh nói anh không mở được cuốn sách?

Izaak trả lời một cách đơn giản:

– Anh không thể. Khi nào cả hai đứa chưa chạm vào cuốn sách trước. Nếu không sẽ hỏng bét.

Đến lúc này thì cả Philippa cũng cảm thấy bị bất động từ cổ trở xuống. Cô hỏi:

– Chuyện gì thế này? Em không cử động được.

Izaak nói:

– Chỉ là ảnh hưởng của lớp mỡ bôi trên bìa da của cuốn sách thôi. Nó chứa một dạng hóa chất có thể thẩm thấu vào da, được chắt lọc từ độc tố của loài bọ cạp Deathstalker. Nó không giết hai đứa đâu mà lo. Nhưng nó sẽ làm hai đứa bất động trong vài phút. Và anh cũng chỉ cần nhiêu đó thời gian. Đừng có cả nghĩ nhé. Anh cũng không có lựa chọn nào khác đâu.

John nhận ra lần này hai anh em đang gặp rắc rối thật sự. Và đối mặt với một tình huống khẩn cấp thật sự, trái ngược với tình huống xém khẩn cấp, cậu không gặp khó khăn gì trong việc đọc lên cái từ tiếng Đức sẽ giúp cậu giải phóng điều ước khẩn cấp đã lẩn tránh cậu trước đó. Chính xác như những gì ông Frank Vodyannoy đã dự định.

Tuy nhiên, là em sinh đôi với John, đầu óc của Philippa đã trải qua tiến trình suy nghĩ tương tự, nên kết quả là cả hai đã đọc to từ trọng tâm cho cái ký gửi ước của riêng mình…

– DONAUDAMPFSCHIFAHRTSGESELLSCHA FTKAPITAEN!

– SHABRIRI!

… vào chính xác cùng một lúc.

Không may, kết quả của việc này là hai ký gửi ước loại trừ lẫn nhau. Đó cũng là lý do tại sao chú Nimrod chỉ đưa cho cặp sinh đôi một điều ước khẩn cấp duy nhất.

Dĩ nhiên John và Philippa không biết được điều đó, mà cho rằng sức mạnh của Izaak Balayaga mạnh hơn ký gửi ước của mình. Hai anh em chỉ có thể tuyệt vọng đứng nhìn Izaak dùng gỗ cây lô hội, một ít đất sét, hai khúc xương động vật, ít tơ lụa, và một cọng tóc lấy từ đầu cả hai để tạo ra hai hình nộm nhỏ nhìn giống y chang hai phiên bản John và Philippa thu nhỏ.

Philippa hỏi:

– Anh đang làm gì vậy?

– Đây là phép trói buộc djinn. Hai đứa thấy đó, anh chỉ có thể xuyên nguyên tố hóa từng đứa một. Nếu anh không khống chế cả hai thật kỹ từ đầu, một trong hai đứa có thể xuyên nguyên tố hóa anh trong khi anh đang làm điều tương tự với đứa còn lại.

Philippa ngơ ngác:

– Xuyên nguyên tố hóa? Ý anh là phép hóa thể?

Izaak nhăn mặt giải thích:

– Cái lão ngốc Nimrod không dạy gì cho hai đứa sao trời? Hóa thể là khi hai đứa tự biến mình vào trong chai. Xuyên nguyên tố hóa là khi hai đứa làm điều đó với một người khác. Và trái với ý muốn của họ.

Vừa nói, Izaak vừa rút ra hai cây kim dài ngoằng và thụt một cây vào hình nộm của John.

John cười chế giễu:

– Chả đau chút nào.

Izaak nhún vai:

– Thì có ai nói sẽ đau đâu. Đây không phải mấy cái hình nhân voodoo ngớ ngẩn, dù mấy mụ phù thủy mundane lấy ý tưởng từ nó ra. Nó dùng để hoàn thành phép trói buộc. Dùng cho lúc độc tố bọ cạp hết tác dụng.

John gồng mình la hết công suất, hy vọng bảo vệ tàu hoặc một hành khách nào đó có thể đến giúp họ.

Izaak bảo với cậu:

– Cậu giữ hơi đi. Tất cả những người khác đã ngủ rồi. Và cậu nên cảm thấy may mắn là anh không biến cậu thành một hình nộm đấy. Nếu anh biến cậu thành hình nộm, cậu sẽ kẹt mãi mãi trong hình dạng đó cho đến khi nào anh đổi ý. Còn như thế này, khoảng chừng một ngày nữa là cậu trở lại bình thường thôi. Cứ ngoan ngoãn ngồi chờ đi.

Philippa hỏi:

– Nhưng sao anh lại làm chuyện này chứ? Tất cả chuyện này nghĩa là sao? Anh làm việc cho Asmodeus sao?

Izaak bật cười và ghim tiếp cây kim thứ hai vào hình nộm của Philippa, rồi cho biết:

– Chẳng có Asmodeus nào cả. À, thật ra là có đấy. Chỉ là không ở trong trường hợp này. Asmodeus mà hai đứa thấy chỉ là một thứ anh tạo nên để đánh tan mọi nghi ngờ của hai đứa thôi. Một biện pháp đánh lạc hướng. Không, tên Asmodeus thật sự sẽ bắt kịp chuyến tàu này trong tích tắc và đập tan nó thành từng mảnh gỗ vụn để thó tay vào cuốn Grimoire thật. Không phải cuốn sách này, dĩ nhiên rồi. Cuốn Grimoire của vua Solomon thật quá đáng giá để mang lên một chuyến tàu. Con quái vật hai đứa thấy chẳng qua chỉ là một thứ anh tạo ra dựa trên hình minh họa trong cuốn sách mới của ông Rakshasas thôi.

Giơ cao hai hình nộm trên hai tay trong một giây, Izaak cúi đầu, giậm chân hai lần trên sàn toa tàu, và đọc lớn câu chú:

– Ta đã gõ hai lần trên cánh cửa vĩ đại của lòng đất và trói buộc hai djinn này. HADROQUARKLUON!

Rồi quăng mình xuống ghế, Izaak châm lại điếu xì gà và tự hào tuyên bố:

– Xong. Hai đứa bị khống chế rồi đó. Giờ thì anh bắt tay vào làm việc cần làm được rồi.

Philippa hỏi:

– Việc gì chứ?

– Nhớ là anh đã nói rồi mà! Anh sẽ nhét hai đứa vào hai ống khác nhau rồi đóng nắp lại.

Nói rồi Izaak thò tay rút hai cái ống nhỏ ra khỏi túi áo khoác và đung đưa chúng trước mặt cặp sinh đôi một cách bỡn cợt.

John tuyên bố:

– Ngươi sẽ không thoát được đâu.

Philippa thì nài nỉ:

– Làm ơn đi Izaak. Anh đừng làm thế mà!

Izaak thở dài và dựa mặt vào cửa sổ. Đưa tay vân vê theo một giọt mưa đang chảy dọc xuống lớp kính cửa, anh nói:

– Anh cũng muốn giúp hai đứa lắm chứ. Thật sự đấy. Chỉ có điều tay anh bị buộc chặt rồi. Nhưng đừng bi quan thế. Chuyện không tồi tệ lắm đâu.

John nghiến răng:

– Nếu cử động được, thề là ta sẽ đá ngươi văng ra khỏi khung cửa sổ đó.

Izaak cười:

– Nhưng cậu sẽ không làm thế, ông cụ non ạ. Cậu không thể.

Đứng dậy, anh nói:

– Anh thật sự xin lỗi. Nhưng như có người đã nói: “Vài người trong chúng ta tốt, và vài người trong chúng ta không tốt, nhưng tôi, tôi chỉ tuân theo mệnh lệnh”. Ráng nhớ điều đó nhé.

Đọc lớn từ trọng tâm của mình lần nữa, Izaak vẫy tay một cách điệu đàng, và lần lượt từng người trong cặp sinh đôi biến mất trong làn khói.