← Quay lại trang sách

Chương 9 - Croucher.

Ngay trước khi người hành khách cuối cùng rời khỏi chuyến tàu tốc hành Hoàng gia Hungary ở ga Zoo Station, thành phố Berlin, Alan và Neil đã bắt đầu rên ư ử lo lắng như thể nhận ra có chuyện gì đó không ổn đã xảy ra trên con tàu.

Ông Groanin hỏi:

– Giờ chúng ta phải làm gì? Tôi hỏi, chúng ta phải làm gì bây giờ?

Chú Nimrod trả lời:

– Dĩ nhiên là phải đi kiếm khắp tàu rồi. Groanin, anh mang theo Alan và kiếm từ cuối tàu lên nhé, còn tôi và Neil sẽ kiếm từ đầu tàu xuống. Chúng ta sẽ gặp nhau ở giữa tàu.

Bắt đầu đi về phía cuối đoàn tàu, ông Groanin gọi con Alan:

– Chúng ta đi thôi. Nếu mày muốn theo tao.

Con Alan nhảy theo ông.

Chú Nimrod lao lên tàu. Đến lúc này, chú thật sự không nghĩ sẽ tìm thấy cặp sinh đôi trên chuyến tàu tốc hành, mà chỉ hy vọng sẽ tìm được vài manh mối về chuyện đã xảy ra cho hai đứa cháu. Hoặc ít nhất, chú hy vọng cái mũi thính của hai con chó giống Rottweiler có thể tìm thấy cái gì đó. Và trên thực tế, ngay khi con Neil đặt chân vào toa tàu cặp sinh đôi đã ngồi, nó lập tức sủa inh ỏi. Chú Nimrod bảo nó đi gọi ông Groanin và Alan, còn mình thì xoa cây đèn bằng đồng cũ kỹ để triệu hồi ông Rakshasas.

Chờ ông Rakshasas hóa thể ra ngoài xong xuôi, chú Nimrod cho biết:

– Tôi e là chúng không còn ở trên tàu nữa.

– Ừ, tôi biết rồi. Tôi đã nghe cậu nói với anh Groanin.

Hít hít không khí hệt một con chó đang đánh hơi, ông hỏi:

– Mà cậu có ngửi thấy mùi gì không?

Chú Nimrod thừa nhận:

– Không. Không có gì đặc biệt. À, nhưng mà khoan, hình như có mùi xì gà loại hảo hạng.

Đến lượt chú Nimrod hít hít không khí.

– Loại Romeo Y Julietta. Hoặc Churchill. Đúng loại xì gà mà tôi thấy Izaak Balayaga đã hút ở khách sạn Algonquin, New York.

Rồi chú hỏi vẻ lưỡng lự:

– Có phải đó là mùi anh đang ngửi thấy không, anh Rakshasas?

Ngửi không khí một lần nữa, ông Rakshasas lắc đầu:

– Không phải. Cũng hơi lạ, nhưng dạo gần đây, cứ mỗi lần ra khỏi đèn là khứu giác của tôi lại thính hơn bình thường. Ít nhất là trong một lúc. Hiện giờ, tôi lại ngửi thấy mùi mỡ bôi lô hội. Như thể là…

Ông Groanin và hai con chó hiện ra trên cửa toa. Alan đang ngậm một khúc xương trong miệng, và nó bỏ xuống ngay dưới chân chú Nimrod. Ban đầu chú Nimrod không chú ý lắm, cho đến khi chú nhận ra sự xuất hiện của nó ở đây mang ý nghĩa gì.

Nhặt khúc xương lên, chú nói với ông Rakshasas:

– Là xương sườn cừu. Cộng thêm cái mùi mà anh ngửi thấy, nó đồng nghĩa với một thứ duy nhất.

Ông Rakshasas gật đầu:

– Là phép trói buộc của Solomon.

Ông Groanin thắc mắc:

– Nghĩa là gì mới được chứ?

– Nghĩa là người đã bắt cóc hai đứa cháu của tôi đã sử dụng một câu thần chú cổ rất mạnh, lấy từ chính cuốn sách mà John và Philippa được cử đi lấy từ Izaak Balayaga.

Con Neil bắt đầu lượn lờ khắp toa tàu với cái mũi dí sát dưới đất. Nó kiểm tra tất cả, từ cửa vào, sàn tàu, ghế ngồi đến giá đựng hành lý, nơi mà nó lập tức sủa một tiếng lớn ngay khi ngửi tới.

Chú Nimrod hỏi:

– Mày tìm thấy cái gì à?

Đứng lên trên ghế, chú liếc nhìn vào trong giá hành lý. Ở ngay phía trong cùng của giá, gần như tiệp màu với lớp kim loại sáng bóng, là một ống đựng xì gà Churchill.

Chú Nimrod tuyên bố:

– Đúng là Izaak đã ở đây.

Rồi nhặt cái ống lên, chú vặn nắp.

Ngay lập tức, khói bắt đầu ùa ra khỏi ống khi phép hóa thể djinn được triển khai. Ba mươi giây sau, John đã đứng bên trong toa tàu và kể cho họ nghe chuyện gì đã xảy ra. Dần dần, chú Nimrod và ông Rakshasas cũng có thể đoán ra chuyện đã làm họ băn khoăn suốt từ khi đặt chân lên tàu đến giờ: Rằng tại sao cái ký gửi ước mà chú Nimrod trao cho Philippa lại không hoạt động.

Ông Rakshasas nói với John:

– Thảo nào… Ông e là điều ước mà ông Vodyannoy tặng cho cháu và cái mà Nimrod đưa cho Philippa đã tự hóa giải lẫn nhau. Trong Tuyển tập tất cả các quy luật Baghdad, xuất bản năm 1940, cuốn 10, chương 62, phần 49, đã nói rằng trong một thời điểm chỉ tồn tại một tình huống khẩn cấp, và hai tình huống khẩn cấp phải luôn cách nhau hai giây. Vì hai ký gửi ước không thể tồn tại trong cùng một thời điểm, chúng sẽ bị coi như vô hiệu, do đó không hiệu nghiệm.

Ông Groanin cắt ngang:

– Giờ bàn chuyện này thì có khác gì mất bò mới lo làm chuồng chứ.

John gật đầu:

– Đúng đó.

Cầm lấy cái ống đựng xì gà từ tay chú Nimrod, cậu đặt nó dưới mũi con Alan vài giây để nó quen mùi và giải thích:

– Izaak có hai cái ống như thế này. Phải còn một ống nữa chứa Philippa. Alan, mày đi tìm nó đi. Đi tìm cái ống còn lại.

Chú Nimrod lắc đầu:

– Đúng là chúng ta có thể thử cách đó. Nhưng chú e là Alan sẽ không tìm thấy gì đâu. Nếu Izaak có ý định bắt cả cháu và Philippa, nó sẽ không cần tốn thời gian và công sức để xuyên nguyên tố hóa hai đứa riêng biệt. - Sao anh ấy chỉ bắt mỗi Philippa mà không bắt cháu?

– Chú cũng không biết. Nhưng nếu chú không tìm ra lý do thì đóng chai chú luôn đi.

Họ đứng chờ Alan. Một hồi sau, con chó cũng quay về, miệng không ngậm gì cả. Nhìn nó buồn so, vì nó cũng yêu quý Philippa không kém John.

Chú Nimrod quyết định:

– Ok, giờ chúng ta sẽ làm thế này. Groanin, anh và anh Rakshasas mang Alan và Neil về khách sạn và ở yên trong đó nhé. Đề phòng trường hợp kẻ bắt cóc liên lạc đòi tiền chuộc…

Ông Groanin hỏi:

– Còn cậu đi đâu?

Chú Nimrod trả lời:

– Đến bảo tàng Pergamon. Tôi có vài câu hỏi cho Ayesha.

John hỏi:

– Ví dụ như?

– Ví dụ như cuốn Grimoire của Solomon có thật sự bị mất trộm không. Hay đó chỉ là một câu chuyện Izaak dựng nên để lừa chúng ta vào bẫy.

Nằm ở phía Đông thành phố Berlin, Bảo tàng Pergamon được xếp là một trong những bảo tàng hàng đầu thế giới về cổ vật phương Đông, ngang hàng với bảo tàng Anh quốc và Smithsonian. Mười bốn gian phòng của Pergamon được dành để trưng bày những bộ sưu tập hoành tráng, bao gồm một số công trình tái tạo lại các di tích Babylon nổi tiếng thế giới, có màu sắc rực rỡ, được làm từ những mảnh gạch men vỡ mà các nhà khảo cổ Đức khai quật được. Trong số đó phải kể đến Cổng Ishtar – còn được gọi là Cổng Xanh của Babylon, Processional Way – con đường dành cho các đám rước, và mặt tiền sảnh thiết triều của Hoàng đế Nebuchadnezzar Đệ Nhị. Nhưng, như chú Nimrod đã giải thích cho John khi họ đến Pergamon, có cả một hệ thống phòng bí mật mà những mundane làm việc hoặc viếng thăm bảo tàng hoàn toàn không hay biết.

Chú cho biết:

– Một trong những bức tường dọc theo Processional Way là bức tường ảo được dùng chỉ với mục đích tạo thị giác, và che giấu một khoảng không lượng tử đối nghịch với khoảng không theo thuyết Descartes.

John dịch lại lời giải thích của chú Nimrod theo nghĩa đơn giản nhất:

– Ý chú là có một gian phòng bí mật ở đó?

Chú Nimrod gật đầu:

– Ừ.

Vừa đi theo chú, John vừa lẩm bẩm:

– Vậy sao chú không nói vậy cho dễ hiểu hơn?

Bên trong bảo tàng, chú Nimrod dẫn John đi dọc theo Processional Way, rồi dừng lại phía trước một bức tường làm bằng gạch men vỡ màu xanh có chạm nổi hình một con sư tử to như thật. Chú giới thiệu:

– Đằng sau bức tường này là tòa án của Djinn Xanh Babylon. Vấn đề là vào bằng cách nào thôi.

John lưỡng lự gật đầu.

Chú Nimrod giải thích tiếp:

– Phải giải phóng đầu óc khỏi những ý niệm thông thường về không gian, thời gian và vật chất. Nói cách khác là xuôi theo dòng nước.

Với John, xuôi theo dòng nước nghe có vẻ ổn. Cậu có thể liên tưởng được. Nghe có vẻ dễ dàng hơn là lội ngược dòng nhiều. Cố gắng hiểu rõ hơn điều chú Nimrod muốn nói, John hỏi lại:

– Có nghĩa đây là một bức tường giả? Chúng ta chỉ cần đi đến bên tường rồi bước thẳng qua?

– Không hẳn thế. Cháu không thể đi đến bên một thứ không thật sự có mặt ở đó. Bức tường không thật sự tồn tại. Ít nhất là không phải với chúng ta. Cháu phải cố nghĩ xa hơn phạm trù bức tường, John.

John nhăn mặt, cố gắng uốn cong suy nghĩ của mình theo gợi ý của chú Nimrod. Cho tới giờ cậu chỉ thấy rắc rối duy nhất với việc suy nghĩ ngoài phạm trù bức tường chính là bản thân bức tường. Nó cứ đứng lù lù cản đường ở đó. Đúng như vai trò một bức tường.

Chú Nimrod giục:

– Đi thôi. Chúng ta sẽ cùng làm chuyện này. Đây, cứ nắm lấy tay chú. Sẵn sàng chưa?

John gật đầu. Xuôi theo dòng, cậu tự nhủ khi hai chú cháu bước nhanh về phía bức tường. Vào đúng giây cuối cùng, lúc John đang tự thuyết phục bản thân rằng chuyện này dễ như ăn cháo, thì một ánh đèn chiếu trong bảo tàng chớp nhẹ và lóe lên trên cặp chân sau của con sư tử bằng gạch men, rồi liền đó cậu thấy mình đang nằm sóng soài trên nền Processional Way, đầu óc quay cuồng muốn xỉu, như vừa tông thẳng vào bức tường gạch với tốc độ hai đến ba dặm một giờ. Mở mắt ra, John vừa kịp thấy đôi chân của chú Nimrod biến mất qua bức tường thị giác ảo. Nhăn nhó xoa đầu, cậu lồm cồm ngồi dậy.

Một nhân viên bảo vệ to con bước đến bên cạnh John và giúp cậu đứng dậy, nhưng vì ông nói toàn bằng tiếng Đức, John hoàn toàn không thể hiểu ông đang nói gì. Cho nên cậu chỉ mỉm cười và nói mình không sao, cũng như xin lỗi vì đã không chú ý đến hướng đi. Mười phút tiếp đó, John đi tới đi lui trên hành lang, vừa để hoàn hồn vừa giả vờ ngắm Processional Way trong khi chờ chú Nimrod quay trở lại. Có thể cậu sẽ thử đi vào gian phòng bí mật đó lần nữa, nếu không có viên bảo vệ đứng lù lù một góc và nhìn cậu chằm chằm, như thể sợ John có thể làm hư hại bức tường quý giá bằng cách tông tiếp vào nó lần thứ hai. Ông ta nhìn John chằm chằm đến nỗi không hề thấy chú Nimrod im lặng bước ra từ khoảng tường ngay đằng sau ghế của ông mấy giây sau đó. Không ai nhận ra điều đó, trừ John.

Ngó cái trán u một cục của John, chú an ủi:

– Không phải lỗi của cháu đâu. Thường thì ai lần đầu đi qua bức tường thị giác ảo cũng bị vậy. Vả lại chú nghĩ có lẽ đầu óc cháu còn bị ảnh hưởng chút ít bởi phép trói buộc của Izaak.

John thú nhận:

– Cháu không chắc muốn thử cảm giác tông đầu vô tường lần nữa. Mà bà ấy nói sao chú?

– Ai cơ?

– Dĩ nhiên là Ayesha rồi.

Hướng về phía tấm bảng chỉ dẫn đề chữ Ausgang, tiếng Đức nghĩa là “lối ra”, chú nói:

– Ayesha không có ở đây.

– Vậy giờ chúng ta đi đâu?

– Đến nhà bà ấy.

– Ý chú là bà ấy không sống trong bảo tàng? Đằng sau cái tường thị giác ảo này?

– Ồ không. Đây chỉ là nơi làm việc chính thức của Ayesh, nơi djinn đến hỏi ý kiến và đợi phán xét của bà. Còn ngoài giờ làm việc, bà ấy sống trong một khu vi-la ở ngoại ô Berlin. Khu vi-la Fledermaus.

Bên ngoài bảo tàng, chú Nimrod bắt một chiếc taxi và bảo tài xế chở họ đến số I, đường Amon Goeth Strasse.

Khi đã ở trong xe, John hỏi:

– Từ Fledermaus trong tiếng Đức có nghĩa là “con dơi” phải không chú?

– Đúng thế. Khi còn nhỏ, chú thường gọi nơi đó là “Biệt thự Dơi”.

– Chú đã ở đó trước đây à?

Chú Nimrod thở dài:

– Ôi trời, đúng vậy. Nhưng trời ơi, không phải sống nhiều năm.

John cảm thấy tiếng thở dài của chú có gì đó hơi buồn.

Biệt thự Dơi khá xứng đáng với tên gọi của nó. Được bao phủ bởi những hàng thông cao chót vót, căn nhà với vẻ ngoài kỳ dị, lạnh lẽo này nằm sau lưng một cánh cổng sắt đồ sộ. Chú Nimrod thận trọng quan sát căn vi-la và khu vườn xung quanh qua cánh cổng, như thể chú không chắc về một điều gì đó. Tự hỏi không biết thái độ cẩn trọng của chú có liên quan gì đến tấm biển báo trên cổng – trên đó viết ba chữ bằng tiếng Đức – không, John đọc lớn:

– Vorsicht, Bissiger Dämon.

Cậu lúc lắc đầu:

– Ước gì cháu biết tiếng Đức.

John thật sự không để ý kỹ đến điều mình vừa nói, và quên mất cậu đang đứng cạnh một djinn đầy quyền năng. Thình lình John nhận ra cậu đã hiểu chính xác tấm biển báo có nghĩa gì. Cảm thấy hơi tội nghiệp cho cậu cháu của mình sau những gì cậu đã trải qua trên tàu và trong bảo tàng, chú Nimrod đã đơn giản biến điều ước của John thành hiện thực. Và cậu bé djinn trẻ tuổi đã có thể hiểu rõ tiếng Đức như tiếng Anh. Nó làm John cảm thấy bộ não của cậu vừa tăng gấp đôi.

John dịch:

– Cẩn thận, Quái vật Dữ tợn.

Từ từ mở cánh cổng sắt, chú Nimrod thầm thì:

– Chính xác. Tốt nhất cháu nên theo sát chú.

John hỏi:

– Ừm, loại quái vật dữ tợn nào vậy chú? Cháu hy vọng không phải là Asmodeus.

– Ôi trời, chú cũng hy vọng thế. Sao cháu lại nghĩ đến cái tên đó chứ?

John muốn mở miệng, nhưng chú Nimrod vẫn tiếp tục nói khi hai chú cháu đi dọc theo con đường mòn dẫn đến căn nhà. Tiếng sỏi kêu lạo xạo dưới gót giày đi núi cứng cáp của chú hệt tiếng ai đó gặm cả bịch bánh cùng một lúc.

– Không, quái vật ở đây là một croucher. Một dạng quái vật canh cửa, khá phổ biến dưới thời Babylon cổ đại.

Ngừng để nghe ngóng vài giây, chú lại đi tiếp.

– Quái vật dòng này có thói quen nằm chờ gần ngưỡng cửa một ngôi nhà để bảo vệ nó khỏi những vị khách không mời mà đến.

Liếc nhìn phía trên cánh cửa khi họ đến gần ngôi nhà, chú nói thêm:

– Hoặc là trên nóc nhà.

John lo lắng hỏi:

– Chúng ta có phải là những vị khách không mời mà đến không?

Chú Nimrod chỉ trả lời đơn giản:

– Có thể thế.

Trời đã bắt đầu tối, và bên trong nhà không có lấy một ánh đèn. Cứ nghĩ đến việc có một quái vật ẩn nấp đâu đó xung quanh và sẵn sàng nhảy bổ vào họ bất cứ lúc nào, John lại thấy lạnh cả sống lưng. Cảm giác này càng mạnh hơn khi chú Nimrod bước lên phần hiên nhà, cầm lấy một núm gõ cửa lớn bằng đồng có hình dạng giống hệt trái tim người theo đúng giải phẫu học. Dường như chú lưỡng lự không biết có nên gõ cửa hay không. Chú giải thích:

– Trò đùa của Ayesha đấy. Bà ấy nổi tiếng với trái tim sắt đá mà.

Dưới ánh trăng tròn, hai chú cháu đứng chờ ngoài cửa gần cả phút.

Đám dơi chập chờn bay trong những tán cây và quanh những tháp canh tối đen. Đâu đó trong những tán cây rậm rạp, một con cú mèo rúc lớn vài tiếng. Nhưng bên trong ngôi nhà cổ vẫn chẳng có động tĩnh gì. Cúi thấp người, John giở nắp che hộp thư lên và nhòm vào trong nhà. Bên trong hành lang âm u, cậu có thể nhìn thấy một cái đồng hồ quả lắc to, một giá treo dù thiết kế theo hình bàn chân voi ma mút có lông, một lò sưởi lớn trống rỗng, một cái bàn, và một đống thư chưa mở nằm la liệt trên sàn nhà. Cậu kết luận:

– Không có ai trong nhà cả.

Chú Nimrod can:

– Nếu là cháu, chú sẽ không làm vậy đâu. Phòng trường hợp chúng ta phá rối một cái gì đó.

John nhún vai:

– Mọi thứ yên tĩnh mà chú.

– Chú biết. Đó là điều làm chú lo lắng. Quá yên tĩnh.

Chú Nimrod nhăn mặt khi John buông tay khỏi cái nắp đậy hộp thư, và nó đóng sập lại nghe cái “cộp” khá sắc lạnh. Chú nói thêm:

– Ít nhất là quá yên tĩnh trước khi cháu buông cái nắp xuống.

Quay lưng khỏi cánh cửa, John giục:

– Mình đi thôi chú. Chỗ này làm cháu lạnh cả sống lưng. Chúng ta nhanh nhanh ra khỏi đây thôi.

– John, đừng!

Chú Nimrod ngăn John lại, nhưng đã quá trễ.

Ngay khi đặt chân xuống con đường mòn trải sỏi, ngay khóe mắt, John thoáng thấy một thứ đang lao về phía cậu; một thứ gì đó to hơn một con chó, nhưng di chuyển quá nhanh để có thể nhìn rõ nó là gì. Bản năng cho cậu biết đó là một croucher, và cậu nên cố thoát khỏi nó. Tuy nhiên, khi suy nghĩ đó đến được bộ não non trẻ của cậu, con croucher đã nhảy vọt lên không trung, cặp hàm mở to nhỏ đầy dãi của nó nhằm thẳng vào cổ cậu. Ngoại trừ cái đầu, con croucher có một thân hình gần như đen tuyền và giống một con linh cẩu với cặp vai nhô cao rắn chắc và những cái chân ngắn ngủn. Bản thân cái đầu to đùng của nó một nửa nhìn giống người, với đôi tai tròn bản rộng và những cái răng quá khổ. Những cái răng nhỏ đầy nước dãi khi con croucher nở nụ cười chết chóc của nó và nhào vào John cho một cú đớp chắc chắn sẽ dễ dàng xé toạc cổ họng cậu.

John hét lớn, chắc mẩm giây phút cuối cùng của cậu trên trái đất đã đến, và nếu không có đầu óc nhanh nhạy của chú Nimrod, có lẽ cậu đã nghĩ đúng. Trên thực tế, chú Nimrod cũng gần như không có đủ thời gian để suy nghĩ, vì con croucher hành động quá nhanh (trong một phần triệu giây, John cảm thấy tội nghiệp cho bác đưa thư người Đức nào phải vượt qua một sinh vật như thế này để hoàn thành nhiệm vụ). Chú Nimrod muốn cứu cậu cháu của mình khỏi nguy hiểm, nhưng chú cũng không muốn giết con quái vật. Là một quý ngài người Anh coi chuyện “chơi đẹp” là chuyện hàng đầu, khỏi phải nói chú ghét cay ghét đắng việc giết chóc bất cứ cái gì. Nhưng chú cũng có vài câu hỏi mà, trong trường hợp không có ai ở vi-la Fledermaus, chỉ có con croucher mới có thể trả lời. Vì thế, lấy cảm hứng một phần từ chuyện đã xảy ra cho John với bức tường thị giác ảo ở bảo tàng Pergamon, chú Nimrod la to “QWERTYUIOP!”, và một lớp kính chống đạn (hiệu quả với loại đạn xuyên giáp 7,62mm) thình lình hiện ra giữa John và con croucher đang phóng đến. Loại kính mà chú chọn là loại tốt nhất trên thị trường hiện nay, với độ trong suốt lên đến 91,4%, có nghĩa John không nhìn thấy nó. Cả con croucher cũng vậy. Với một âm thanh va chạm to như tiếng chuông gióng, con quái vật tông thẳng vào lớp kính nồi đồng cối đá của chú Nimrod với vận tốc gần đến 31 dặm một giờ. Văng cả mét khỏi lớp rào chắn vô hình, con croucher đổ rạp xuống con đường rải sỏi, và nằm im không động đậy.

Run rẩy thở phào một tiếng, John đứng im chờ trái tim của cậu thôi gõ trống dồn dập trong lồng ngực, trước khi dám hé mắt quan sát kỹ hơn thứ xém giết chết cậu qua lớp kính bảo vệ. Cậu thì thào hỏi:

– Nó chết chưa chú?

– Hy vọng là chưa.

Quỳ xuống cạnh con quái vật, chú Nimrod đưa ngón tay lên cổ nó để tìm mạch. Nhưng ngay khi chú trả lời John, con croucher bắt đầu biến đổi. Cái đầu nửa người nửa thú bắt đầu trở nên giống người, trong khi thân hình bốn chân của nó biến thành một người đàn ông nhỏ nhắn vận vét đen gọn gàng, đeo nơ bướm, và đôi găng tay màu vàng. Mấy giây sau, người đàn ông rên lên một tiếng và quay người nằm ngửa mặt lên. John biết rõ con croucher cảm thấy như thế nào. Đến giờ cậu vẫn còn cảm thấy cục u trên trán thót đau sau lần “gặp gỡ” bức tường ở bảo tàng Pergamon. Mà lúc đó cậu chỉ mới di chuyển bằng một phần mười tốc độ của con croucher.

Một giây sau, người đàn ông ngồi dậy và xoa đầu một cách đau đớn, rồi cởi một cái găng tay ra để sờ thử miệng. Nhận ra miệng mình đang chảy máu, và một vài giọt đã rớt xuống vạt áo sơ mi trước ngực, ông nhăn mặt khó chịu.

Nói tiếng Đức bằng một giọng cao the thé (John khá hài lòng khi nhận ra cậu có thể hiểu tất cả mọi từ), ông trách:

– Nhìn xem hai người đã làm gì với cái áo sơ mi của tôi!

Cũng với một thứ tiếng Đức chuẩn xác, chú Nimrod nói:

– Xin lỗi anh. Nhưng mong anh hiểu chúng tôi cảm thấy thế nào khi đột ngột bị một quái vật dữ tợn tấn công.

Chìa tay ra, chú đề nghị:

– Nào, để tôi giúp anh.

Chú Nimrod giúp người đàn ông nhỏ nhắn đi đến một băng ghế đá bên hiên vi-la Fledermaus.

Ông ta mệt mỏi ngồi xuống và lịch sự nói:

– Cám ơn anh.

Thái độ của ông hoàn toàn khác so với khi ông ở trong hình dạng quái vật, đến nỗi John tự hỏi sao đó có thể là cùng một người.

Người đàn ông hỏi chú Nimrod:

– Anh không thấy tấm biển báo ngoài cửa sao?

– Tôi có thấy, anh…

– Damascus. Jonah Damascus.

Ông Damascus dùng một cái khăn tay để chấm máu trên miệng. Giọng vẫn lịch sự, ông đặt vấn đề:

– Nhưng nếu đã thấy tấm biển, sao anh và cậu bé lại bất chấp nguy hiểm đi qua cổng? Anh là một djinn. Tôi có thể thấy rõ điều đó. Vì thế, anh phải biết quy trình đúng đắn khi muốn liên hệ với Djinn Xanh chứ, xin Thượng đế phù hộ cho bà. Chỉ ở Pergamon. Đó là luật.

Nhặt bông hoa rơi khỏi lỗ cài nút áo jacket của ông Damascus, chú Nimrod giải thích:

– Chúng tôi đã đến Pergamon. Và bà ấy không có ở đó.

– Vậy thì hai người nên đợi. Hoặc đặt trước một cuộc hẹn. Theo đúng cách thức đã được quy định.

Chú Nimrod vẫn khăng khăng:

– Tôi e rằng đây là tình huống khẩn cấp. Vả lại tôi biết mình đang làm gì. Anh thấy đó, trước đây tôi từng ở nơi này.

– Anh từng ở đây? Như thế nào?

– Bây giờ khoan để ý đến việc đó. Vấn đề là bà ấy không có ở đây. Và tôi có một số tin quan trọng cho bà ấy. Liên quan đến cuốn Grimoire của Solomon.

– Tin? Tin gì?

– Cuốn sách đó có thể đã bị lấy trộm.

Ông Damascus há hốc miệng:

– Không thể nào. Chuyện đó không thể có thật.

– À, nếu chuyện đó không có thật, vậy thì ai đó đang sử dụng kiến thức chứa đựng trong cuốn sách. Cậu cháu của tôi đây đã chịu một phép trói buộc djinn rất mạnh. Một phép trói buộc chỉ có thể có trong cuốn Grimoire của Solomon. Vì thế, tôi tin anh cũng nhận ra chúng ta cần thông báo cho Djinn Xanh càng sớm càng tốt. Rất khẩn thiết. Anh có biết bà ấy đang ở đâu không, anh Damascus?

– Có thể tôi biết. Nhưng trước tiên tôi muốn biết hai người là ai?

– Tên tôi là Nimrod Plantagenet Godwin. Và đây là cháu trái tôi, John Gaunt.

Ông Damascus đứng lên khỏi ghế và cúi chào họ:

– Tôi đã nghe nói đến cả hai.

Rồi ông nói:

– Tôi chỉ có thể cho anh và cháu biết điều này. Bà ấy đã rời Berlin hôm qua. Chính tôi đã chở bà ấy đến sân bay. Ngoại trừ bà Glumjob, trợ tá và người hầu cho Djinn Xanh, tôi là người phụ trách hầu hết mọi chuyện ở đây. Quản gia, người làm vườn, người phục vụ, bảo vệ, và tài xế.

– Anh có biết bà ấy đi đâu không?

– À vâng, biết chứ. Là Budapest.

Chú Nimrod gặng hỏi:

– Tại sao bà ấy lại đến đó?

Ông Damascus trả lời:

– Tôi chỉ là croucher của bà ấy. Tôi không thể nói gì.

John nói lên phát hiện của mình:

– Chú Nimrod, Budapest là trạm dừng tiếp theo của chuyến tàu tốc hành Hoàng gia Hungary, sau Transylvania.

Chú Nimrod gật đầu:

– Ồ, cháu nói đúng.

John nhận xét:

– Có thể bà ấy muốn đích thân đi lấy lại cuốn sách. Cuốn Grimoire của Solomon ấy.

– Có thể.

Chú Nimrod trầm ngâm đáp, và cài lại bông hoa vào lỗ cài nút áo của ông Damascus.

Giữ ve áo của mình, ông Damascus kéo nhẹ bông hoa lên mặt và hít một hơi sâu, như thể hương hoa có khả năng giúp ông phục hồi sức mạnh. Ông nói:

– Cám ơn anh.

Chú Nimrod hỏi:

– Anh có nghĩ bà ấy sẽ sớm quay lại đây không.

– Tôi không thể nói gì. Tôi chỉ là một croucher bình thường. Bà ấy không thông báo cho tôi về kế hoạch của bà bao giờ.

Nhưng nở một nụ cười tự hào, ông nói thêm:

– Tuy nhiên, sau khi làm việc cho Ayesha trong nhiều năm, tôi cũng khá hiểu bà ấy. Xin Thượng đế phù hộ cho bà. Vào thời điểm này trong năm, bà ấy mà không ở lại lâu đài Babylon ít nhất ba hoặc bốn tuần mới là chuyện lạ đời nhất đấy. Cho đến hết ngày 31 tháng Giêng.

Chú Nimrod chau mày:

– Ngày 31 tháng Giêng?

– Là ngày Lễ mừng Ishtar.

– Dĩ nhiên rồi. Đó là đêm mà…

Chưa nói dứt câu, chú Nimrod liếc nhìn John. Và dường như muốn nghĩ kỹ hơn, chú bỏ dở câu nói, quay qua cám ơn ông Damascus:

– Cám ơn anh nhiều lắm, anh Damascus. Anh đã giúp chúng tôi rất nhiều.

John gật đầu cám ơn ông Damascus – người lúc này gần như đã hoàn toàn bình phục – và đi theo chú Nimrod ngược ra ngoài vi-la Fledermaus. Nhìn chú Nimrod gọi lên một cơn lốc gió, cậu hỏi:

– Sao chúng ta không bắt một chiếc taxi cho đơn giản.

Cháu thấy có một chiếc ngoài đường lớn mà.

Chú Nimrod cho biết:

– Không quay về khách sạn. Chú e là chúng ta cần phải đi xa hơn. Nhanh lên cháu. Chúng ta không có cả ngày đâu.

– Chúng ta sẽ đến Budapest à? Để nói chuyện với Ayesha?

– Không. Giờ bà ấy không còn ở đó đâu.

Khi cơn lốc gió đưa họ lên cao, John hỏi tiếp:

– Vậy chúng ta đi đâu bây giờ?

– Đến Cairo. Để nói chuyện với Izaak Balayaga.