Chương 01
Từ khi rời Atlanta, cô đã nhìn ra cửa sổ toa hàng ăn với cảm giác hài lòng gần như mang tính thể xác. Bên tách cà phê của bữa điểm tâm, cô dõi theo những ngọn đồi cuối cùng của bang Georgia chạy lùi xa, rồi bề mặt đất đỏ xuất hiện, cùng với nó là những ngôi nhà lợp tôn nằm giữa những khoảng sân quét sạch [2] , và trong sân là những bụi hoa vân anh không thể thiếu, bao quanh là những vỏ xe hơi quét vôi trắng. Cô cười toe khi thấy cây ăng ten truyền hình đầu tiên trên nóc một ngôi nhà không quét vôi của người da đen; và khi chúng đông dần lên, niềm vui của cô tăng bội.
Jean Louise Finch luôn về quê bằng máy bay, nhưng cô quyết định ngồi xe lửa từ New York về ga Maycomb trong chuyến về thăm nhà thường niên lần thứ năm này. Vì, thứ nhất, cô bị một phen sợ mất vía trong chuyến bay về nhà lần trước: tay phi công quyết định bay xuyên qua một vòi rồng. Thứ nữa, về bằng máy bay có nghĩa là bố cô phải dậy lúc ba giờ sáng, lái xe vượt cả trăm dặm để đón cô ở Mobile, rồi sau đó còn làm việc cả ngày: giờ ông đã bảy mươi hai và vụ này không công bằng chút nào.
Cô hài lòng vì mình đã quyết định đi xe lửa. Xe lửa đã thay đổi nhiều so với thời cô còn bé, và trải nghiệm mới mẻ này làm cô thích thú: một vị thần mập mạp dưới dạng người khuân vác xuất hiện ngay khi cô nhấn nút trên vách toa; theo lệnh cô, một chậu rửa bằng thép không gỉ bật ra từ một tấm vách khác, và có cả một bồn cầu mà người ta có thể gác chân lên đó. Cô quyết không để mình bị hoảng vì đủ loại thông điệp được in đầy trong khoang của cô - một buồng nhỏ, họ gọi vậy - nhưng khi đi ngủ đêm hôm trước, chẳng hiểu thế nào mà cái giường bật lên đè dính cô vào vách vì cô không làm theo chỉ dẫn KÉO CẦN GẠT NÀY XUỐNG QUA GIÁ ĐỠ, một tình cảnh được nhân viên khuân vác cứu vãn trong sự ngượng nghịu của cô, vì cô có thói quen chỉ mặc mỗi cái áo pyjama khi ngủ.
May thay, ông ta đang tình cờ đi kiểm tra hành lang đúng lúc cái bẫy bật lên úp chặt cô trong đó. “Tôi sẽ giúp cô ra, cô à,” ông ta nói vọng vào khi nghe cô đấm thình thịch từ bên trong.
“Không, xin đừng,” cô nói. “Chỉ cần cho tôi biết làm cách nào để ra thôi.”
“Tôi có thể quay lưng lại phía cô mà vẫn mở được mà,” ông ta nói, và làm đúng như thế.
Khi cô thức dậy sáng hôm đó, con tàu đang kêu xình xịch và đổi tuyến trong khu vực nhà ga Atlanta, nhưng tuân theo một chỉ dẫn khác trong khoang, cô nằm lại trên giường cho đến khi tàu chạy vụt qua thành phố College Park. Khi mặc quần áo, cô dùng trang phục Maycomb: quần xám, áo cánh đen sát nách, vớ trắng, và giày lười. Tuy còn cách tới bốn giờ ngồi xe nữa, cô đã nghe được tiếng khịt mũi tỏ vẻ không tán thành của bà bác.
Khi cô bắt đầu nhấp tách cà phê thứ tư, đoàn tàu của hãng Crescent Limited hú còi inh ỏi như một con ngỗng khổng lồ gọi bạn cùng bầy lên phía Bắc rồi rầm rập vượt sông Chattahoochee để vào địa giới bang Alabama.
Sông Chattahoochee rộng, phẳng, đầy bùn. Hôm nay nước xuống thấp; một dải cát vàng bồi lắng đã thu hẹp dòng sông thành một dòng rạch nhỏ. Có thể vào mùa đông nó sẽ reo vu vu, cô nghĩ: mình không nhớ được một câu nào trong bài thơ đó [3] . Thổi tiếng sáo xuống những thung lũng hoang vu chăng? Không. Ông ấy viết gởi cho một thú nước, hay là một thác nước? [4]
Cô kiên quyết kềm nén một cơn khoái chí ồn ào khi nghĩ rằng Sidney Lanier hẳn cũng ít nhiều giống người họ hàng mất từ lâu của cô, Joshua Singleton St. Clair, người có những khu bảo tồn văn học riêng trải dài từ Black Belt [5] tới thị trấn Bayou La Batre. Bà bác của Jean Louise thường nêu Joshua ra với cô như một tấm gương trong gia đình không dễ bị thờ ơ gạt bỏ: ông là một nhân vật xuất chúng, ông là một thi sĩ, cuộc đời ông bị cắt ngang ở thời kỳ rực rỡ nhất, và Jean Louise nên nhớ rằng ông là một niềm tự hào của gia đình. Những bức ảnh chụp ông có ảnh hưởng tốt cho bộ mặt của gia đình - Joshua trông giống một thi sĩ Algernon Swinburne luộm thuộm.
Jean Louise mỉm cười một mình khi nhớ lại bố cô đã kể cho cô nghe phần còn lại của câu chuyện. Cuộc đời người bà con Joshua bị cắt ngang, đúng vậy, không phải bởi bàn tay của Chúa mà bởi những nguyên lão nghị viên chào đón Caesar [6] .
Khi ở Đại học Alabama, Joshua học chăm quá và suy nghĩ nhiều quá; thực tình, ông học đến nỗi nghĩ mình bước thẳng ra từ thế kỷ mười chín. Ông diện áo choàng Inverness và đi đôi ủng cao tới gối do ông nhờ một thợ rèn đóng theo thiết kế của ông. Joshua bị các giới chức ngăn trở khi ông bắn vào ông hiệu trưởng của trường đại học, người mà theo quan điểm của ông chẳng hơn gì một chuyên gia xử lý nước cống. Điều này hiển nhiên là đúng, nhưng không thể làm căn cứ cho việc tấn công bằng một vũ khí chết người. Sau biết bao tiền bạc chạy vòng chỗ này chỗ nọ, Joshua được chuyển tới bên kia thành phố và đưa vào cơ sở dành cho người mất khả năng chịu trách nhiệm hành vi dân sự của bang, nơi ông sống đến hết đời. Họ bảo xét ở mọi mặt ông đều biết phải trái, cho đến khi có ai đó nhắc đến tên ông hiệu trưởng, lúc đó mặt ông rúm ró lại, ông thường chuyển sang tư thế con sếu và giữ nguyên như thế đến tám tiếng hoặc lâu hơn, và không có điều gì hoặc bất cứ ai có thể khiến ông hạ chân kia xuống cho đến khi quên đi ông ta. Vào những ngày sáng sủa Joshua đọc sách bằng tiếng Hy Lạp, và ông để lại một tập thơ mỏng được in không bán tại một nhà in ở Tuscaloosa. Thơ ấy đi trước thời đại đến độ chưa ai giải mã được, nhưng bà bác của Jean Louise trưng bày nó một cách tự nhiên và nổi bật trên một cái bàn phòng khách.
Jean Louise bật cười lớn, rồi nhìn quanh xem có ai nghe thấy không. Bố cô rất giỏi phá hoại những bài giảng của bà chị về tính ưu việt bẩm sinh của bất kỳ ai trong họ Finch: ông luôn kể cho con gái phần còn lại của câu chuyện, lặng lẽ và trịnh trọng, nhưng đôi khi Jean Louise nghĩ cô nhận ra một ánh báng bổ không lẫn vào đâu được trong đôi mắt Atticus Finch, hay đó chỉ là ánh sáng chiếu vào mắt kính của ông? Cô chẳng đời nào biết được.
Vùng nông thôn và đoàn tàu đã chuyển sang bề mặt nhấp nhô, và cô chẳng nhìn thấy gì ngoài đồng cỏ chăn nuôi và những con bò đen suốt từ cửa sổ toa tàu đến chân trời. Cô ngạc nhiên tự hỏi vì sao cô chưa bao giờ nghĩ quê hương mình là đẹp.
Nhà ga Montgomery nép vào một khúc sông Alabama uốn lượn gắt, và khi cô bước khỏi tàu để duỗi chân tay, cuộc trở về gần gũi với vẻ buồn tẻ, những bóng đèn, và những mùi kỳ lạ của nó dâng lên đón cô. Có điều gì thiêu thiếu, cô nghĩ. Những hộp giải nhiệt cho trục bánh xe, chính thế. Một nhân viên đi dọc đoàn tàu với một cây xà beng. Có tiếng lẻng kẻng rồi tới tiếng xì-xì-xì, khói trắng bốc lên khiến người ta những tưởng mình đang ở trong đĩa hâm thức ăn. Những món đó bây giờ giải nhiệt bằng dầu rồi. [7]
Nỗi sợ hãi ngày xưa bỗng dưng gặm nhấm cô. Cô đã không tới nhà ga này hai mươi năm rồi, nhưng khi còn bé trên đường lên thủ đô với Atticus, cô đã kinh hãi e rằng đoàn tàu lắc lư sẽ lao xuống bờ sông và nhấn chìm mọi người. Nhưng khi lại lên tàu để về nhà, cô đã quên mất.
Đoàn tàu lịch kịch chạy qua những rừng thông và hú còi chế nhạo một đầu máy kiểu cũ đáng đưa vào viện bảo tàng có ống khói hình phễu được sơn màu vui mắt nằm trên tuyến đường nhánh tại một khoảng rừng trống. Nó mang bảng hiệu một công ty khai thác gỗ, và con tàu Crescent Limited có thể nuốt chửng nó mà vẫn còn rộng chỗ. Greenville, Evergreen, ga Maycomb.
Cô đã bảo nhân viên soát vé đừng quên cho cô xuống đúng ga, và vì nhân viên ấy là một ông đã cao tuổi, cô dự đoán trò đùa của ông: ông sẽ chạy như giông gió tới ga Maycomb và dừng tàu sau khi vượt khỏi cái ga xép chừng một phần tư dặm, rồi khi chào tạm biệt ông ta sẽ nói xin lỗi, suýt quên mất. Xe lửa giờ đã thay đổi; nhưng nhân viên tàu lửa thì không. Vui đùa với các thiếu nữ ở những ga lẻ chỉ dừng lại theo yêu cầu là một dấu hiệu của nghề này, và Atticus, người có khả năng tiên đoán hành vi của mọi nhân viên tàu lửa từ New Orleans tới Cincinnati, sẽ theo đó đứng đợi chỉ cách chỗ cô xuống tàu không quá sáu bước.
Quê nhà là hạt Maycomb, với một đường biên giới đã được điều chỉnh dài khoảng bảy mươi dặm và rộng ba mươi dặm ở chỗ nở lớn nhất, một vùng hoang vu lác đác những khu dân cư nhỏ xíu mà lớn nhất trong đó là Maycomb, trung tâm của hạt. Trong lịch sử của nó, cho đến tương đối gần đây, hạt Maycomb vẫn tách biệt với phần còn lại của đất nước đến độ nhiều công dân của nó, không biết đến những xu hướng chính trị của miền Nam trong chín mươi năm qua, vẫn bỏ phiếu cho ứng viên Cộng hòa. Không chuyến tàu nào đến đó - ga Maycomb, một danh hiệu chỉ có tính ưu ái, nằm trong hạt Abbott, cách đó hai mươi dặm. Dịch vụ xe buýt thì thất thường và có vẻ chẳng đi đến đâu, nhưng Chính phủ Liên bang đã mở một hai xa lộ gì đó qua đầm lầy, qua đó đem lại cho cư dân một cơ hội có lối thoát miễn phí. Nhưng hiếm người tận dụng mấy đường sá này, và việc gì phải thế chứ? Nếu không có nhu cầu gì nhiều thì ở đây vẫn luôn dư dả.
Hạt và thị trấn này được đặt tên theo một đại tá Mason Maycomb, một con người bởi lòng tự tin không đúng chỗ và thói bướng bỉnh ngạo mạn đã gây rối trí và nhầm lẫn cho những đồng đội của ông ta trong những cuộc chiến với dân da đỏ Creek. Lãnh thổ nơi ông ta hoạt động hơi có đồi núi ở phía Bắc và bằng phẳng ở phía Nam, ở rìa vùng đồng bằng duyên hải. Đại tá Maycomb, do tin rằng dân da đỏ ghét đánh nhau ở đồng bằng, đã lùng sục mọi vùng phía Bắc lãnh thổ này để tìm họ. Khi ông tướng cấp trên biết được rằng Maycomb đang lang thang trên những ngọn đồi trong khi dân Creek ẩn náu trong mọi đám cây thông ở phía Nam, ông ta phái một giao liên người da đỏ tới gặp Maycomb mang theo thông điệp: “Về phía Nam đi, đồ quỷ tha ma bắt nhà ông.” Maycomb lại tin đây là một âm mưu của dân Creek để bẫy ông (bộ không có một thằng quỷ mắt xanh, tóc đỏ chỉ huy chúng sao?), ông ta cho tống giam anh da đỏ giao liên, và tiến xa hơn nữa lên phía Bắc cho đến khi lực lượng của ông ta bị lạc đường vô vọng trong vùng rừng nguyên sinh, ngồi đợi ở đó cho tới hết cuộc chiến trong nỗi hoang mang tột độ.
Sau khi nhiều năm tháng đã trôi qua đủ để đại tá Maycomb tin rằng thông điệp nọ suy cho cùng có lẽ là sự thật, Ông bắt đầu hăng hái kéo quân về phía Nam, và trên đường đi quân của ông ta gặp dân định cư đang di chuyển vào sâu trong lục địa, họ cho biết những cuộc chiến với dân da đỏ đã sắp kết thúc. Binh lính và dân định cư đã gần gũi nhau đủ để trở thành tổ tiên của Jean Louise Finch, và đại tá Maycomb tiếp tục đi tới chỗ ngày nay là thành phố Mobile để bảo đảm rằng những chiến tích của ông ta được ghi nhận đầy đủ. Lịch sử thành văn còn lưu lại không trùng khớp với sự thật, nhưng còn đó những dữ kiện, vì chúng được truyền miệng qua bao năm tháng, và mọi người dân Maycomb đều biết.
“… lấy hành lý, thưa cô,” nhân viên khuân vác nói. Jean Louise theo ông ta từ toa hàng ăn về khoang của mình. Cô lấy ra hai đô la trong cuộn tiền: một cho công phục vụ thường lệ, một cho việc giải thoát cô tối qua. Đoàn tàu, dĩ nhiên, chạy như giông gió qua khỏi ga và dừng lại cách đó chừng bốn trăm mét. Ông nhân viên soát vé xuất hiện, nhe răng cười, và nói ông xin lỗi, suýt quên mất. Jean Louise nhe răng cười đáp lại và bồn chồn chờ ông khuân vác đặt cái bục lên xuống màu vàng vào chỗ. Ông ta đưa tay đỡ cô bước xuống và cô đưa ông ta hai tờ giấy bạc.
Bố cô không đón cô.
Cô nhìn dọc đường rầy về phía nhà ga, thấy một người đàn ông cao đứng trên thềm nhà ga nhỏ xíu. Anh ta nhảy xuống và chạy đến đón cô.
Anh nồng nhiệt ôm choàng lấy cô, đẩy cô ra xa, hôn mạnh vào môi cô, rồi hôn cô một cách dịu dàng.
“Ở đây không tiện, Hank,” cô thì thầm, rất vui trong lòng.
“Suỵt, em bé,” anh nói, giữ yên khuôn mặt cô. “Anh sẽ hôn em ngay bậc thềm tòa án nếu anh muốn.”
Người sở hữu quyền hôn cô trên bậc thềm tòa án là Henry Clinton, người bạn lâu năm của cô, chiến hữu của anh cô, và - nếu anh cứ hôn cô như thế này - sẽ là chồng cô. Hãy yêu người bạn muốn nhưng hãy cưới người cùng loại với bạn đã là một châm ngôn gần như thành bản năng trong cô. Henry Clinton cùng loại với Jean Louise, và bây giờ cô không thấy châm ngôn ấy khắc nghiệt lắm.
Họ khoác tay nhau đi dọc đường rầy để nhận lại hành lý của cô. “Bố Atticus thế nào?” cô hỏi.
“Bàn tay với vai ông ấy hôm nay đau mấy cơn luôn.”
“Bố em đâu lái xe được lúc như vậy, phải không?”
Henry khép nửa chừng những ngón tay phải và nói, “Ông ấy không nắm lại được quá mức này. Bác Alexandra phải cột dây giày và cài cúc sơ mi cho ông khi tay ông bị như vậy. Ông ấy cầm dao cạo còn không nổi nữa.”
Jean Louise lắc đầu. Cô đã quá tuổi để muốn nổi đóa về sự bất công trong chuyện này nhưng cũng quá trẻ để có thể chấp nhận chứng bệnh tê bại của ông mà không phản ứng lại theo kiểu nào đó. “Người ta không làm gì được sao?”
“Em biết là không mà,” Henry nói. “Ông ấy uống bốn năm gram aspirin mỗi ngày, vậy thôi.”
Anh nhấc cái vali nặng trịch của cô lên, và họ đi trở lại phía xe. Cô tự hỏi mình sẽ cư xử ra sao khi đến lượt cô bị đau hết ngày này sang ngày khác. Khó mà giống Atticus được: nếu hỏi ông thấy trong người ra sao ông sẽ nói cho ta hay, nhưng ông không bao giờ than thở; tâm tính của ông vẫn như cũ, nên để biết sức khỏe của ông thế nào, phải hỏi thẳng ông.
Cách duy nhất Henry biết được chuyện đó là nhờ ngẫu nhiên. Ngày nọ khi họ ở hầm tàng thư của pháp đình lục tìm một hồ sơ nhà đất, Atticus đang lôi ra một cuốn sổ thế chấp nặng trịch thì mặt ông bỗng trắng bệch và đánh rơi nó xuống. “Chuyện gì vậy?” Henry hỏi. “Viêm thấp khớp. Nhặt lên giùm bác được không?” Atticus nói. Henry hỏi ông bị bao lâu rồi; Atticus bảo sáu tháng. Jean Louise biết chuyện này không? Không. Vậy chắc ông nên nói cho cô ấy biết. “Nếu cháu cho nó biết, nó sẽ về đây lo chăm sóc bác. Thuốc chữa duy nhất cho bệnh này là đừng để nó hạ gục cháu.” Đề tài đó được khép lại.
“Muốn lái không?” Henry hỏi.
“Đừng ngốc thế,” cô nói. Tuy là một tài xế đáng nể, cô lại ghét phải vận hành thứ cơ khí nào phức tạp hơn một cây kim băng: những cái ghế xếp để hóng mát ở bãi cỏ là một nguồn bực bội sâu sắc với cô; cô chưa bao giờ học được cách chạy xe đạp hay đánh máy chữ; cô câu cá bằng cần. Môn thể thao ưa thích của cô là đánh golf vì những nguyên tắc cốt yếu của nó chỉ gồm một cây gậy, một trái bóng nhỏ, và một trạng thái tinh thần.
Với vẻ ghen tị ra mặt, cô nhìn kiểu ung dung làm chủ chiếc xe của Henry. Xe cộ là đầy tớ của anh ấy, cô nghĩ. “Có bộ phận trợ lực lái hả? Hộp số tự động luôn?” cô nói.
“Chắc chắn rồi,” anh nói.
“Thế, nhỡ mọi thứ bị tắt ngúm và anh không còn số để sang nữa. Lúc đó rắc rối lớn, phải không?”
“Nhưng mọi thứ sẽ không bị tắt ngúm.”
“Sao anh biết?”
“Vậy mới gọi là niềm tin chứ. Xích lại đây nào.”
Niềm tin vào General Motors. Cô ngả đầu vào vai anh.
“Hank,” cô nói tiếp. “Thế thực ra là có chuyện gì?”
Đây là một trò nói đùa quen thuộc của họ với nhau. Một vết sẹo hồng chạy từ chỗ dưới con mắt bên phải của anh, đâm vào cạnh mũi, và chạy xéo qua môi trên. Bên trong cái môi ấy là sáu cái răng cửa giả mà ngay cả Jean Louise cũng không thuyết phục anh vạch ra cho xem được. Từ cuộc chiến anh trở về với hàm răng như thế. Một người Đức, chủ yếu muốn bày tỏ sự giận dữ lúc kết thúc cuộc chiến hơn là vì bất cứ lý do gì khác, đã dộng báng súng trường vào mặt anh. Jean Louise quyết định xem đây là một câu chuyện khả dĩ: với nào là các loại súng bắn quá chân trời, rồi máy bay B-17, bom V, và các thứ tương tự, có lẽ Henry chưa từng bước vào tầm phun nước bọt của quân Đức.
“Được rồi, cưng,” anh nói. “Bọn anh xuống một hầm rượu ở Berlin. Đứa nào cũng đã quá chén và bắt đầu xảy ra đánh lộn - em thích nghe những chuyện tin được, phải không? Bây giờ em sẽ lấy anh chứ?”
“Chưa đâu.”
“Tại sao?”
“Em muốn được giống bác sĩ Schweitzer và chơi tới năm ba mươi.” [8]
“Ông ấy chơi hẳn rồi,” Henry nói yếu xìu.
Jean Louise nhúc nhích dưới cánh tay anh. “Anh hiểu ý em mà,” cô nói.
“Ừ.”
Không có chàng trai nào, dân Maycomb thường nói, đáng quý hơn Henry Clinton. Jean Louise đồng ý. Henry xuất thân từ miệt phía Nam của hạt. Cha anh rời bỏ mẹ anh ngay sau khi anh ra đời, và bà đã làm ngày làm đêm trong cái cửa hàng nhỏ xíu ở ngã tư để cho anh theo học các trường công ở Maycomb. Henry, từ năm mười hai tuổi, ở trọ đối diện nhà Finch, và tự hoàn cảnh này đã đặt anh ở tầm cao hơn: anh là chủ nhân của chính mình, hoàn toàn thoát khỏi uy quyền của những cha mẹ, đầu bếp và người trông coi sân vườn. Anh còn lớn hơn cô bốn tuổi nữa, hồi đó điều này rất đáng kể. Anh chọc ghẹo cô; cô ngưỡng mộ anh. Lúc anh mười bốn tuổi mẹ anh mất, hầu như chẳng để lại gì cho anh. Atticus Finch coi sóc số tiền ít ỏi có được từ việc bán cửa tiệm - những chi phí đám tang cho bà mẹ nuốt gần hết số đó - ông lặng lẽ bổ sung vào đó bằng tiền riêng của mình, và kiếm cho Henry một chân bán hàng trong cửa hàng Jitney Jungle sau giờ học. Henry tốt nghiệp và nhập ngũ, hết chiến tranh anh vào đại học theo ngành luật.
Cũng vào quãng thời gian đó, anh trai của Jean Louise chết bất ngờ, và sau khi cơn ác mộng ấy qua đi, Atticus, vốn luôn nghĩ sẽ để lại văn phòng luật cho con trai, nhìn quanh tìm một chàng trai khác. Thật tự nhiên khi ông chọn Henry, và dần dà Henry trở thành phụ tá của Atticus, đôi mắt và đôi tay của ông. Henry vẫn luôn kính trọng Atticus Finch; rồi điều đó hòa với tình cảm trìu mến và Henry xem ông như một người cha.
Anh không xem Jean Louise như em gái. Trong những năm anh xa nhà đi chinh chiến và học đại học, cô đã thay đổi từ một tạo vật mặc quần yếm, bướng bỉnh, vác súng hơi thành một hình ảnh hợp lý của một con người. Anh bắt đầu hẹn đi chơi với cô vào đợt về thăm nhà kéo dài hai tuần hằng năm của cô, và tuy cô vẫn đi đứng như một cậu trai mười ba tuổi và cự tuyệt hầu hết mọi thứ trang điểm nữ giới, anh vẫn nhận thấy có nét gì rất nữ tính ở cô đến độ anh đem lòng yêu cô. Cô dễ nhìn và dễ gần trong phần lớn thời gian, nhưng cô không phải người dễ chịu theo bất cứ nghĩa nào của từ này. Cô bị một tình trạng chộn rộn tinh thần mà anh không thể hiểu ra, nhưng anh biết cô là người dành cho anh. Anh sẽ bảo vệ cô; anh sẽ cưới cô.
“Chán New York chưa?” anh hỏi.
“Chưa.”
“Cho anh được làm gì tùy ý trong hai tuần này và anh sẽ khiến em chán nó ngay.”
“Đấy là một đề nghị thiếu đứng đắn hả?”
“Phải.”
“Vậy quỷ bắt anh đi.”
Henry dừng xe lại. Anh vặn tắt nút khởi động, quay đầu lại, và nhìn cô. Cô biết lúc nào anh chuyển sang nghiêm túc về chuyện gì đó: mái tóc húi cua của anh dựng đứng như một cái bàn chải giận dữ, khuôn mặt của anh ửng đỏ, vết sẹo sẫm màu hơn.
“Em yêu, em có muốn anh trình bày giống kiểu của một quý ông không? Thưa cô Jean Louise, hiện tôi đã đạt một vị thế kinh tế đủ để nuôi hai người. Tôi, giống như Israel ngày xưa, đã lao động bảy năm trong các vườn nho trường đại học và đồng cỏ văn phòng luật của cha cô để…”
“Em sẽ bảo bố Atticus đòi thêm bảy năm nữa.” [9]
“Thật đáng ghét.”
“Với lại,” cô nói, “đó là Jacob kìa. Không, họ là một. Cứ sau ba câu là họ lại đổi tên. Bà bác của em ra sao rồi?”
“Em biết thừa bác ấy vẫn khỏe cả ba mươi năm nay mà. Đừng đổi đề tài.”
Đôi lông mày của Jean Louise khẽ nhướng. “Henry,” cô nói nghiêm trang, “em sẽ yêu đương với anh nhưng em sẽ không lấy anh.”
Chuyện đó cực đúng.
“Đừng có mãi là đứa nhỏ trái tính như vậy, Jean Louise!” Henry lắp bắp, và quên bẵng những kết cấu mới nhất của General Motors, chộp lấy cần số và đạp vào bàn đạp côn. Chúng không nghe lệnh anh, anh vặn mạnh chìa khóa khởi động, nhấn vài cái nút nữa, và chiếc xe to tướng lướt chậm rãi và êm ái theo xa lộ.
“Tăng tốc chậm, phải không?” cô nói. “Không hợp với kiểu chạy xe trong thành phố.”
Henry nhìn cô gay gắt. “Ý em muốn nói gì?”
Một phút nữa thôi chuyện này sẽ thành cãi cọ. Anh đang nghiêm túc. Cô nên làm anh bực bội, vậy anh sẽ im lặng, để cô có thể suy nghĩ về chuyện đó.
“Anh kiếm đâu ra cái cà vạt kinh khủng đó vậy?” cô nói.
Được rồi.
Cô gần như yêu anh. Không, không thể như thế được, cô nghĩ: hoặc yêu hoặc không. Tình yêu là thứ duy nhất trên đời này không thể lập lờ nước đôi. Có nhiều loại tình yêu, chắc chắn rồi, nhưng dù là loại nào thì đây cũng là việc hoặc có, hoặc không.
Cô là mẫu người, khi đối diện với một lối thoát dễ dàng, luôn chọn lối khó khăn. Lối thoát dễ dàng ra khỏi chuyện này là cưới Hank và để anh làm việc nuôi cô. Sau vài năm, khi con cái cao tới cỡ thắt lưng, có thể sẽ xuất hiện người đàn ông mà lẽ ra cô phải kết hôn từ đầu. Rồi lại có những lần tự vấn, kích động và bực bội, những lần nhìn nhau thiết tha trên những bậc thềm nhà bưu điện, và cảnh khổ sở cho tất cả mọi người. Trò quát tháo và hy sinh cao cả qua đi, chỉ còn lại chăng là một chuyện tình vớ vẩn tiều tụy khác theo kiểu Câu lạc bộ ngoại ô Birmingham, và một địa ngục riêng tư tự xây với những thiết bị điện mới nhất của hãng Westinghouse. Hank không đáng phải chịu chuyện đó.
Không. Trước mắt cô muốn tiếp tục đi theo con đường sỏi đá của kiếp phụ nữ độc thân. Cô bắt tay phục hồi hòa khí trong danh dự:
“Anh yêu, em xin lỗi, thật sự xin lỗi,” cô nói, và cô thật lòng như thế.
“Đâu có gì đâu,” Henry nói, và vỗ đầu gối cô. “Chỉ có điều đôi lúc anh muốn giết em đấy.”
“Em biết mình đáng ghét.”
Henry nhìn cô. “Em là người kỳ lạ, cưng ạ. Em không thể che giấu.”
Cô nhìn anh. “Anh đang nói chuyện gì đó?”
“Ồ, thông thường là, phần lớn phụ nữ, trước khi tóm được đám đàn ông, vẫn bày ra khuôn mặt tươi cười, tán thành trước họ. Họ che giấu những ý nghĩ của mình. Còn em thì, khi em muốn trở nên đáng ghét, em yêu, em đáng ghét.”
“Để người đàn ông có khả năng nhìn ra điều mà họ sắp lâm vào đó thì công bằng hơn, không phải sao?”
“Phải, nhưng em không thấy rằng không đời nào em bắt được một ông nếu làm thế?”
Cô ngậm lời trước điều hiển nhiên, rồi nói, “Làm sao em tập làm một phụ nữ quyến rũ được?”
Henry bắt đầu thích thú với đề tài này. Ở tuổi ba mươi, anh thích đi cố vấn người ta. Có lẽ bởi vì anh là luật sư. “Trước hết,” anh nói một cách bình thản, “hãy giữ miệng. Đừng tranh cãi với đàn ông, nhất là khi em biết em có thể thắng hắn. Cười nhiều vào. Hãy làm hắn cảm thấy mình vĩ đại. Bảo cho hắn biết hắn kỳ diệu đến mức nào, và phục vụ hắn.”
Cô mỉm cười tươi tắn và nói, “Hank ơi, em đồng ý với mọi điều anh nói. Anh là người trí tuệ nhất mà em gặp được trong bao năm qua, anh cao mét chín, và em châm thuốc lá cho anh được không? Cái đó thế nào?”
“Dễ sợ.”
Họ lại là bạn bè.