← Quay lại trang sách

Chương 05

Khi sắp chui vào xe, đầu cô va mạnh vào mui. “Quái quỷ! Sao người ta không làm mấy thứ này cao một chút cho mình chui vào?” Cô xoa trán cho tới khi mắt nhìn rõ.

“Ổn không, cưng?”

“Dạ. Em không sao.”

Henry đóng cửa nhẹ nhàng, đi vòng sang bên kia, chui vào xe cạnh cô. “Sống ở thành phố lâu quá,” anh nói. “Ở trên đó em chưa hề chui vào cái xe nào, phải không?”

“Chưa. Bao lâu nữa thì người ta sẽ hạ nó xuống cỡ ba tấc? Năm tới chắc mình đi xe trong tư thế nằm sấp quá.”

“Có đại bác bắn đi,” Henry nói. “Bắn từ Maycomb tới Mobile trong ba phút.”

“Em vẫn thích một chiếc Buick to bè cổ lỗ. Nhớ thứ đó không? Anh ngồi cách mặt đất ít nhất thước rưỡi.”

Henry nói, “Nhớ lúc Jem rớt khỏi xe không?”

Cô bật cười. “Nhờ thế em nắm thóp được anh ấy suốt mấy tuần - bất kỳ ai không thể tới được vũng xoáy Barker mà không té rớt khỏi xe thì chính là một con gà mái đầu bị nhúng nước.”

Hồi xưa, Atticus có một cái xe bốn chỗ mui vải cũ xì, và lần ông đưa Jem, Henry, và Jean Louise đi bơi, chiếc xe leo qua một mô đất rất tệ trên mặt đường và hất văng Jem ra ngoài. Atticus bình thản lái tiếp cho đến khi tới vũng xoáy Barker, vì Jean Louise không có ý định báo cho bố cô biết rằng Jem không còn có trên xe nữa, và cô đã ngăn Henry làm việc đó bằng cách nắm ngón tay của anh bẻ ngược ra sau. Khi họ tới bờ khe suối, Atticus quay lại hào hứng, “Xuống xe nào!” và nụ cười đông cứng trên mặt ông, “Jem đâu rồi?” Jean Louise nói anh ấy chắc sẽ tới đây trong chốc lát thôi. Khi Jem xuất hiện, thở hổn hển, đẫm mồ hôi và bẩn thỉu vì cuộc chạy bộ cưỡng bách, anh chạy thẳng qua chỗ họ và mặc nguyên quần áo lao xuống con suối. Vài giây sau một khuôn mặt đằng đằng sát khí trồi lên từ mặt nước kêu lên, “Xuống đây coi. Scout! Thách mày đó. Hank!” Họ nhận lời thách, và có lúc Jean Louise nghĩ Jem sắp chẹn cổ cô tới chết, nhưng sau cùng anh đã buông cô ra: Atticus có mặt ở đó.

“Người ta đã dựng một nhà máy cưa bào trên vũng xoáy,” Henry nói. “Bây giờ không bơi ở đó được.”

Henry lái xe tới cửa hiệu E-Lite Eat và nhấn còi. “Cho tụi tôi hai ly xô đa đá. Bill,” anh nói với chàng trai xuất hiện sau hiệu còi.

Ở Maycomb, người ta hoặc uống rượu hoặc không. Nếu uống, người ta vào sau nhà xe, kiếm một lít, và uống cạn; nếu không uống, người ta kêu mấy ly xô đa đá ở cửa tiệm E-Lite Eat trong bóng tối: chẳng bao giờ nghe nói tới một người uống đôi ba ly trước hoặc sau bữa tối tại nhà mình hay nhà hàng xóm. Đó là Uống Xã Giao. Những người Uống Xã Giao không hẳn ở bậc thang cao nhất và bởi vì chẳng có ai ở Maycomb nghĩ rằng mình ở bậc thang nào khác ngoài bậc cao nhất, nên không có thứ gọi là Uống Xã Giao.

“Pha ly của em loãng thôi, anh yêu,” cô nói. “Chỉ cần pha chút màu.”

“Em vẫn chưa học được cách dung nạp thứ này hả?” Henry nói. Anh thò tay xuống dưới ghế và lôi ra một chai Seagram’s Seven màu nâu.

“Không phải thứ rượu mạnh thôi,” cô nói.

Henry pha chút màu cho thứ nước trong ly giấy của cô. Anh rót cho mình một suất đầy đặn, khuấy bằng ngón tay, và kẹp chai giữa hai đầu gối, anh đóng nắp lại. Anh đẩy nó vào dưới ghế ngồi và khởi động xe.

“Lên đường đây,” anh nói.

Bánh xe kêu vu vu trên mặt đường nhựa khiến cô buồn ngủ. Điều cô thích nhất ở Henry Clinton là anh sẽ để cô im lặng khi cô muốn thế. Cô không cần phải tiếp chuyện anh.

Henry không bao giờ cố quấy rầy cô mỗi khi cô như thế. Thái độ của anh là theo hướng tự do, và anh biết cô trân trọng anh vì tính kiên nhẫn. Cô không biết anh đang học đức tính ấy từ bố cô. “Thư giãn đi, con trai,” Atticus từng bảo anh vào một trong những lần bình luận hiếm hoi về cô. “Đừng thúc ép nó. Cứ để nó đi theo tốc độ của nó. Nếu cứ thúc, cháu sẽ thấy sống chung với mọi con lừa trong hạt này còn dễ hơn.”

Lớp của Henry Clinton trong khoa luật ở Đại học Alabama gồm những cựu chiến binh trẻ, thông minh, thiếu máu khôi hài. Độ cạnh tranh rất khốc liệt, nhưng Henry đã quen với công việc gian khổ. Tuy có thể theo kịp và xoay xở rất tốt, anh không học được mấy điều có giá trị thực tế, Atticus Finch đã nói chính xác rằng điều tốt duy nhất mà trường đại học này làm cho Henry là giúp anh làm bạn với những chính trị gia, lãnh tụ và chính khách tương lai của Alabama. Chỉ khi bắt đầu thực hành nghề luật người mới bắt đầu có được một khái niệm về pháp luật. Thủ tục biện hộ theo thông luật và theo luật Alabama, chẳng hạn, là một môn học cơ bản chất trên trời đến độ Henry chỉ vượt qua được bằng cách học thuộc lòng cuốn sách đó. Ông thầy nhỏ thó cay đắng dạy môn đó là giáo sư duy nhất trong khoa có đủ gan tìm cách mà dạy môn đó, và ngay cả ông ta cũng chứng tỏ tính cứng nhắc của sự hiểu biết bất toàn. “Anh Clinton,” ông thầy từng nói, khi Henry đánh bạo hỏi về một bài kiểm tra đặc biệt mơ hồ nào đó, “anh có thể viết cho đến ngày tận thế tôi cũng không cần biết, nhưng nếu câu trả lời của anh không trùng với câu trả lời của tôi thì nó sai rồi. Sai rồi, thưa anh.” Nên không có gì ngạc nhiên khi Atticus khiến Henry hoang mang trong những ngày đầu họ hợp tác với nhau qua câu nói, “Việc biện hộ chẳng qua chỉ là việc viết ra giấy những điều cậu muốn nói.” Một cách kiên nhẫn và không thúc ép, Atticus đã dạy anh mọi chuyện mà Henry biết về nghề này, nhưng Henry đôi khi tự hỏi liệu anh có già như Atticus trước khi kịp thâu tóm luật pháp vào tầm sở hữu của mình không. Tom, Tom con trai của người thợ cạo ống khói. [26] Có phải đó là vụ xử ký thác tài sản xưa không? Không, mà vụ đầu tiên trong các vụ xử về phát hiện kho báu: quyền sở hữu được bảo vệ trước bất cứ người nào đến sau, ngoại trừ người chủ đích thực. [27] Cậu bé nhặt được một cây trâm. Anh nhìn sang Jean Louise. Cô đang ngủ gật.

Anh là người chủ đích thực của cô, điều đó với anh đã quá rõ ràng. Từ lúc cô ném đá về phía anh; khi cô suýt làm nổ tung đầu mình vì chơi thuốc súng, khi cô thường từ đằng sau phóng lên người anh, kẹp cổ anh ghì xuống cứng ngắc, và buộc anh kêu lên Đầu hàng; khi cô bị bệnh và mê sảng trong một mùa hè la hét đòi anh và Jem và Dill - Henry tự hỏi Dill hiện ở đâu. Jean Louise hẳn biết, cô vẫn giữ liên lạc.

“Em này. Dill ở đâu rồi?”

Jean Louise mở mắt. “Ý, theo lần cuối cùng em biết tin.”

Cô cựa mình. Charles Baker Harris. Dill, người bạn của tâm hồn cô. Cô ngáp và nhìn đầu xe nuốt đường vạch trắng trên xa lộ. “Mình đang ở đâu vậy?”

“Còn mười dặm nữa.”

Cô nói, “Có thể cảm thấy con sông rồi đó.”

“Em chắc là nửa người nửa cá sấu,” Henry nói. “Anh thì không cảm thấy.”

“Tom Hai Ngón vẫn còn ở đó chứ?” [28]

Tom Hai Ngón sống ở bất cứ nơi nào có sông. Ông ta là một thiên tài: ông ta đào hầm bên dưới Maycomb và ăn gà của người ta vào ban đêm; ông ta từng bị lần theo dấu vết từ Demopolis về tận Tensas. Ông ta cũng già bằng tuổi của hạt Maycomb.

“Mình có thể thấy ông ta tối nay.”

“Cái gì khiến anh nghĩ tới Dill vậy?” cô hỏi.

“Không biết. Chỉ chợt nghĩ tới hắn thôi.”

“Anh chưa bao giờ ưa anh ấy, phải không?”

Henry mỉm cười. “Anh ghen tị với hắn. Hắn chiếm em với Jem suốt mùa hè, trong khi anh phải về nhà ngay khi trường nghỉ hè. Chẳng có ai ở quê nhà anh để chơi hết.”

Cô im lặng. Thời gian ngừng lại, chuyển hướng, và uể oải đi ngược lại. Hồi đó, không hiểu sao luôn là mùa hè. Hank về chỗ nhà mẹ và không có mặt, và Jem chỉ có em gái làm bạn chơi chung. Những ngày hè thì dài, Jem được mười một, và kiểu chơi được định hình: Chúng ở hàng hiên có giường ngủ, nơi mát nhất trong nhà. Chúng ngủ ở đó hằng đêm từ đầu tháng Năm đến cuối tháng Chín. Jem, đã nằm trên giường xếp của anh đọc sách từ lúc bình minh, gí một tạp chí bóng bầu dục vào mặt cô, chỉ vào một bức ảnh, và hỏi, “Ai đây, Scout?”

“Johnny Mack Brown. Mình diễn một câu chuyện đi.”

Jem vung vẩy trang báo trước mặt cô. “Vậy đây là ai?”

“Là anh,” cô nói.

“Được rồi, kêu Dill đi.”

Không cần phải kêu Dill. Đám cải bắp run rẩy trong vườn cô Rachel, hàng rào sau nhà rên rỉ, và Dill đã ở bên chúng. Dill là một thứ quý hiếm vì nó gốc ở Meridian, bang Mississippi, và rất rành cung cách cư xử của người lớn. Hè nào nó cũng ở Maycomb với bà dì sống kế nhà Finch. Nó lùn, đậm chắc, tóc trắng như bông vải với khuôn mặt thiên thần và sự tinh quái của một con chồn. Nó hơn cô một tuổi, nhưng cô cao hơn nó một cái đầu.

“Ê này,” Dill nói. “Hôm nay mình diễn Tarzan đi. Tao sẽ làm Tarzan.”

“Mày làm Tarzan đâu có được,” Jem nói.

“Em là Jane,” cô nói.

“A, tao không làm dã nhân nữa đâu,” Dill nói. “Lúc nào tao cũng phải làm dã nhân.”

“Vậy mày muốn làm Jane hả?” Jem hỏi. Nó vươn vai, kéo quần dài lên, rồi nói, “Mình sẽ diễn Tom Swift. Tao là Tom.”

“Tao/em làm Ned,” Dill và cô cùng nói.

“Không mày không được,” cô nói với Dill.

Mặt Dill đỏ bừng lên. “Scout, mày lúc nào cũng được vai ngon nhì. Tao chẳng bao giờ được vai ngon nhì.”

“Mày muốn giải quyết vụ đó không?” cô hỏi lịch sự, hai bàn tay nắm chặt lại.

Jem nói, “Mày làm ông Damon đi, Dill. Ông đó lúc nào cũng vui nhộn mà cuối cùng còn cứu được mọi người nữa. Mày biết đó, ông ta luôn ban phúc cho mọi thứ.”

“Chúc phúc cái đồng bảo hiểm của tao ấy,” Dill nói, ngoắc hai ngón cái vào cặp dây đeo quần vô hình. “Ôi cũng được.”

“Chọn cái gì đây,” Jem nói, “Phi Trường Đại Dương hay Cỗ Máy Bay?”

“Em chán mấy thứ đó rồi,” cô nói. “Tự bịa ra đi.”

“Được rồi, Scout, em là Ned Newton. Dill, mày là ông Damon. Bây giờ, một ngày nọ Tom đang ở trong phòng thí nghiệm nghiên cứu một cỗ máy có thể nhìn xuyên tường gạch thì một thằng cha bước vô nói, ‘Ông Swift hả?’ Tao là Tom nên tao nói, ‘Sao thưa ngài?’…”

“Sao mà có thứ gì nhìn xuyên tường gạch được,” Dill nói.

“Thứ này nhìn được. Mà sao cũng được, cha đó bước vô nói, ‘Ông Swift hả?’”

“Jem,” cô nói, “nếu phải có ông này thì mình cần có một đứa nữa. Muốn em chạy đi kêu Bennett không?”

“Không, thằng cha này không có mặt lâu đâu, nên anh nói luôn phần của thằng chả. Mày phải bắt đầu một câu chuyện đi, Scout…”

Vai của thằng cha nọ chỉ bao gồm kể cho nhà phát minh trẻ rằng một giáo sư quan trọng bị lạc mất ở Congo thuộc Bỉ ba mươi năm qua và đã đến lúc có người kiếm cách đưa ông về. Đương nhiên thằng cha ấy tới nhờ Tom Swift và bạn bè giúp đỡ, và Tom nắm ngay lấy triển vọng phiêu lưu này.

Ba đứa leo vào Cỗ Máy Bay, được làm bằng những tấm ván rộng mà chúng từ lâu đã đóng đinh bắc ngang những cành to nhất của cây tuyết tùng.

“Lên tới đây nóng khủng khiếp,” Dill nói. “Hơ-hơ-hơ.”

“Nói gì?” Jem hỏi.

“Tao nói lên đây nóng khủng khiếp vì gần mặt trời đến thế. Cũng may đồ lót của tao dài.”

“Mày nói vậy đâu được, Dill. Mày càng lên cao thì trời càng lạnh.”

“Tao nghĩ nóng hơn chứ.”

“Hừ, đâu có. Càng lên cao thì càng lạnh vì không khí loãng hơn. Bây giờ Scout, em nói, ‘Tom, mình đi đâu đây?’”

“Tao tưởng mình đang đi Bỉ,” Dill nói.

“Phải hỏi mình đang đi đâu đây bởi vì thằng cha kia nói với tao, cha đó đâu có nói với tụi bay, mà tao cũng chưa nói lại với tụi bay nữa, hiểu chưa?”

Hai đứa kia hiểu.

Khi Jem giải thích nhiệm vụ của chúng, Dill nói, “Nếu ông ta lạc mất lâu thế, làm sao họ biết ông ta còn sống?”

Jem nói, “Thằng cha này nói đã nhận được một tín hiệu từ Bờ Biển Vàng rằng giáo sư Wiggins đang…”

“Nếu cha đó nghe được tin về ông ấy, làm sao nói ông ấy lạc mất?” cô nói.

“… đang sống giữa một bộ lạc săn đầu người đã mất tích,” Jem nói tiếp, phớt lờ cô. “Ned, ông còn khẩu súng trường với ống ngắm tia X không? Bây giờ em nói còn.”

Cô nói, “Còn, Tom.”

“Ông Damon, ông chất đủ đồ tiếp liệu trên Cỗ Máy Bay chứ? Ông Damon!”

Dill giật mình vào tư thế nghiêm. “Chúa ban phúc cho cây lăn bột của tao, Tom. Vâng, thưa ngài! Hơ-hơ-hơ!”

Chúng cho máy bay đáp xuống với cả ba bánh cùng tiếp đất ở ngoại vi Cape Town, và cô bảo Jem rằng anh ấy chẳng cho cô câu gì để nói suốt mười phút rồi và cô sẽ không chơi nữa nếu không được nói.

“Được rồi. Scout, em nói, ‘Tom, đừng mất thêm thời gian nữa. Tiến vào rừng đi.’”

Cô nói câu đó.

Chúng tiến bước vòng vòng sân sau, quất vào lá cây, đôi lúc dừng lại để bắn hạ một con voi lạc bầy hoặc đánh nhau với một bộ lạc ăn thịt người. Jem dẫn đầu. Đôi khi anh ấy la lên, “Lui lại!” và chúng ngã sấp xuống mặt cát ấm. Có lần anh ấy cứu ông Damon ở thác Victoria trong khi cô đứng xớ rớ và bực bội vì cô chỉ có mỗi một việc là giữ sợi dây Jem dùng để leo xuống.

Liền đó Jem kêu lên, “Mình sắp tới rồi, cố lên!”

Chúng chạy xô tới nhà xe, một khu làng của bọn săn đầu người. Jem quỳ xuống và bắt đầu múa như một nhà dụ rắn.

“Anh làm gì vậy?” cô hỏi.

“Suuuỵt! Tế thần.”

“Mày trông đau khổ vậy,” Dill nói. “Tế gì vậy?”

“Mày phải tế để đẩy tụi săn đầu người ra xa. Coi đó tụi nó ngay đằng kia!” Jem phát ra tiếng rì rầm trầm đục, nghe như “buja-buja-buja”, và nhà xe bỗng đầy bọn người man rợ.

Dill đẩy con ngươi lên cho mắt trợn trắng theo một kiểu thấy ghê, cứng người lại, và ngã vật xuống đất.

“Chúng hạ ông Damon rồi!” Jem kêu lên.

Chúng khiêng Dill, cứng như cây cột đèn, ra ngoài nắng. Chúng gom lá sung và rải thành hàng trên người Dill từ đầu tới chân.

“Liệu có ích không, Tom?” cô nói.

“Có thể. Không nói chắc được. Ông Damon? Ông Damon, tỉnh dậy đi!” Jem đấm vào đầu nó.

Dill nhổm dậy làm mớ lá sung bay lả tả. “Thôi đi, Jem Finch,” nó kêu, rồi trở lại tư thế dang tay dang chân. “Tao sẽ không ở lại đây lâu nữa đâu. Nóng quá rồi.”

Jem làm vài động tác đưa tay qua lại đầy bí ẩn phía trên đầu Dill và nói, “Xem này, Ned. Ông ta đang tỉnh lại.”

Mi mắt Dill khẽ lay động rồi mở ra. Nó nhổm dậy và lảo đảo loanh quanh trong sân lầm bầm, “Tôi đang ở đâu vậy?”

“Ngay đây, Dill,” cô nói, hơi hoảng.

Jem cau mày. “Em biết thế là không đúng mà. Em phải nói, ‘Ông Damon, ông bị lạc ở Congo thuộc Bỉ và bị trúng bùa mê. Tôi là Ned còn đây là Tom.”

“Mình cũng bị lạc sao?” Dill hỏi.

“Chúng ta bị lạc suốt trong thời gian ông trúng bùa nhưng bây giờ không còn lạc nữa,” Jem nói. “Giáo sư Wiggins đang canh chừng trong căn chòi đàng kia và chúng ta phải tới đón ông ấy…”

Cứ theo cô biết, giáo sư Wiggins vẫn còn đang canh chừng đến giờ. Calpurnia phá vỡ bùa chú của tất cả mọi người bằng cách ló đầu ra khỏi cửa sau và gào lên, “Uống nước chanh không? Mười rưỡi rồi. Mấy đứa vô uống chút đi không thì bị luộc nguyên con trong cái nắng đó!”

Calpurnia đã đặt ba ly cối và một bình đầy nước chanh phía trong cửa trên hiên sau, một cách để bảo đảm rằng chúng sẽ ở trong bóng râm thêm ít nhất năm phút nữa. Nước chanh vào giữa buổi sáng là việc diễn ra hằng ngày trong mùa hè. Chúng nốc mỗi đứa ba ly và nhận ra phần còn lại của buổi sáng vẫn nằm trống rỗng trước mặt.

“Muốn ra đồng cỏ Dobbs chơi không?” Dill hỏi.

“Không.”

“Hay mình làm một con diều?” cô nói. “Mình có thể kiếm ít bột của Calpurnia…”

“Không thả diều trong mùa hè được đâu,” Jem nói. “Không có một miếng gió thổi.”

Hàn thử biểu ở hiên sau chỉ chín mươi hai độ, nhà xe lung linh nhè nhẹ đàng xa, còn hai cây tuyết tùng to tướng sinh đôi đứng im re.

“Tao biết làm gì rồi,” Dill nói.” Mình làm lễ phục hưng đi.”

Ba đứa nhìn nhau. Vụ này xứng đáng đây.

Thời kỳ nắng nóng nhất ở Maycomb sẽ có ít nhất một lễ phục hưng, và tuần đó đang có một lễ như vậy. Ba giáo hội trong thị trấn này - Giám lý, Báp tít, và Trưởng lão - có tập quán họp chung lại nghe một mục sư từ xa đến giảng đạo, nhưng có khi các giáo hội không nhất trí được về người thuyết giảng hoặc thù lao cho người đó, mỗi giáo đoàn sẽ tự tổ chức lễ phục hưng và mời mọi người tự do tham dự; nên đôi khi, dân chúng được bảo đảm một đợt tái thức tỉnh tâm linh dài ba tuần. Thời kỳ diễn ra lễ phục hưng là thời của chiến tranh: chiến tranh chống lại tội lỗi, Coca-Cola, phim ảnh, đi săn vào Chủ nhật; chiến tranh chống lại xu hướng đang lên trong các thiếu nữ thích dùng son phấn và hút thuốc nơi công cộng; chiến tranh chống lại thói uống rượu mạnh - về vụ này mỗi mùa hè có ít nhất năm mươi đứa trẻ đến trước bàn thờ và thề hứa sẽ không uống rượu, hút thuốc và chửi tục trước khi đủ hăm mốt tuổi; chiến tranh chống điều gì đó mơ hồ đến độ Jean Louise chẳng bao giờ mường tượng được là gì, ngoại trừ việc chẳng có gì để thề hứa liên quan tới nó; và cuộc chiến giữa các bà trong thị trấn xem ai có thể bày biện bàn ăn đẹp nhất cho nhà truyền giáo. Các mục sư thường trực ở Maycomb cũng ăn miễn phí trong một tuần, và trong những khu bất kính có dư luận rằng giới tu sĩ địa phương cố tình dẫn dắt giáo hội của mình tổ chức lễ tách biệt nhau, nhờ thế kiếm thêm thù lao cho hai tuần nữa. Tuy nhiên, đấy là một lời láo khoét.

Tuần đó, đã ba tối, Jem, Dill và cô ngồi ở khu dành cho thiếu nhi trong nhà thờ Báp tít (giáo đoàn Báp tít lần này làm chủ nhà) lắng nghe những thông điệp của mục sư James Edward Moorehead, một diễn giả nổi tiếng từ Bắc Georgia. Ít nhất đấy là điều người ta bảo chúng; chúng không hiểu lắm những điều ông ta nói ngoài những nhận xét về hỏa ngục. Hỏa ngục, đối với cô, đã và sẽ luôn là một ao lửa to vừa bằng Maycomb, Alabama, với một bức tường gạch cao sáu chục mét bao quanh. Những kẻ phạm tội bị Satan dùng chĩa ba thọc hất bay qua tường, và họ bị đun sôi liu riu đến vĩnh cửu trong một thứ nước hầm bằng lưu huỳnh lỏng.

Mục sư Moorehead là một ông cao nghều buồn bã với cái dáng gù và xu hướng đặt tựa đề giật gân cho các bài thuyết giáo. (Bạn có nói chuyện với Giêsu nếu gặp Người trên phố không? Mục sư Moorehead ngờ rằng bạn sẽ không nói được cho dù bạn muốn, vì Giêsu hẳn là nói tiếng Aram.)

Tối thứ hai ông ta thuyết giảng, chủ đề là Những hậu quả của tội lỗi. Vào lúc đó rạp chiếu phim địa phương đang chiếu một phim có cùng cái tựa đó (cấm khán giả dưới mười sáu tuổi): Maycomb nghĩ mục sư Moorehead sắp giảng về bộ phim đó, và cả thị trấn tụ tập lại để nghe ông giảng. Mục sư Moorehead hoàn toàn không làm thế. Ông dành cả bốn mươi lăm phút để mổ xẻ độ chính xác về ngữ pháp trong bài nói của ông ta. (Thế nào mới đúng - những hậu quả của tội lỗi là một cái chết hay những hậu quả của tội lỗi là những cái chết? Điều đó rất quan trọng, và mục sư Moorehead vạch ra những phân biệt sâu sắc đến độ ngay cả Atticus Finch cũng không xác định được ông ta muốn nhắm tới cái gì.)

Jem, Dill và cô chắc đã chán ngấy nếu mục sư Moorehead không sở hữu tài năng đặc biệt trong việc mê hoặc trẻ con. Ông ta là chuyên gia huýt sáo. Có một khoảng hở giữa hai cái răng cửa của ông (Dill thề rằng đấy là răng giả, chỉ được làm như thế để trông tự nhiên) tạo ra một âm thanh gây hài lòng đến mức tai hại khi ông nói một từ có chứa một hay nhiều chữ S: Sin, Jesus, Christ, sorrow, salvation, success [29] là những từ chủ chốt mà chúng chờ nghe mỗi tối, và sự chăm chú của chúng được tưởng thưởng theo hai cách: trong thời đó không mục sư nào nói hết bài giảng mà không dùng hết những từ đó, và ít nhất bảy lần một tối chúng chắc chắn được những đợt cảm giác hài lòng bị bóp nghẹn; thứ nhì, vì chúng chú ý rất kỹ đến mục sư Moorehead, nên Jem, Dill và cô được coi là những trẻ ngoan nhất trong giáo đoàn.

Tối thứ ba của đợt lễ phục hưng khi ba đứa cùng nhiều trẻ khác đi lên bàn thờ thừa nhận Giêsu là đấng cứu rỗi của chính mình, chúng nhìn đăm đăm xuống nền nhà trong suốt nghi thức vì mục sư Moorehead đan hai bàn tay trên đầu chúng và nói, không kể nhiều câu khác, “Phước thay cho ai không ngồi chỗ của kẻ nhạo báng.“ [30] Dill bỗng bị một con ho rũ rượi, và mục sư Moorehead thì thầm với Jem, “Đưa em này ra ngoài chỗ thoáng. Nó đuối sức rồi.”

Jem nói, “Tao nói cho nghe, mình có thể làm trò đó trong sân nhà mày bên hồ cá.”

Dill nói thế được đấy. “Phải đấy, Jem. Mình kiếm mấy cái thùng làm bục giảng đạo.”

Một lối xe chạy rải sỏi ngăn cách khoảng sân nhà Finch với sân nhà cô Rachel. Hồ cá nằm ở sân bên hông nhà, và quanh hồ có trồng những bụi đỗ quyên, hồng, hoa trà, dành dành. Vài con cá vàng già mập sống trong hồ này cùng với nhiều chú cóc, được che nắng nhờ mấy lá súng dại lớn và dây thường xuân. Một cây sung lớn tỏa đám lá độc trên khu vực chung quanh, khiến nơi đó trở thành nơi mát nhất cả khu này. Cô Rachel còn đặt ít ghế ngoài trời quanh hồ, và có một bàn gỗ chân chữ X ngay gốc cây sung.

Chúng tìm được hai thùng két rỗng trong phòng hun khói của cô Rachel và dựng lên một bàn thờ ngay trước hồ cá. Dill đứng ngay sau nó.

“Tao là ông Moorehead,” nó nói.

“Tao là ông Moorehead,” Jem nói. “Tao lớn nhất.”

“Ôi được thôi,” Dill nói.

“Mày với Scout là giáo đoàn được đó.”

“Tụi em sẽ chẳng có việc gì làm cả,” cô nói, “và đừng hòng em ngồi đây một tiếng nghe anh nói, Jem Finch.”

“Em với Dill có thể đi quyên góp,” Jem nói. “Hay làm ca đoàn cũng được.”

Giáo đoàn xếp hai cái ghế ngoài trời và ngồi đối mặt bàn thờ.

Jem nói, “Bây giờ tất cả hát cái gì đi.”

Cô với Dill hát:

Ơn huệ diệu kỳ âm thanh của Người dịu dàng sao

Đã cứu rỗi một người xấu xa như tôi

Tôi từng lạc mất nhưng nay được tìm thấy

Từng mù, nhưng nay được sáng. A men.

Jem vòng tay ôm bục giảng đạo, chồm tới trước, và nói bằng giọng tâm tình, “Ôi, thật hay khi gặp lại tất cả anh chị em sáng nay. Đây thật là một buổi sáng đẹp.”

Dill đáp, “A men.”

“Có ai sáng nay cảm thấy muốn mở rộng lòng ra và hát hết sức mình không?” Jem hỏi.

“Cóóóó thưa Cha,” Dill nói. Dill, với vóc người đậm, chắc và việc thiếu chiều cao buộc nó phải mãi mãi đóng vai nhân vật phụ, đứng dậy, và hóa thành ca-đoàn-một-người trước mắt chúng:

Khi tiếng kèn của Chúa vang lên, và thời gian chấm dứt,

Và buổi sáng ló dạng, bất diệt, sáng sủa và tươi đẹp;

khi những kẻ được cứu rỗi của trần thế tề tựu ở bờ bên kia,

và tiếng đọc tên vang lên xa xa, tôi sẽ có mặt.

Mục sư và giáo đoàn cùng hát đoạn đồng ca. Trong khi chúng đang hát, cô nghe tiếng Calpurnia gọi từ chốn mờ xa. Cô phẩy âm thanh như muỗi mắt ấy khỏi lỗ tai.

Dill, đỏ mặt tía tai vì gắng sức, ngồi xuống và hoàn thành vai trò nhóm xướng kinh.

Jem vờ gắn gọng kính kẹp mũi vô hình lên mũi, tằng hắng và nói, “Bài đọc hôm nay, thưa anh chị em, được trích từ Thi thiên: ‘Hỡi các cửa, hãy cất tiếng reo mừng cho Đức Chúa.’”

Jem gỡ kính kẹp mũi ra, và lặp lại bằng một giọng trầm trong khi lau, “Hãy cất tiếng reo mừng cho Đức Chúa.”

Dill nói, “Tới lúc thu tiền quyên góp rồi”, và ép cô đưa hai đồng năm xu cô có trong túi.

“Xong lễ nhớ trả lại nghe, Dill,” cô nói.

“Tất cả im lặng,” Jem nói. “Tới giờ thuyết giáo rồi.”

Jem làm bài thuyết giáo dài nhất, nhạt nhẽo nhất mà cô từng nghe trong đời. Anh ấy nói rằng tội lỗi có thể coi là thứ tội lỗi nhất mà anh nghĩ ra được, và không ai từng có tội mà lại có thể là người thành đạt, và phước thay cho ai ngồi chỗ của kẻ nhạo báng; tóm lại anh ấy lặp lại phiên bản của mình cho mọi chuyện chúng nghe được trong ba tối qua. Giọng anh rơi xuống quãng âm thấp nhất, rồi nó sẽ vút lên thành tiếng ré và anh ấy sẽ bấu vào không khí cứ như mặt đất đang mở ra dưới chân. Có lúc anh ấy hỏi, “Quỷ ở đâu?” và chỉ thẳng vào giáo đoàn, “Ngay tại Maycomb, Alabama đây.”

Anh ấy bắt đầu nói về hỏa ngục, nhưng cô bảo, “Thôi cắt đi, Jem.” Phần mô tả hỏa ngục của mục sư Moorehead là đủ cho cô đến hết đời. Jem đảo ngược lãnh vực thảo luận và bàn về thiên đàng: “Thiên đàng đầy những chuối (món ruột của Dill) và khoai tây hấp sữa (món ưng ý của cô), và khi chết chúng sẽ lên đó ăn những thứ ngon lành đến tận Ngày phán xét, nhưng vào Ngày phán xét thì Chúa, bởi đã ghi hết mọi thứ chúng đã làm từ ngày ra đời vào một cuốn sổ, sẽ tống chúng xuống hỏa ngục.”

Jem kết thúc buổi lễ bằng việc yêu cầu những ai muốn được hợp nhất với Giêsu hãy bước tới trước. Cô bước tới.

Jem đặt bàn tay trên đầu cô và nói, “Cô gái, con có sám hối không?”

“Có thưa Cha,” cô nói.

“Con được rửa tội chưa?”

“Chưa thưa Cha,” cô nói.

“Được rồi…” Jem nhúng tay vào thứ nước đen ngòm trong hồ cá và đặt tay lên đầu cô. “Ta rửa tội cho con…”

“Ê, khoan đã!” Dill la lên. “Vậy không đúng!”

“Tao nghĩ là đúng,” Jem nói. “Scout với tao thuộc phái Giám lý.”

“Phải, nhưng tụi mình đang làm lễ phục hưng phái Báp tít mà. Mày phải dìm nó xuống nước. Tao nghĩ tao cũng muốn được rửa tội.” Những ý nghĩa của buổi lễ đang hiện ra trong trí óc của Dill, và nó tranh đấu để giành vai trò đó. “Tao mới hợp,” nó nhấn mạnh. “Tao thuộc phái Báp tít nên tao nghĩ tao mới là người được rửa tội.”

“Giờ nghe nè, Dill Pickle Harris,” cô nói với vẻ đe dọa. “Tao chưa làm một chuyện chết giẫm gì suốt sáng nay. Mày đã xướng kinh, mày hát đoạn sô lô, rồi mày thu tiền quyên góp. Bây giờ đến lượt tao.”

Hai bàn tay cô nắm chặt, cánh tay trái giơ lên, và hai ngón chân cái bấu xuống đất.

Dill bước lùi ra. “Dẹp màn đó đi, Scout.”

“Nó đúng đó, Dill,” Jem nói. “Mày làm phụ lễ cho tao đi.”

Jem nhìn Scout. “Scout, chắc em phải cởi áo ra. Sẽ ướt hết đó.”

Cô cởi cái quần yếm ra, trang phục duy nhất của cô. “Cấm giữ em dưới đó,” cô nói, “và nhớ bịt mũi cho em.”

Cô đứng trên gờ xi măng của cái hồ. Một con cá vàng già trồi lên mặt nước nhìn cô đầy ác ý, rồi biến mất dưới làn nước tăm tối.

“Cái này sâu không?” cô hỏi.

“Chỉ sáu tấc,” Jem nói, và quay sang Dill chờ xác nhận. Nhưng Dill đã bỏ chúng lại. Chúng thấy nó đi phăm phăm về phía nhà cô Rachel.

“Chắc nó tức điên hả?” cô nói.

“Anh không biết. Mình chờ xem nó có trở lại không.”

Jem nói chúng nên lùa cá qua một bên vì sợ đụng phải con nào, và khi chúng đang chồm qua mép hồ khua nước thì một giọng ghê rợn vang lên sau lưng chúng, “Hùù…”

“Hùù…” Dill kêu lên trong tấm vải trải giường đôi mà trên đó nó đã đục hai lỗ cho đôi mắt. Nó giơ hai tay khỏi đầu và nhào về phía cô. “Sẵn sàng chưa?” nó hỏi.

“Nhanh lên Jem. Tao nóng quá.”

“Ối trời đất ơi,” Jem nói. “Mày làm gì vậy?”

“Tao là Chúa Thánh thần,” Dill khiêm nhường nói.

Jem cầm tay cô và dẫn cô xuống hồ. Nước ấm và nhớt, đáy hồ thì trơn. “Cấm nhấn nước em một lần nào đấy,” cô nói.

Jem đứng trên gờ hồ. Hình dáng trùm khăn trải giường đến bên cạnh anh ấy, đập hai cánh tay lia lịa. Jem giữ lưng cô và đẩy cô xuống nước. Khi đầu cô chìm xuống dưới mặt nước cô nghe Jem ngân nga, “Jean Louise Finch, ta rửa tội cho con nhân danh…”

Chát!

Cây roi của cô Rachel quất gọn gàng vào mông của đấng thần thánh. Vì nó không thể bước lui vào đám mưa roi quất nên Dill bước thật nhanh tới trước và đến bên cô trong hồ. Cô Rachel quất luôn tay vào cái đống lộn xộn những mớ lá súng, khăn trải giường, những tay và chân, và những dây leo thường xuân quấn quýt.

“Ra khỏi đó!” cô Rachel gào lên. “Dì sẽ cho mày biết thế nào là Chúa Thánh thần, Charles Baker Harris! Dám xé khăn trên cái giường đẹp nhất của dì, phải không? Còn khoét lỗ nữa, phải chưa? Gọi tên Chúa vô cớ, đúng không? Nào, ra khỏi đó ngay!”

“Dừng lại đi, dì Rachel!” Dill làu bàu, đầu nó ngập một nửa dưới mặt nước. “Để con sửa mà!”

Nỗ lực thoát cảnh lúng túng một cách đường hoàng của Dill chỉ thành công khiêm tốn: nó đứng lên trong hồ nước như một tiểu thủy quái kỳ dị, phủ trong mớ rêu nhớt và tấm khán trải giường ướt sũng. Một tua thường xuân quấn quanh đầu và cổ nó. Nó lắc đầu loạn xạ để hất ra, và cô Rachel bước lui lại tránh những tia nước.

Jean Louise theo nó bước ra. Mũi cô ngứa khủng khiếp vì thứ nước trong đó, và khi hít vào thì rất đau.

Cô Rachel không chạm vào Dill, mà dùng roi vẫy nó đi tới, miệng bảo, “Bước!”

Cô và Jem nhìn theo hai người cho đến khi họ khuất trong nhà của cô Rachel. Cô không thể không thấy tội nghiệp cho Dill.

“Mình về đi,” Jem nói. “Chắc tới giờ ăn trưa rồi.”

Chúng quay về hướng nhà mình và thấy ngay đôi mắt của bố chúng. Ông đang đứng trên lối xe chạy vào nhà.

Cạnh ông là một quý bà mà chúng không biết, cùng với mục sư James Edward Moorehead. Trông như họ đã đứng ở đó hồi lâu.

Atticus tiến đến đón chúng, cởi áo khoác ra. Cổ họng cô thắt lại và đầu gối run lên. Khi ông quàng áo khoác quanh vai cô, cô mới nhận ra mình đang đứng trần truồng trước mặt một nhà thuyết giáo. Cô toan chạy, nhưng Atticus nắm gáy cô giữ lại và nói, “Vào chỗ Calpurnia. Vào bằng cửa sau.”

Calpurnia kì cọ cho cô rất mạnh tay trong bồn tắm, miệng làu bàu. “Ông Finch gọi về sáng nay và bảo ông sẽ mời vợ chồng vị truyền giáo tới dùng bữa. Tôi réo gọi các cô cậu đến tái xanh mặt mũi. Sao cô không trả lời?”

“Đâu có nghe thấy bà,” cô nói dối.

“Hừ, chỉ có thể hoặc lấy bánh khỏi lò hoặc đi kiếm cô cậu về. Tôi đâu làm cả hai một lúc được. Cô phải xấu hổ về bản thân chứ, làm xấu mặt bố cô như thế!”

Cô nghĩ ngón tay xương xẩu của Calpurnia sẽ chọc thủng lỗ tai cô mất. “Ngừng lại,” cô kêu.

“Nếu bố cô không quất cho hai cô cậu tã xác thì tôi sẽ quất,” Calpurnia hứa hẹn. “Bây giờ ra khỏi bồn tắm coi.”

Calpurnia gần như lột da cô bằng cái khăn thô ráp, và ra lệnh cho cô giơ tay quá đầu. Calpurnia tròng cho cô cái váy màu hồng đã hồ bột cứng ngắc, giữ chặt cằm của cô giữa ngón cái và ngón trỏ của bà, và cào mái tóc cô bằng cái lược răng nhọn. Calpurnia thảy một đôi giày da sờn ngay chân cô.

“Đi vào đi.”

“Con đâu cài nút được,” cô nói. Calpurnia lật nắp bồn cầu xuống và đặt cô lên đó. Cô nhìn những ngón tay bù nhìn to lớn thực hiện công việc tinh vi, đẩy những cái nút tròn qua lỗ quá nhỏ so với nó, và cô ngạc nhiên trước sức mạnh trong đôi bàn tay Calpurnia.

“Bây giờ lên với bố đi.”

“Jem đâu?” cô hỏi.

“Cậu ấy đang rửa ráy trong phòng tắm của ông Finch. Tôi tin cậu ấy tự làm được.”

Trong phòng khách, cô và Jem ngồi lặng lẽ trên trường kỷ. Atticus và mục sư Moorehead trò chuyện không có gì hào hứng, còn bà Moorehead nhìn trân trối vào hai đứa trẻ. Jem nhìn bà Moorehead và mỉm cười. Nụ cười của anh không được đáp trả, nên anh thôi không cười nữa.

Calpurnia reo chuông báo giờ ăn khiến ai cũng nhẹ nhõm. Tại bàn, họ ngồi một lát trong sự im lặng bối rối, và Atticus yêu cầu mục sư Moorehead nói lời tạ ơn. Mục sư Moorehead, thay vì cầu xin một ơn phước không nói đến riêng ai, lại nắm lấy cơ hội này để thưa với Chúa về những trò nghịch bậy của cô với Jem. Đến lúc mục sư Moorehead đi tới chỗ giải thích rằng chúng là những đứa trẻ không mẹ, cô cảm thấy mình thu lại còn nhỏ xíu. Cô liếc sang Jem: mũi anh ấy gần chạm vào đĩa và hai tai đỏ bừng. Cô không chắc Atticus có bao giờ ngẩng đầu lên được nữa không, và e ngại của cô được xác nhận khi mục sư Moorehead sau cùng cũng nói A men và Atticus nhìn lên. Hai giọt nước mắt đã chảy sau tròng kính xuống hai bên má. Lần này chúng đã làm ông tổn thương dữ dội, Đột nhiên ông nói, “Xin lỗi”, đứng bật dậy, và khuất vào nhà bếp.

Calpurnia thận trọng bước vào, bưng một cái khay chất ú hụ. Có khách tới, cung cách lịch sự trước mặt khách của Calpurnia cũng xuất hiện: tuy bà có thể nói thứ tiếng Anh của Jeff Davis [31] giỏi như mọi người, bà luôn bỏ bớt động từ khi có mặt khách; bà đường bệ chuyển những đĩa rau trên bàn; bà có vẻ hít vào đều đặn. Khi Calpurnia phục vụ đến chỗ cô, Jean Louise nói, “Xin lỗi, nhờ bà”, thò tay lên, và kéo đầu Calpurnia xuống ngang tầm đầu cô. “Cal,” cô thì thào, “bộ Atticus buồn bực lắm hả?”

Calpurnia đứng thẳng dậy, nhìn xuống cô, và nói với cả bàn, “Ông Finch à? Khôông, cô Scout. Ông đang cười ha hả ở hiên sau!”

Ông Finch à? Ông đang cười. Bánh xe chạy từ mặt đường sang mặt đất đánh thức cô dậy. Cô lùa tay qua mái tóc. Cô mở ngăn đựng găng tay, tìm thấy gói thuốc lá, lấy ra một điếu, và mồi lửa.

“Mình sắp tới rồi,” Henry nói. “Em vừa ở đâu về? Trở lại New York với bạn trai hả?”

“Chỉ nằm nghĩ lơ mơ thôi,” cô nói. “Em đang nghĩ về bữa bọn em chơi trò lễ phục hưng. Anh không có mặt lần đó.”

“Tạ ơn Chúa. Đó là một trong những chuyện bác Finch thích nhất.”

Cô bật cười. “Chú Jack kể em nghe chuyện đó trong gần hai mươi năm, và nó vẫn còn làm em ngượng. Anh biết đó, Dill là người duy nhất chúng em quên báo tin khi Jem mất. Ai đó đã giở cho hắn một mẩu tin trong báo. Nhờ đó hắn mới biết chuyện.”

Henry nói, “Lúc nào mà chẳng xảy ra như vậy. Mình cứ quên người xưa nhất. Có nghĩ lúc nào đó hắn sẽ quay về không?”

Jean Louise lắc đầu. Khi quân đội phái Dill sang châu Âu, Dill đã ở lại đó. Hắn bẩm sinh là gã lang thang. Hắn cứ như một con báo nhỏ khi bị tù hãm với những con người và khung cảnh quen thuộc trong một thời gian bất kể dài hay ngắn. Cô tự hỏi hắn sẽ ở đâu khi cuộc đời hắn kết thúc. Không phải trên lề đường ở Maycomb rồi, điều đó là chắc chắn.

Không khí mát từ con sông cắt qua bầu trời đêm nóng bức.

“Finch’s Landing đây, thưa quý bà,” Henry nói.

Finch’s Landing gồm ba trăm sáu mươi sáu bậc cấp từ một mỏm đá cao đi xuống và kết thúc ở một cầu tàu rộng vươn ra giữa sông. Người ta tới đây qua ngả một khoảng rừng thưa rộng chừng ba trăm thước trải từ bờ mỏm đá vào tới cánh rừng. Một con đường hai vết lún chạy từ mé bên kia khoảng rừng thưa lại, chìm khuất trong đám cây mờ tối. Cuối đường là ngôi nhà trắng hai tầng với hàng hiên mở ra ở cả bốn mặt, trên lầu lẫn tầng trệt.

Không hề rơi vào cảnh mục nát nghiêm trọng, toà nhà Old Finch House vẫn ở tình trạng cực tốt: nó là một câu lạc bộ săn bắn. Một số doanh nhân ở Mobile đã thuê vùng đất quanh nó, mua lại ngôi nhà, và thành lập ra cái thứ mà Maycomb nghĩ là một địa ngục cờ bạc tư nhân. Nhưng không phải thế: các phòng của ngôi nhà xưa trong những tối mùa đông vang lên tiếng hò reo của đàn ông và thỉnh thoảng một tiếng súng săn nổ vang, không phải vì giận dữ mà vì phấn khích quá độ. Cứ để họ chơi xì phé và chè chén hết sức họ muốn, Jean Louise chỉ cần một điều là ngôi nhà được chăm sóc.

Ngôi nhà có một lịch sử quen thuộc của miền Nam: nó được ông nội Atticus Finch mua lại từ người chú một nữ sát thủ chuyên dùng độc dược vốn hoạt động ở cả hai bờ Đại Tây Dương nhưng xuất thân từ một gia đình danh giá lâu đời ở Alabama. Cha của Atticus đã chào đời ở ngôi nhà này, cũng như Atticus, Alexandra, Caroline (sau kết hôn với một ông ở Mobile), và John Hale Finch. Khoảng rừng thưa được dùng cho những dịp họp mặt gia tộc cho đến khi không còn hợp thời nữa, việc đó nằm trong tầm Jean Louise còn nhớ được.

Ông cố tổ của Atticus Finch, một tín đồ Giám lý người Anh định cư bên bờ sông gần Claiborne, có bảy con gái và một con trai. Họ gả con cho binh lính của đại tá Maycomb, sinh con đẻ cái, và thành lập ra thứ mà hạt này gọi là nhóm Tám Gia đình. Qua năm tháng, khi con cháu tề tựu hằng năm, gia đình Finch ngụ tại Landing thấy cần phải phá bỏ thêm đất rừng để làm chỗ sinh hoạt dã ngoại, do đó diện tích khoảng rừng trống mới được như ngày nay. Tuy nhiên, nó được dùng cho nhiều việc khác ngoài tụ họp gia tộc: dân da đen chơi bóng rổ ở đó, dân KKK [32] họp mặt ở đó lúc thịnh thời của họ, và một giải thể thao lớn được tổ chức trong thời Atticus, các quý ông trong hạt đấu thương với nhau để được vinh dự đem các bà của họ tới Maycomb dự một buổi tiệc lớn (Alexandra nói xem bác Jimmy phóng ngựa nước đại và lao cọc xỏ qua vòng chính là điều khiến bác kết hôn với ông ấy).

Thời của Atticus cũng là khi gia đình Finch dời vào thị trấn: Atticus học luật ở Montgomery và trở về hành nghề ở Maycomb; Alexandra, mê mẩn vì tài ba của bác Jimmy, theo ông tới Maycomb; John Hale Finch đến Mobile để học ngành y; và Caroline bỏ nhà theo người yêu lúc mười bảy tuổi. Khi cha họ mất, họ cho thuê khu đất đó, nhưng mẹ họ không chịu rời chốn cũ. Bà cứ ở lại, nhìn đất bị cho thuê và bán đi từng mẩu một quanh bà. Khi bà chết, phần còn lại chỉ gồm ngôi nhà, khoảng rừng trống, và cầu tàu bốc dỡ hàng. Ngôi nhà bị bỏ trống cho đến khi mấy ông ở Mobile mua lại.

Jean Louise nghĩ cô còn nhớ được bà nội, nhưng không chắc. Khi cô lần đầu tiên trong đời thấy một bức họa của Rembrandt, vẽ một phụ nữ mặc áo cổ xếp nếp và đội mũ vải nhỏ, cô đã nói, “Bà nội kìa.” Atticus nói không phải, nó thậm chí chẳng trông giống bà gì cả. Nhưng Jean Louise có ấn tượng rằng ở đâu đó trong ngôi nhà cũ cô từng được dẫn vào một căn phòng đèn đuốc lờ mờ, và ngồi ở giữa phòng là một bà già, rất già, mặc đồ đen, với cổ áo ren trắng.

Những bậc cấp dẫn xuống cầu tàu, dĩ nhiên, được gọi là Bậc Năm Nhuận, và khi Jean Louise còn nhỏ tới dự những lần đoàn tụ gia tộc, cô và rất nhiều anh chị em thường khiến bố mẹ chúng chạy tới bờ mép của mỏm đá vì lo lắng về chuyện chúng chơi đùa trên những bậc cấp, cho đến khi đám trẻ bị giữ lại và chia thành hai loại, biết bơi và không biết bơi. Những đứa không biết bơi được chuyển đến mé khoảng đất trống giáp rừng và sắp xếp chơi những trò chơi không rủi ro, những đứa biết bơi chiếm toàn bộ bậc cấp với hai thanh niên da đen giám sát cẩn thận.

Câu lạc bộ săn bắn đã giữ gìn các bậc cấp ở tình trạng tốt và sử dụng cầu tàu làm bến đậu cho xuồng của họ. Họ là những người làm biếng; thả xuôi dòng rồi chèo vào đầm lầy Winston thì dễ hơn lặn lội qua vùng đất lầy đầy bụi cây thấp và thông, về phía hạ nguồn, qua khỏi mỏm đá, còn dấu vết của bãi bốc dỡ bông vải ngày xưa nơi những người da đen của nhà Finch bốc những kiện bông vải và nông sản lên tàu, và dỡ những cây nước đá, bột và đường, nông cụ và những sản phẩm cho phụ nữ từ tàu xuống. Bến bốc dỡ Finch’s Landing chỉ có du khách sử dụng: đường bậc cấp cho các bà một lý do tuyệt vời để chết ngất; hành lý của họ được để lại tại sàn bốc dỡ bông vải - lên bờ ở đó trước mặt những người da đen là điều không thể hình dung.

“Liệu nó còn an toàn không nhỉ?”

Henry nói, “Đương nhiên. Câu lạc bộ giữ nó tốt lắm. Tụi mình đang xâm nhập đất tư nhân đó, em biết mà.”

“Xâm nhập đất tư nhân, chết tiệt. Em muốn nhìn thấy ngày mà một người nhà Finch không được bước đi trên đất nhà họ.” Cô ngừng lại. “Ý anh muốn nói gì?”

“Nhà em đã bán lô đất cuối cùng năm tháng trước.”

Jean Louise nói, “Cả nhà chẳng nói câu nào với em về chuyện đó.”

Giọng của cô khiến Henry dừng lại. “Em đâu có quan tâm, đúng không?”

“Không, thực tình là không. Em chỉ muốn mọi người cho em hay.”

Henry không tin. “Lạy Chúa, Jean Louise, nó có ích gì cho bác Finch và mấy chú bác kia đâu?”

“Chẳng có gì cả, lại còn thuế má các thứ nữa. Em chỉ muốn mọi người cho em hay thôi. Em không thích những chuyện ngạc nhiên.”

Henry bật cười. Anh cúi người và bốc lên một nắm cát xám. “Tỏ bộ miền Nam với chúng tôi hả? Muốn anh đóng vai Gerald O’Hara không?” [33]

“Dẹp đi, Hank.” Giọng cô nghe thoải mái.

Henry nói, “Anh tin em là người tệ nhất trong đám. Bác Finch mới được bảy mươi hai còn em đã già một trăm tuổi khi đụng đến những chuyện thế này.”

“Tại em không thích thế giới của mình bị đảo lộn mà không được báo trước. Mình xuống cầu tàu đi.”

“Em đủ sức không?”

“Em có thể hạ anh bất cứ hôm nào.”

Họ chạy đua tới bậc cấp. Khi Jean Louise bắt đầu đoạn xuống dốc nhanh, những ngón tay của cô lướt qua mặt kim loại lạnh. Cô dừng lại. Họ đã lắp đặt thanh tay vịn bằng ống sắt cho bậc cấp từ năm ngoái. Hank đã vượt quá xa về phía trước không mong gì bắt kịp, nhưng cô vẫn cố.

Khi cô xuống đến cầu tàu, hụt hơi, Henry đã nằm dài ra trên những tấm ván. “Cẩn thận mặt rải nhựa đường, cưng,” anh nói.

“Em già mất rồi,” cô nói.

Họ im lặng hút thuốc lá. Henry vòng cánh tay dưới gáy cô, thỉnh thoảng lại quay sang hôn cô. Cô nhìn lên bầu trời. “Mình gần như có thể với tay lên chạm vào đó, nó thấp đến thế mà.”

Henry nói, “Lúc nãy em có nghiêm túc không khi nói rằng em không thích thế giới của mình bị đảo lộn?”

“Hừm?” Cô không biết. Cô nghĩ là mình nghiêm túc. Cô cố giải thích: “Chẳng qua là mỗi lần em về nhà trong năm năm qua - ngay cả trước đó nữa. Hồi học đại học - lại có gì đó thay đổi một chút…”

“… và em không chắc là mình thích như thế, hả?” Henry đang nhe răng cười dưới ánh trăng và cô có thể thấy rõ anh.

Cô ngồi dậy. “Em không chắc liệu em có thể nói cho anh hiểu không, anh yêu. Khi sống ở New York, anh thường có cảm giác rằng New York không phải là thế giới. Ý em là thế này: mỗi lần về nhà, em cảm thấy như mình đang trở lại với thế giới, và khi rời Maycomb thì giống như đang rời khỏi thế giới. Điều đó ngớ ngẩn lắm. Em không giải thích được, và còn ngớ ngẩn hơn nữa vì em hẳn sẽ phát điên lên nếu sống ở Maycomb.”

Henry nói, “Em không phát điên đâu, em biết mà. Anh không định ép em phải trả lời anh - đừng chuyển chỗ - nhưng em phải quyết định chọn một trong hai, Jean Louise. Em sẽ nhìn thấy thay đổi, em sẽ thấy Maycomb thay đổi bộ mặt hoàn toàn trong đời chúng ta. Bây giờ, rắc rối của em là, em muốn có mọi thứ cùng một lúc: em muốn ngừng thời gian lại, nhưng không thể. Không sớm thì muộn em sẽ phải quyết định chọn Maycomb hoặc New York.”

Anh gần như hiểu rồi đấy. Em sẽ lấy anh. Hank ạ, nếu anh đưa được em về sống ở Landing này. Em sẽ đổi New York lấy chỗ này chứ không phải lấy Maycomb.

Cô nhìn lung ra dòng sông. Phía bên hạt Maycomb toàn những mỏm đá cao; phía hạt Abbott thì phẳng. Khi trời mưa dòng sông tràn bờ và người ta có thể bơi xuồng qua những cánh đồng bông vải. Cô nhìn về thượng nguồn. Trận Đánh Xuồng là ở trên đó, cô thầm nghĩ. [34] Sam Dale đánh với dân da đỏ còn thủ lãnh da đỏ Red Eagle phóng ngựa từ mỏm đá xuống sông.

Và rồi hắn nghĩ hắn biết

Vùng đồi nơi cuộc sống hắn đã vươn lên

Và vùng biển nơi nó tới, [35]

“Em nói gì đó hả?” Henry nói.

“Đâu có gì. Chỉ đang mơ mộng thôi,” cô nói. “Nhân tiện nói thêm này, bà bác em không tán thành anh đâu.”

“Anh biết điều đó từ lâu. Em biết không?”

“Biết.”

“Vậy lấy anh đi.”

“Thử đặt giá em nghe đi.”

Henry nhổm dậy và ngồi cạnh cô. Họ thả chân lòng thòng qua mép cầu tàu. “Giày em đâu rồi?” đột nhiên cô hỏi.

“Ở đàng xe đó khi em đá cho nó tuột ra. Jean Louies, bây giờ anh có thể nuôi cả hai ta. Anh có thể bảo đảm tụi mình thoải mái trong vài năm nếu mọi chuyện cứ phát triển thế này. Miền Nam bây giờ là mảnh đất của cơ hội. Ngay tại hạt Maycomb này cũng có đủ tiền để nhấn chìm một… em nghĩ sao khi có một ông chồng trong cơ quan lập pháp?”

Jean Louise ngạc nhiên. “Anh tranh cử à?”

“Anh đang nghĩ về chuyện đó.”

“Chống lại guồng máy à?”

“Phải. Nó sắp sụp đổ đến nơi vì sức nặng của chính nó, và nếu anh vào được tầng trệt…”

“Chính quyền đàng hoàng ở hạt Maycomb sẽ là một cú sốc đến độ em nghĩ dân ở đây không chịu được,” cô nói. “Atticus nghĩ sao?”

“Bác ấy nghĩ thời gian đã chín mùi.”

“Anh sẽ không có sự nghiệp dễ dàng như bố em đâu.” Bố cô, sau chiến dịch ban đầu, đã phục vụ trong cơ quan lập pháp của bang lâu chừng nào tùy ý ông, mà không có đối thủ. Ông là trường hợp độc nhất trong lịch sử của hạt: không guồng máy nào chống lại Atticus Finch, không guồng máy nào ủng hộ ông, và không ai đối đầu với ông. Sau khi ông về hưu, guồng máy nuốt luôn vị trí độc lập còn sót lại.

“Không được vậy đâu, nhưng anh có thể là một địch thủ đáng gờm đấy. Đám nhân viên công quyền lúc này gần như ngủ gật trên bàn giấy rồi, và một chiến dịch mạnh mẽ có thể vừa khéo đánh bại họ.”

“Anh yêu, anh sẽ không có trợ thủ đâu,” cô nói. “Chính trị làm em chán tới phát điên luôn.”

“Dù sao, em cũng không vận động chống lại anh. Như thế là nhẹ nhõm rồi.”

“Một thanh niên đang lên, phải không? Sao anh không kể với em anh được bình chọn là ‘Người đàn ông của năm’?”

“Anh sợ em cười,” Henry nói.

“Cười anh hả, Hank?”

“Phải. Lúc nào em cũng có vẻ hơi cười cợt anh.”

Cô nói gì bây giờ? Đã bao lần cô làm tổn thương cảm xúc của anh rồi? Cô nói, “Anh biết em chưa bao giờ khéo ăn nói, nhưng thề có Chúa là em chưa bao giờ cười cợt anh, Hank ạ. Chưa hề, tự thâm tâm.”

Cô vòng tay ôm lấy đầu anh. Cô cảm nhận được mái tóc húi cua của anh dưới cằm mình, như lớp nhung đen. Henry hôn cô, kéo cô xuống với anh trên nền cầu tàu.

Lát sau, Jean Louise tách ra. “Mình nên đi thôi, Hank.”

“Chưa mà.”

“Đi thôi.”

Hank nói mệt mỏi. “Điều mà anh ghét nhất ở chỗ này là mình luôn phải leo ngược trở lên.”

“Em có người bạn ở New York luôn chạy lên cầu thang với tốc độ một dặm một phút. Bảo làm thế giúp cho hắn không bị hụt hơi. Sao anh không thử xem?”

“Bạn trai em hả?”

“Đừng ngốc thế,” cô nói.

“Hôm nay em nói câu đó một lần rồi.”

“Vậy thì, quỷ bắt anh đi,” cô nói.

“Hôm nay em nói câu đó một lần rồi.”

Jean Louise chỏi hai tay bên hông. “Anh có thích bơi mặc nguyên quần áo không? Hôm nay em chưa nói câu đó lần nào. Ngay lúc này em thèm đẩy anh xuống đó hơn là nhìn anh.”

“Em biết không, anh nghĩ em sẽ làm thế.”

“Vậy thì đừng tranh cử.”

Chiếc xe vu vu chạy tới. Từ từ, không khí mát mẻ lui dần và trời lại ngột ngạt. Jean Louise thấy ánh phản chiếu của những đèn xe phía sau trên mặt kính chắn gió, và một xe vượt qua. Rồi một xe nữa chạy qua, và một chiếc nữa. Maycomb đang đến gần.

Ngả đầu trên vai anh, Jean Louise thấy hài lòng. Sau cùng có thể cũng được, cô nghĩ. Nhưng mình không phải người ưa nội trợ. Mình thậm chí không biết cách điều hành việc bếp núc. Các bà nói gì với nhau khi họ đến thăm nhau? Mình chắc phải đội mũ. Mình có thể tuột tay đánh rơi em bé khiến nó chết.

Một thứ gì trông như một con ong đen khổng lồ vụt qua mặt họ và đảo nghiêng ở một khúc quanh phía trước. Cô ngồi dậy, ngạc nhiên. “Cái gì vậy?”

“Một xe đầy nhóc dân da đen.”

“Ôi trời, họ nghĩ họ đang làm gì vậy?”

“Đấy là cách họ thể hiện dạo gần đây,” Henry nói. “Họ kiếm đủ tiền để mua mấy cái xe cũ, rồi ra xa lộ phóng như điên. Họ là mối đe dọa cho dân chúng.”

“Còn bằng lái?”

“Không nhiều. Cũng không bảo hiểm luôn.”

“Chúa ơi, lỡ có gì xảy ra thì sao?”

“Thì quá buồn thôi chứ sao.”

Tới cửa, Henry hôn cô nhẹ nhàng và buông cô ra. “Tối mai nhé?” anh nói.

Cô gật đầu. “Ngủ ngon, cưng.”

Cầm giày trên tay, cô nhón chân rón rén vào phòng ngủ phía trước và bật đèn. Cô cởi quần áo, mặc áo ngủ, và lặng lẽ bước ra phòng khách. Cô bật một ngọn đèn rồi đến chỗ kệ sách. Ôi khốn nạn, cô nghĩ. Cô lướt ngón tay theo mấy tập của bộ quân sử, ngần ngừ ở cuốn Second Punic War , và dừng lại ở The Reason Why. Tốt hơn là học gạo mai còn gặp chú Jack, cô nghĩ. Cô trở lại phòng ngủ, tắt ngọn đèn trên trần, mò tìm chỗ đèn bàn, bật nó lên. Cô leo lên cái giường nơi cô được sinh ra, đọc ba trang, và thiếp ngủ với ngọn đèn vẫn để sáng.