Chương 4 Tôi Biết Rõ Ông Đến Mức Biết Ông Đang Nghĩ Gì
Mark Mellery sải từng bước dài qua đám cỏ mềm mại. Y tiến về phía Gurney như muốn ôm anh, nhưng cái gì đó làm y suy nghĩ lại.
“Davey!” y vừa la lên vừa chìa tay ra.
Davey[2] ư? Gurney ngạc nhiên.
“Chúa ơi!” Mellery nói tiếp. “Trông anh vẫn như xưa. Chúa ơi, gặp lại anh thật hay quá! Gặp anh trông vẫn như xưa thế này thật tuyệt! Davey Gurney! Hồi còn ở Fordham người ta vẫn thường nói trông anh như Robert Redford trong phim Người của Tổng thống. Giờ vẫn vậy – chẳng thay đổi một chút nào! Nếu không biết anh cũng như tôi thì tôi đã nói anh mới có ba mươi thôi!”
Y siết tay Gurney bằng cả hai tay như thể tay anh là một báu vật. “Hôm nay vừa lái xe từ Peony đến Walnut Crossing, tôi vừa nhớ lại thái độ điềm đạm và tự chủ vốn dĩ của anh. Một ốc đảo về mặt cảm xúc – anh như thế đấy, một ốc đảo về mặt cảm xúc! Và anh vẫn giữ được cái phong thái ấy. Davey Gurney – điềm đạm, trầm tĩnh, và tự chủ – cộng với trí óc nhạy bén nhất thị trấn. Dạo này anh ra sao rồi?”
“Cuộc sống cũng thuận lợi.” Gurney vừa nói vừa gỡ tay ra, giọng Mellery tràn đầy hào hứng bao nhiêu thì giọng của anh thiếu hụt hào hứng bấy nhiêu. “Chẳng chê vào đâu được.”
“Thuận lợi…” Mellery đọc rõ các âm tiết như đang cố nhớ nghĩa của một từ tiếng nước ngoài. “Nơi anh ở đẹp thật đấy. Đẹp lắm.”
“Madeleine có con mắt rất tinh tường đối với những thứ này. Ta ngồi nhé!” Gurney ra hiệu cho Mellery đi về phía cặp ghế gỗ ngoài trời cũ sờn nằm đối diện nhau giữa cây táo và chậu chim tắm.
Mellery cất bước về hướng đó, rồi khựng lại. “Tôi có một thứ…”
“Có phải cái này không?” Madeleine đang bước về phía họ từ trong nhà, tay cầm trước mặt một cặp hồ sơ rất trang nhã. Tinh tế và đắt tiền, chiếc cặp cũng như những món đồ khác trên người Mellery – từ đôi giày Anh thủ công (nhưng không sáng bóng quá và mang rất thoải mái) đến chiếc áo khoác thể thao làm bằng len ca-sơ-mia được may rất đẹp (nhưng hơi nhàu) – một dáng vẻ tưởng chừng như được toan tính trước cốt để thốt lên rằng đúng đây là một người biết sử dụng tiền mà không để tiền vật lại mình, một người thành đạt nhưng không tôn thờ sự thành đạt, một người mà vận may đến một cách tự nhiên. Tuy nhiên, sự lo âu trong đôi mắt y lại truyền đạt một thông điệp khác.
“À, vâng, cảm ơn chị,” Mellery nói, tay nhận chiếc cặp từ Madeleine mà lòng nhẹ nhõm thấy rõ. “Nhưng chị thấy nó…”
“Anh để trên bàn trà đấy.”
“Vâng, đúng rồi. Hôm nay đầu óc tôi giống như phân tán khắp nơi vậy. Cảm ơn chị.”
“Anh uống chút gì nhé?”
“Uống ư?
“Vợ chồng tôi đã làm sẵn trà đá rồi. Hoặc nếu anh muốn uống thứ khác thì…?”
“Không, không, trà đá được rồi. Cảm ơn chị.”
Khi quan sát người bạn cũ, Gurney chợt hiểu ra ý của Madeleine khi cô nói Mellery trông y như bức ảnh in trên bìa sách của y, ‘có điều còn hơn thế nữa’.
Tố chất rõ rệt nhất trong bức ảnh là một sự hoàn mỹ không theo khuôn mẫu – cái ảo giác dễ khiến người ta lầm tưởng đây là một ảnh chụp bình thường, nghiệp dư tuy không có những bóng đổ kém đẹp mắt hay bố cục thô vụng của một ảnh chụp nghiệp dư thật sự. Chính là thứ cảm giác về một sự bất cẩn được xử lý cẩn thận ấy – một sự thôi thúc bản ngã phải làm ra vẻ vô ngã – mà Mellery là một mẫu mực bằng xương bằng thịt. Trực giác của Madeleine lại chính xác như thường lệ.
“Trong email, anh nói đến vấn đề gì đó,” Gurney vào chủ đề một cách đường đột đến mức gần như thô lỗ.
“Phải,” Mellery trả lời, nhưng thay vì mổ xẻ vấn đề, y xin kể lại một ký ức dường như được chuẩn bị sẵn để dệt thêm một sợi chỉ mỏng của nghĩa vụ nữa vào mối quan hệ đồng môn, ký ức về một cuộc tranh luận ngớ ngẩn giữa một người bạn cùng lớp với giáo sư môn triết. Suốt quá trình kể chuyện, Mellery gọi bản thân, Gurney, và nhân vật chính là ‘Ba chàng ngự lâm’ của khuôn viên Rose Hill, gắng sức làm câu chuyện ấu trĩ ấy nghe đậm chất anh hùng. Gurney cảm thấy ngượng và không có phản ứng nào đối với vị khách của mình ngoài một cái nhìn chằm chằm đầy trông đợi.
“Chà,” Mellery vừa nói vừa miễn cưỡng chuyển sang vấn đề cần giải quyết, “tôi không biết phải bắt đầu từ đâu nữa.”
Chuyện của anh mà anh cũng không biết phải bắt đầu từ đâu, Gurney nghĩ, thì anh đến đây làm cái quái gì cơ chứ?
Mellery cuối cùng mở chiếc cặp hồ sơ ra, rút ra hai cuốn sách mỏng bìa mềm, rồi thận trọng đưa cho Gurney như thể chúng rất dễ vỡ. Đây là hai cuốn sách được mô tả trong bản in lấy từ trang web mà anh đã xem trước đó. Một cuốn có tên ‘Điều quan trọng duy nhất’ với nhan đề phụ ‘Sức mạnh thay đổi số phận của lương tri’. Cuốn còn lại có tên ‘Thành thật mà nói!’ với nhan đề phụ ‘Cách duy nhất để sống hạnh phúc’.
“Có thể anh chưa nghe đến những cuốn này. Hai cuốn này bán tương đối chạy, nhưng chưa hẳn là dạng sách bom tấn.” Mellery mỉm cười bằng một sự khiêm tốn giả tạo dường như đã được luyện tập nhuần nhuyễn. “Tôi đưa không phải để anh đọc ngay bây giờ.” Y lại mỉm cười, như thể chuyện này rất vui nhộn. “Tuy nhiên, hai cuốn này có thể cho anh manh mối nào đó giúp anh hiểu chuyện gì đang xảy ra, hoặc tại sao nó xảy ra, khi tôi trình bày vấn đề của mình… có lẽ phải nói là vấn đề hiển nhiên của tôi mới phải. Toàn bộ chuyện này khiến tôi hơi rối rắm một chút.”
Và hơi kinh sợ nhiều chút, Gurney trầm ngâm.
Mellery thở một hơi dài, ngừng một lát, rồi bắt đầu câu chuyện của mình như một người sắp bước vào con sóng cả lạnh buốt bằng một quyết tâm dễ lung lay.
“Tôi nên kể cho anh nghe trước về mấy lá thư tôi nhận được.” Y với lấy chiếc cặp hồ sơ, rút ra hai chiếc phong bì, mở một phong bì và lôi ra một tờ giấy trắng có chữ viết ở một mặt và một phong bì nhỏ hơn có kích cỡ của loại giấy mời xin phúc đáp. Y đưa tờ giấy cho Gurney.
“Đây là lá thư đầu tiên tôi nhận được cách đây khoảng ba tuần.”
Gurney nhận tờ giấy rồi ngả lưng vào ghế săm soi. Sự gọn gàng của nét chữ đập vào mắt anh ngay lập tức. Chữ viết được gò tỉ mỉ, tao nhã – làm anh bất chợt nhớ đến nét chữ của chị Mary Joseph lả lướt trên bảng thời tiểu học. Nhưng lạ hơn cả lối viết tỉ mẩn ấy là việc bức thư được viết bằng bút máy và mực đỏ. Mực đỏ ư? Ông của Gurney đã từng dùng mực đỏ. Ông có nhiều lọ tròn đựng mực xanh da trời, mực xanh lá và mực đỏ. Anh không nhớ nhiều về người ông, nhưng lại nhớ màu mực ấy. Người ta vẫn còn mua được mực đỏ cho bút máy ư?
Gurney đọc đi đọc lại bức thư, mày càng lúc càng chau lại. Không có lời chào đầu thư, cả chữ ký cùng không.
Ông có tin vào Định Mệnh không? Tôi tin là có, vì tôi đã tưởng sẽ không bao giờ gặp lại ông nữa – rồi một ngày kia, ông xuất hiện. Tất cả ký ức đều hiện về: cách ông nói chuyện, cách ông đi đứng – và quan trọng nhất vẫn là cách ông suy nghĩ. Nếu có ai bảo ông hãy nghĩ đến một con số, thì tôi sẽ biết con số ông nghĩ là gì. Ông không tin tôi ư? Tôi sẽ chứng minh cho ông thấy. Hãy nghĩ đến con số bất kỳ không quá một nghìn nào – con số đầu tiên mà ông tự nhiên nghĩ ra thôi. Hãy hình dung con số đó. Bây giờ hãy xem tôi biết rõ những bí mật của ông đến dường nào nhé. Mở chiếc phong bì nhỏ ra nào.
Gurney ậm ừ vô định trong họng rồi nhìn Mellery dò hỏi.
Y bấy lâu vẫn chăm chú theo dõi anh đọc thư. “Anh có biết ai gửi thư này cho anh không?”
“Không biết ai hết.”
“Có nghi ngờ ai không?”
“Không hề.”
“Hừm. Anh có chơi trò chơi đó không?”
“Trò chơi ư?” Rõ ràng Mellery không nhìn vấn đề như vậy. “Nếu ý của anh là tôi có nghĩ đến một con số nào không thì câu trả lời là: có, tôi có nghĩ đến một con số. Trong tình huống như vậy mà không muốn nghĩ ra cũng khó.”
“Vậy là anh đã nghĩ đến một con số?”
“Phải.”
“Rồi sao nữa?”
Mellery hắng giọng. “Con số mà tôi nghĩ tới là số 6-5-8”. Y lặp lại con số, phát âm rõ từng chữ số – sáu, năm, tám – như thể ba con số đó có thể gợi cho Gurney điều gì đó. Khi thấy không phải vậy, y hồi hộp buông một tiếng thở dài rồi nói tiếp.
“Con số 658 không có ý nghĩa gì đặc biệt đối với tôi cả. Nó chỉ là con số ngẫu nhiên mà tôi chợt nghĩ đến. Tôi cố vắt óc nghĩ xem có nhớ ra thứ gì đó làm tôi liên tưởng đến số đó không, có nghĩ xem có lý do nào mà tôi lại chọn số đó không, nhưng tôi không nghĩ ra được một thứ nào cả. Chỉ là con số đầu tiên tôi chợt nghĩ đến,” y khăng khăng một cách sốt sắng đầy sợ hãi.
Gurney chăm chú nhìn y, càng lúc càng hứng thú. “Rồi trong chiếc phong bì nhỏ kia…”
Mellery đưa cho anh chiếc phong bì còn lại có kèm lá thư bên trong, chăm chú theo dõi anh mở nó ra, rút ra một mẩu giấy bằng nửa tờ đầu tiên, rồi đọc nội dung trên đó, cũng được viết bằng phong cách tinh tế và màu mực đỏ:
Có phải ông rất sửng sốt khi tôi lại biết ông chọn con số 658 không?
Người nào lại hiểu ông rõ đến thế nhỉ? Nếu muốn biết câu trả lời, trước tiên ông phải trả lại tôi số tiền 289,87 đô tôi đã bỏ ra để tìm được ông.
Gửi đúng số tiền này tới Hộp thư 49449, Wycherly, CT 61010.
Gửi tôi TIỀN MẶT hoặc SÉC CÁ NHÂN.
Trên séc đề tên người nhận là X. Arybdis.
(Đây chưa chắc là tên thật của tôi.)
Sau khi đọc lá thư lần nữa, Gurney hỏi Mellery có hồi âm lá thư không.
“Có. Tôi đã gửi séc có mệnh giá như thư nói.”
“Tại sao chứ?”
“Ý anh là sao?”
“Nhiều tiền như vậy cơ mà. Tại sao anh lại quyết định gửi séc?”
“Bởi vì chuyện này làm tôi điên đầu. Con số ấy – làm cách nào mà hắn biết được chứ?”
“Séc được chuyển chưa?”
“Chưa, thực tế thì chưa,” Mellery nói. “Lâu nay tôi vẫn theo dõi tài khoản mỗi ngày. Vì vậy tôi mới gửi séc thay vì tiền mặt. Lúc đó tôi nghĩ tìm hiểu về cái gã tên Arybdis này có thể là một ý hay – ít ra tôi muốn biết hắn nạp séc vào tài khoản ở đâu. Ý tôi là, giọng điệu trong thư thật khiến người ta phải bất an.”
“Chính xác thì điều gì làm anh bất an?”
“Tất nhiên là con số ấy!” Mellery hét to. “Sao hắn lại biết được con số ấy chứ?”
“Câu hỏi hay lắm,” Gurney nói. “Tại sao anh lại dùng chữ ‘hắn’?”
“Gì cơ? À, tôi hiểu ý anh. Tôi chỉ nghĩ… tôi không biết nữa, tôi chỉ nghĩ vu vơ vậy thôi. Tôi thấy ‘X. Arybdis’ nghe như tên đàn ông kiểu gì đó.”
“X. Arybdis. Một cái tên kỳ lạ,” Gurney nói. “Nó có ý nghĩa gì với anh không? Nghe có quen chút nào không?”
“Không hề.”
Cái tên không có nghĩa gì đối với Gurney, nhưng nó cũng không hoàn toàn lạ lắm. Bất luận cái tên ấy là gì thì nó cũng nằm trong một tủ hồ sơ tận sâu trong tiềm thức của anh.
“Sau khi anh gửi séc, hắn còn liên lạc với anh không?”
“Ồ, còn chứ!” Mellery vừa nói vừa thò tay lần nữa vào chiếc cặp va lôi ra hai tờ giấy khác. “Tôi nhận thư này cách đây khoảng mười ngày. Còn lá này tôi nhận một ngày sau khi gửi email cho anh hỏi chuyện gặp mặt.” Y dúi hai lá thư vào người Gurney như đứa bé cho bố xem hai vết bầm mới.
Lá thư thứ nhất gồm tám dòng ngắn:
Bao nhiêu thiên sứ rạng ngời
Một chân múa nhảy hát lời ngân nga?
Bao nhiêu hy vọng cao xa
Bị dìm chết bởi một ca rượu nồng?
Ông có bao giờ hỏi lòng,
Súng và ly rượu chỉ là một thôi,
Và rồi tự hỏi một mai Chúa ơi,
Con đã làm sai chuyện gì?
8 dòng của lá thư thứ hai cũng bí ẩn và mang tính chất dọa dẫm tương tự:
Ông sẽ trả thứ đã lấy
khi ông nhận được thứ đã cho.
Tôi biết ông nghĩ sao,
chớp mắt khi nào,
đã ở đâu,
sẽ về đâu.
Ông và tôi có hẹn đấy,
Ông 658 ạ.
Suốt mười phút sau, Gurney đọc lại từng lá thư sáu lần. Sắc mặt của Gurney càng u tối hơn và sự âu lo của Mellery càng hiện rõ. “Anh nghĩ sao hả?” Mellery cuối cùng lên tiếng.
“Anh có một kẻ thù rất khôn lanh.”
“Ý tôi là, anh nghĩ sao về chuyện con số?”
“Con số thì sao cơ?”
“Sao hắn lại biết được tôi nghĩ đến con số nào chứ?”
“Nhất thời tôi chỉ có thể nói hắn không thể nào biết được đâu.”
“Hắn không tài nào biết được, nhưng hắn lại biết đấy thôi! Ý tôi là, toàn bộ vấn đề là ở chỗ đó, đúng không nào? Hắn không thể nào biết, nhưng hắn lại biết! Chẳng ai có thể biết được tôi sẽ nghĩ đến con số 658 cả, nhưng hắn không chỉ biết được con số ấy mà còn biết ít nhất hai ngày trước khi tôi biết, là cái ngày hắn gửi đi lá thư khốn kiếp ấy!”
Mellery bất thình lình nhấc người ra khỏi ghế, đi tới đi lui qua đám cỏ về phía căn nhà rồi đi ngược trở lại, hai tay vuốt tóc.
“Chẳng có cách thức khoa học nào mà làm được vậy cả. Tôi chẳng hình dung ra được hắn làm vậy bằng cách nào nữa. Anh không thấy chuyện này điên rồ như thế nào à?”
Gurney đang để cằm trên năm đầu ngón tay, trầm ngâm. “Có một triết lý đơn giản mà tôi thấy đáng tin cậy một trăm phần trăm. Có chuyện xảy ra thì nhất định phải có cách xảy ra. Trò đoán số này nhất định có một lời giải thích đơn giản.”
“Nhưng mà…”
Gurney đưa tay lên như anh chàng cảnh sát giao thông nghiêm nghị ngày nào mới vào việc sáu tháng đầu ở Sở Cảnh sát New York. “Ngồi xuống nào. Thư giãn đi. Tôi chắc chắn chúng ta sẽ tìm được câu trả lời.”