Chương 5 Những Khả Năng Không Hay
Madeleine mang hai ly trà đá cho hai người rồi trở vào nhà. Mùi cỏ ấm tràn ngập không khí. Nhiệt độ gần 21 độ c. Một bầy sẻ lông tím đáp xuống chỗ những chiếc cóng thức ăn chứa hạt kê. Ánh nắng, sắc màu, hương thơm đều gay gắt nhưng đối với Mellery chẳng có ý nghĩa gì, vì những ý nghĩ lo âu dường như xâm chiếm y hoàn toàn.
Khi hai người nhấp trà, Gurney cố gắng đánh giá động cơ và sự thành thật của vị khách này. Anh biết rằng quy chụp ai quá sớm trong cuộc chơi có thể dẫn đến sai lầm, nhưng khó mà cưỡng lại được hành vi đó. Quan trọng là anh nhận thức được việc chụp mũ có thể sai và sẵn sàng sửa chữa cái mũ chụp ấy khi có thông tin mới.
Anh có cảm giác Mellery là một kẻ lừa lọc kinh điển rất biết vào vai ở nhiều cấp độ, một kẻ ít nhiều tin cả những lời lừa lọc của mình. Giọng của y chẳng hạn, từ thời đại học đã như vậy, một giọng không gốc gác đến từ một nơi của văn hóa và nho nhã chỉ có trong trí tưởng tượng. Chắc chắn cái giọng ấy y không cần phải giả nữa – nó là một phần không thể thiếu trong con người y – nhưng rễ của nó nằm trong thứ đất ảo. Kiểu tóc đắt tiền, làn da được dưỡng ẩm, hàm răng hoàn mỹ, thể trạng được rèn luyện, móng tay được gọt giũa, tất cả đều khiến người khác phải liên tưởng đến một nhà thuyết giáo ngoại hạng trên truyền hình. Phong thái của y là phong thái của một người háo hức muốn tỏ vẻ thư thả trên đời, của một người sở hữu mọi thứ sành điệu mà không người bình thường nào có thể có được. Gurney nhận thấy tất cả những đặc điểm này đã hiện diện ở dạng trứng nước cách đây hai mươi sáu năm rồi. Chẳng qua giờ đây nó trở nên đậm nét hơn so với con người bấy lâu của Mark Mellery.
“Anh có bao giờ nghĩ đến chuyện báo cảnh sát chưa?” Gurney hỏi.
“Tôi nghĩ làm vậy chẳng ích lợi gì cả. Tôi nghĩ có báo thì họ cũng chẳng làm gì. Họ có thể làm gì được nào? Chẳng có lời đe dọa cụ thể nào, chẳng có thứ gì mà không thể phân trần, chẳng có tội ác thật sự nào cả. Tôi không có thứ gì cụ thể để mang đến cảnh sát cả. Một vài bài thơ ngắn độc địa ư? Một thằng nhóc trung học quái gở nào đó cũng có thể viết mấy bài thơ đó vậy, ai đó có một đầu óc hài hước lập dị chẳng hạn. Nếu cảnh sát chẳng làm gì coi được, hay tệ hơn nữa là xem đây như trò đùa, thì tại sao tôi phải phí thời gian đi gặp họ?”
Gurney gật đầu nhưng không bị thuyết phục.
“Vả lại,” Mellery nói tiếp, “nghĩ tới cảnh tượng cảnh sát địa phương phụ trách chuyện này rồi phát động một cuộc điều tra toàn diện, chất vấn người này người kia, đi đến viện của tôi, quấy rối khách cũ lẫn khách mới – một vài khách lại khá nhạy cảm – giậm chân khắp nơi và gây ra bao chuyện quái quỷ, chõ mũi vào những thứ không phải việc của họ, lôi cả báo chí vào cuộc nữa cũng nên… Chúa ơi! Tôi có thể hình dung ra mấy cái tít báo như ‘Tác giả về tâm linh bị dọa giết’. Rồi sẽ xảy ra hỗn loạn…” Giọng Mellery lịm dần, và y lắc đầu như thể dùng từ ngữ thôi thì không đủ để mô tả những thiệt hại mà cánh cảnh sát có thể gây ra.
Gurney đáp lại bằng một cái nhìn hết sức ngơ ngác.
“Chuyện gì vậy?” Mellery hỏi.
“Hai lý do anh đưa ra cho việc không báo cảnh sát mâu thuẫn với nhau.”
“Mâu thuẫn thế nào cơ?”
“Anh không liên lạc với cảnh sát vì sợ họ không làm gì cả. Và anh không liên lạc họ vì sợ họ sẽ làm quá nhiều.”
“À, phải… nhưng cả hai lý do ấy đều đúng mà. Nhân tố chung ở đây là tôi sợ vấn đề không được giải quyết khôn khéo. Sự kém cỏi của cảnh sát có thể thể hiện qua việc tiếp cận vấn đề qua loa hoặc giải quyết vấn đề vụng về theo kiểu ‘lơ ngơ như bò đeo nơ’. Lờ phờ cũng dở mà hùng hổ cũng dở – anh hiểu ý tôi nói chứ?”
Gurney có cảm giác anh đang chứng kiến một người vấp chân và biến cú vấp thành một cú xoay tròn một chân. Anh không hoàn toàn tin vào những gì Mellery nói. Theo kinh nghiệm của anh, khi một gã đàn ông đưa ra hai lý do cho một quyết định, có khả năng là lý do thứ ba – lý do thật sự – đã bị lờ đi không nói.
Như thể bắt đúng tần sóng suy nghĩ của Gurney, Mellery bỗng nói, “Tôi cần phải thành thật với anh hơn, nên cởi mở với anh hơn về những mối lo của mình. Tôi không thể mong anh giúp tôi nếu chưa cho anh xem bức tranh toàn cảnh. Trong bốn mươi bảy năm cuộc đời của mình, tôi đã sống hai cuộc sống khác biệt nhau hoàn toàn. Trong hai phần ba thời gian tồn tại trên cõi đời này, tôi đã lầm đường lỡ bước, chẳng đi đến nơi nào tốt nhưng lại đến đó nhanh.
“Chuyện bắt đầu từ thời đại học. Sau đại học tình hình càng tồi tệ hơn. Tôi chè chén nhiều hơn, cuộc sống rối loạn hơn. Tôi dính líu đến việc buôn ma túy cho khách hạng sang rồi kết giao với khách. Có một ông khách ấn tượng với tài buôn hàng nhảm nhí của tôi đến mức cho tôi một công việc thực sự ở phố Wall, chuyên bán mấy thứ cổ phiếu nhảm nhí qua điện thoại cho tay nào vừa tham vừa ngu đến độ tin rằng gấp đôi số tiền đầu tư trong ba tháng là khả năng có thật. Tôi giỏi làm ba chuyện đó, và tôi kiếm được rất nhiều tiền, và những đồng tiền đó là nhiên liệu tên lửa thúc đẩy sự điên rồ của tôi. Tôi thích thứ gì là làm thứ đó, và đa số những gì mình làm tôi đều không nhớ vì hầu như lúc nào tôi cũng say bí tỉ cả.
“Suốt mười năm tôi đã làm việc cho rất nhiều tên khốn khôn lanh, đầu trộm đuôi cướp, hết tên này đến tên khác. Rồi vợ tôi chết. Chắc anh chưa biết chuyện tôi kết hôn sau một năm ra trường đâu.”
Mellery với lấy ly nước. Y uống một cách trầm ngâm, như thể vị của nước là một ý tưởng đang hình thành trong đầu y.
Khi ly nước vơi đi một nửa, y đặt ly trên tay ghế, mắt dán vào ly, trong phút chốc, rồi tiếp tục câu chuyện, “Cái chết của cô ấy là một sự kiện đáng ghi nhớ trong đời. Nó có tác động rất lớn đối với tôi, lớn hơn so với tất cả các sự kiện trong mười lăm năm chung sống của chúng tôi gộp lại. Tôi không muốn thừa nhận điều này, nhưng qua cái chết của vợ mình tôi mới thấy được sự sống của cô ấy có ảnh hưởng thực sự đối với tôi.”
Gurney có cảm tưởng câu chuyện mỉa mai gọn ghẽ này, được kể ngập ngừng như vừa mới nghĩ ra, đang được kể lại lần thứ một trăm. “Cô ấy chết như thế nào?”
“Toàn bộ câu chuyện có trong cuốn sách đầu tay của tôi, nhưng tôi sẽ kể phiên bản ngắn gọn và xấu xí hơn. Khi ấy chúng tôi đang đi nghỉ trên bán đảo Olympic ở Washington. Một chiều hoàng hôn, chúng tôi đang ngồi trên bãi biển vắng bóng người. Erin quyết định ra biển bơi. Thường thì cô ấy ra xa khoảng ba mươi mét rồi bơi ra bơi vào dọc bờ, giống như bơi nhiều vòng trong hồ bơi vậy. Cô ấy siêng năng vận động lắm.” Y ngừng lời, để cho hai mắt lờ đờ nhắm lại.
“Có phải đêm đó cô ấy cũng làm vậy không?”
“Sao cơ?”
“Anh nói là cô ấy thường làm như vậy mà.”
“À, tôi hiểu rồi. Phải, tôi nghĩ cô ấy đã làm như vậy đêm hôm đó. Thực sự thì tôi cũng không chắc lắm vì lúc đó tôi đang say. Erin đi xuống nước, tôi ở trên bờ cùng phích martini của mình.” Khóe mắt trái của y giật lên.
“Erin chết đuối. Những người phát hiện xác cô ấy nổi lên ở vùng nước cách bờ mười lăm mét cũng phát hiện thấy tôi nằm say khướt trên bãi biển.”
Ngừng một lát, y nói tiếp bằng giọng căng thẳng, “Tôi nghĩ cô ấy bị chuột rút hoặc là… tôi không biết nữa… nhưng tôi nghĩ… chắc cô ấy có kêu cứu với tôi… ” Y ngưng bặt, nhắm mắt lần nữa, rồi xoa bóp chỗ giật ở mắt. Khi mở mắt ra, y nhìn quanh như đang thu vào tầm mắt khung cảnh xung quanh mới gặp lần đầu.
“Nơi anh ở thật là đáng yêu,” y nói kèm một nụ cười buồn bã.
“Anh nói cái chết của vợ anh có một tác động mạnh mẽ tới anh ư?”
“Ồ, phải, một tác động mạnh mẽ.”
“Ngay lúc đó hay một thời gian sau?”
“Ngay lúc đó. Nghe sáo rỗng thật nhưng tôi đã trải qua giây phút ‘nhìn thấu mọi chuyện’. Nó đớn đau hơn, làm tôi ngộ ra nhiều điều hơn bất kỳ trải nghiệm nào trước và sau sự kiện đó. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy một cách sống động con đường tôi đang đi và thấy được nó đã hủy hoại tôi kinh khủng đến nhường nào. Tôi không muốn ví mình như Paul bị té ngựa trên đường tới Damascus, nhưng sự thật là, từ khoảnh khắc đó trở đi tôi không còn muốn tiến thêm bước nào trên con đường đó nữa.” Y nói những lời này bằng một niềm tin vang dội.
Y có thể dạy một lớp kinh doanh có tên ‘Niềm tin vang dội’ đây, Gurney trầm ngâm.
“Tôi đăng ký vào một cơ sở cai rượu vì cảm thấy đây là chuyện cần làm. Sau cai nghiện tôi đi trị liệu. Tôi muốn chắc chắn rằng mình đã tìm ra chân lý chứ không phải bị mất trí. Chuyên gia trị liệu động viên tôi rất nhiều. Cuối cùng tôi trở lại trường và lấy hai bằng thạc sĩ, một bằng tâm lý học và một bằng tư vấn tâm lý. Có người bạn cùng lớp làm mục sư nhà thờ phái Nhất Thể mời tôi đến thuyết giảng về việc tôi ‘cải đạo’ – đó là chữ anh ta dùng, không phải của tôi. Buổi thuyết giảng thành công. Từ đó phát sinh ra một loạt các bài giảng khác mà tôi giảng ở chục các nhà thờ Nhất Thể khác, và những bài giảng này hợp thành cuốn sách đầu tay của tôi. Cuốn sách trở thành cơ sở cho một chương trình gồm ba phần phát trên kênh PBS. Sau đó chương trình này được phân phối dưới dạng video nhiều tập.
“Nhiều chuyện tương tự đã xảy ra – một dòng sự kiện trùng hợp mang tôi từ chuyện tốt lành này sang chuyện tốt lành khác. Tôi được mời thuyết giảng trong một loạt các hội thảo riêng dành cho một nhóm người phi thường – phi thường cả về mặt tiền của nữa. Từ đó dẫn đến việc thành lập Viện Đổi mới Tâm linh Mellery. Những ai đi đến đó đều thích những gì tôi làm. Tôi biết nói thế nghe có vẻ tự cao tự đại, nhưng sự thật là như vậy. Tôi có nhiều khách trở lại viện năm này sang năm khác chỉ để nghe lại những bài thuyết giảng mới người cũ ta, để thực hành các bài tập tâm linh cũ mèm. Tôi ngại phải nói ra điều này, vì nghe có vẻ kiêu căng quá, nhưng nhờ cái chết của Erin mà tôi đã tái sinh vào một cuộc sống mới rất tuyệt vời.”
Mắt y di chuyển không yên, khiến người khác có cảm tưởng y đang tập trung vào một cảnh tượng thầm kín nào đó. Madeleine ra ngoài nhà, lấy đi hai chiếc ly đã cạn, rồi hỏi hai người có muốn uống thêm không nhưng không ai muốn. Mellery lại khen ngợi căn nhà của hai vợ chồng mới đáng yêu làm sao.
“Khi nãy anh nói anh muốn thành thật hơn với tôi về những mối lo của mình mà,” Gurney nhắc.
“Phải. Nó có liên quan đến những năm tháng bê tha rượu chè của tôi. Tôi từng là một tên bợm rượu thường xuyên uống đến bất tỉnh. Nhiều lần tôi say đến mất trí nhớ nghiêm trọng – có lúc kéo dài một hai giờ đồng hồ, có lúc lâu hơn. Trong những năm cuối, mỗi lần uống là mỗi lần tôi say đến mất trí nhớ. Biết bao nhiêu thời gian, bao nhiêu chuyện tôi đã làm mà chẳng nhớ được gì. Khi say, tôi chẳng kén chọn mình đi chung với ai hay làm gì. Thẳng thắn mà nói, những chỗ đề cập đến rượu trong mấy lá thư độc địa tôi đưa anh xem là lý do tại sao tôi lại thấy bất an đến thế. Tâm trạng của tôi vài ngày gần đây luôn chuyển qua chuyển lại giữa bất an và hãi hùng.”
Mặc dù hoài nghi nhưng Gurney vẫn bị cuốn hút vào thứ gì đó xác thực trong giọng của Mellery. “Anh kể tiếp đi,” anh nói.
Suốt nửa giờ sau, rõ ràng không còn bao nhiêu thứ để Mellery có thể kể hay sẵn lòng kể. Tuy nhiên, y lại trở lại vấn đề đã ám ảnh y.
“Nhân danh Chúa, làm sao hắn lại biết được con số tôi sẽ nghĩ là gì cơ chứ? Tôi đã rà soát tâm trí mình xem có người nào tôi quen, nơi nào tôi đến, địa chỉ, mã bưu điện, số điện thoại, ngày tháng, sinh nhật, biển số xe, giá cả nữa – bất cứ thứ gì có số – mà chẳng có thứ gì làm tôi liên tưởng được tới con số 658 cả. Tôi muốn điên lên đây!”
“Có lẽ sẽ hay hơn nếu ta tập trung vào những câu hỏi đơn giản hơn. Chẳng hạn như…”
Nhưng Mellery không nghe anh nói. “Tôi không có cảm giác con số 658 có ý nghĩa gì cả. Nhưng nhất định nó phải có ý nghĩa gì đó. Ý nghĩa đó là gì cũng được, quan trọng là có người biết. Ai đó biết con số 658 có ý nghĩa đối với tôi nên tôi mới nghĩ đến nó đầu tiên. Tôi không tài nào lý giải được. Đúng là ác mộng!”
Gurney ngồi im lặng chờ cơn hoảng loạn của Mellery lắng xuống.
“Có nói đến chuyện rượu chè trong thư nghĩa là người đó có biết tôi vào cái thời bê tha ấy. Nếu hắn có ác cảm gì với tôi – mà nghe có vẻ là vậy thật – thì hắn đã nung nấu nó một thời gian dài rồi. Có thể là một người đã mất dấu tôi, không biết tôi ở đâu rồi thấy một trong hai cuốn sách của tôi, thấy ảnh tôi, đọc thông tin gì đó về tôi, rồi quyết định… quyết định làm gì cơ? Tôi cũng chẳng biết những bức thư này nói gì nữa.”
Gurney vẫn không nói gì.
“Anh có biết được cảm giác đã trải một trăm đêm, thậm chí là hai trăm đêm trong đời mà không nhớ ra được đêm nào không?” Mellery lắc đầu kinh ngạc trước sự bạt mạng của chính mình. “Thứ duy nhất tôi biết chắc về những đêm đó là tôi đã say xỉn và điên dại đến nỗi chuyện gì cũng làm. Dính tới rượu chè là như vậy đó – khi anh uống nhiều như tôi, rượu sẽ tước lấy tất cả nỗi sợ về hậu quả. Nhận thức của anh méo mó, khả năng tự chủ biến mất, trí nhớ tắt lịm, và anh sống bằng sự bốc đồng – bằng bản năng không bị ràng buộc.” Y bỗng im bặt, lắc đầu.
“Anh nghĩ có thể mình đã làm gì trong những lúc say xỉn đến mất trí nhớ như vậy?”
Mellery nhìn anh chằm chằm. “Thứ gì cũng làm! Chúa ơi, vấn đề là ở chỗ đó – thứ gì cũng làm cả.”
Gurney nghĩ, trông y như một người vừa phát hiện ra thiên đường nhiệt đới trong mơ mà mình đã bỏ từng cắc bạc ra đầu tư đang tràn ngập lũ bọ cạp phá hoại.
“Anh muốn tôi làm gì cho anh nào?”
“Tôi không biết nữa. Có lẽ tôi hy vọng được nghe một lời suy luận kiểu Sherlock Holmes, hy vọng thấy bí ẩn được giải đáp, hy vọng kẻ viết thư được nhận dạng và mất khả năng gây hại.”
“Anh biết rõ tình huống này hơn tôi nên phán đoán sẽ chính xác hơn chứ.”
Mellery lắc đầu. Rồi một niềm hy vọng mong manh làm mắt y mở rộng ra. “Liệu đây có phải là trò chơi khăm không?”
“Nếu phải thì trò này độc địa hơn đa số những trò khác,” Gurney đáp. “Anh còn nghĩ được gì khác nữa?”
“Tống tiền chăng? Kẻ viết thư biết bí mật gì đó khủng khiếp, một thứ tôi không nhớ được chăng? Còn món tiền 289,87 đô chỉ là yêu sách ban đầu thôi?”
Gurney gật đầu một cách vô thưởng vô phạt. “Còn khả năng nào khác không?”
“Trả thù chăng? Trả thù chuyện gì đó khủng khiếp tôi đã làm, nhưng bọn chúng không muốn tiền, bọn chúng muốn…” Giọng y lịm dần một cách thảm hại.
“Và anh không nhớ được chuyện cụ thể nào đã từng làm có thể lý giải cho những trò này ư?”
“Đúng vậy. Tôi nói với anh rồi. Tôi chẳng nhớ được thứ gì.”
“Được rồi, tôi tin anh. Nhưng theo tình hình này, có lẽ ta nên xem xét một vài câu hỏi đơn giản. Tôi hỏi câu nào thì anh ghi lại câu ấy nhé, xong đem những câu này về nhà, bỏ ra 24 tiếng nghiền ngẫm xem anh nghĩ ra được gì nào.”
Mellery mở chiếc cặp trang nhã rút ra một cuốn tập nhỏ bằng da và một cây bút hiệu Montblanc.
“Tôi muốn anh lập ra một vài danh sách riêng lẻ, bằng hết sức của mình, được chứ? Danh sách thứ nhất: các đối thủ tiềm năng trên thương trường – những người đã từng bất đồng sâu sắc với anh về tiền bạc, hợp đồng, giao kèo, chức vụ, danh tiếng. Danh sách thứ hai: những xung đột cá nhân chưa giải quyết – bạn cũ, người yêu cũ, những mối tình kết thúc không ra gì. Danh sách thứ ba: những cá nhân có ý dọa dẫm trực tiếp – những người đã từng tố cáo anh hay dọa nạt anh. Danh sách thứ tư: những cá nhân bất ổn định – những người bị mất thăng bằng hay bị bất ổn về mặt nào đó. Danh sách thứ năm: những người anh từng quen lúc trước mà gần đây mới gặp lại, bất luận những cuộc gặp đó tưởng như tình cờ hay vô hại đến đâu đi nữa. Danh sách thứ sáu: bất kỳ mối quan hệ nào của anh với ai sống ở Wycherly hoặc quanh vùng này – vì đây là nơi có hộp thư bưu điện của kẻ tên X. Arybdis này, và là nơi được đóng dấu trên tất cả các phong bì anh nhận được.”
Vừa đọc câu hỏi, anh vừa quan sát thấy Mellery lắc đầu liên tục như muốn khẳng định rằng không thể nhớ lại bất kỳ cái tên nào có liên quan.
“Tôi biết làm như vậy cũng khó,” Gurney nói bằng giọng cương quyết của một bậc phụ huynh, “nhưng cần phải làm vậy. Trong khi đó hãy để lại những lá thư này ở chỗ tôi. Tôi sẽ xem kỹ hơn. Nhưng nhớ là tôi không làm trong ngành thám tử tư nên có thể chẳng giúp anh được bao nhiêu đâu.”
Mellery vô vọng nhìn hai bàn tay. “Ngoài việc lập ra mớ danh sách này, tôi phải làm gì khác nữa?”
“Hỏi hay lắm. Anh nghĩ được thứ gì không?”
“Ờ… có lẽ nếu anh chỉ dẫn một chút thì tôi có thể lần ra dấu vết của người tên Arybdis ở Wycherly, bang Connecticut, cố tìm ra chút thông tin về hắn.”
“Nếu ý anh là ‘lần ra dấu vết’ qua địa chỉ nhà hắn thay vì số hộp thư, thì bưu điện sẽ không cho anh địa chỉ đó đâu. Nếu muốn vậy anh phải lôi cảnh sát vào cuộc, nhưng anh lại không muốn như vậy mà. Anh có thể kiểm tra Những Trang Trắng trên Internet nhưng anh cũng chẳng đi đến đâu với một cái tên hư cấu – mà có khả năng đó, vì hắn nói trong thư là cái tên này không phải cái tên mà anh biết.” Gurney ngừng một chập. “Nhưng cái vụ gửi séc ấy thật kỳ lạ, anh có thấy vậy không?”
“Ý anh là số tiền ghi trên đó ư?”
“Ý tôi là, lạ ở chỗ séc chưa được đổi ra tiền. Tại sao lại quan trọng hóa tấm séc với những yêu cầu như – số tiền cụ thể này, phải gửi cho ai này, phải gửi đến đâu này – rồi sau đó lại không đổi séc ra tiền chứ?”
“Ờ, giả dụ Arybdis là tên giả, và hắn không có chứng minh thư mang tên đó…”
“Vậy tại sao lại đưa ra lựa chọn gửi séc kia chứ? Tại sao không đòi tiền mặt?”
Mắt Mellery lướt qua mặt đất như thể các khả năng xảy ra là những quả địa lôi. “Có lẽ thứ hắn cần là thứ gì đó có chữ ký của tôi trên đó.”
“Tôi cũng đã nghĩ như vậy,” Gurney nói, “nhưng có hai vấn đề. Thứ nhất, nhớ rằng hắn cũng sẵn sàng nhận tiền mặt. Thứ hai, nếu mục đích thực sự là lấy được tấm séc có chữ ký thì tại sao lại không đòi hỏi số tiền nhỏ hơn chứ – hai mươi hoặc thậm chí là năm mươi đô-la chẳng hạn? Làm như vậy chẳng phải sẽ tăng xác suất nhận được hồi đáp sao?”
“Có lẽ Arybdis không khôn lanh như vậy.”
“Tôi không nghĩ vấn đề nằm ở đó.”
Trông Mellery lúc này như thể sự kiệt quệ và lo âu đang so tài ngang ngửa nhau trong từng tế bào của cơ thể. “Anh có nghĩ tôi đang đứng trước nguy hiểm thật sự không?”
Gurney nhún vai. “Đa số thư nặc danh nào cũng như nhau. Có thể nói chính cái nội dung ghê sợ trong đó đã là vũ khí tấn công rồi. Tuy nhiên…”
“Tuy nhiên mấy lá này lại khác ư?”
“Mấy lá này có thể khác.”
Mellery trố mắt ra. “Tôi hiểu rồi. Anh sẽ xem lại những lá thư này chứ?”
“Phải. Còn anh sẽ bắt đầu lập những danh sách đó chứ?”
“Chẳng có ích lợi gì hết, nhưng được thôi, tôi sẽ thử.”