← Quay lại trang sách

Chương 11 Bộ Sậu Có Một Không Hai

Từ khu vực để xe, Gurney men theo đường mòn tráng đá cuội đi vòng quanh tòa lâu đài phong cách George, nơi anh đoán sẽ được sử dụng làm phòng hành chính và giảng đường chính của viện, đến một căn nhà phong cách George nhỏ hơn nằm sau tòa lâu đài khoảng một trăm năm mươi mét. Một biển hiệu nhỏ bên đường có ghi dòng chữ bằng vàng: TƯ DINH.

Mark Mellery mở cửa trước khi Gurney gõ. Y mặc cùng loại y phục thường ngày nhưng không hề rẻ tiền như đã mặc trong chuyến viếng thăm Walnut Crossing. Trên nền kiến trúc và cảnh trí của viện, bộ y phục cho y vẻ hào quang của một điền chủ.

“Gặp anh thật hay quá, Davey!”

Gurney bước vào lối hành lang rộng rãi, sàn màu hạt dẻ, được trang hoàng nhiều cổ vật, rồi theo Mellery đến một phòng làm việc tiện nghi nằm phía sau căn nhà. Ngọn lửa tí tách trong lò sưởi tỏa khắp phòng mùi hương thoang thoảng của khói anh đào.

Hai chiếc ghế bành lưng cao đứng đối điện nhau ở hai bên lò sưởi và, cùng với chiếc sô-pha đối diện nền lò, tạo thành một nơi ngồi nghỉ hình chữ u. Khi cả hai đều yên vị trong ghế, Mellery hỏi anh tìm đường quanh trang viên của y có khó không. Gurney nhớ lại ba cuộc trò chuyện lạ lùng vừa gặp, và Mellery giải thích rằng ba người ấy là khách của viện và hành vi của họ nằm trong liệu pháp tự khám phá bản thân của mỗi người.

“Trong thời gian nghỉ tại đây,” Mellery giải thích, “mỗi vị khách đều diễn mười vai khác nhau. Có ngày họ vào vai Người Nhầm Lẫn – có vẻ là vai diễn của Worth Partridge, người đàn ông Anh, anh đã đến bắt chuyện đấy. Có ngày họ làm Hướng Dẫn Viên – đó là vai diễn của Sarah, người muốn đậu xe hộ anh. Một vai khác nữa là Người Đối Chọi. Người phụ nữ cuối cùng mà anh gặp nghe như đang đóng vai ấy một cách thích thú hơn ai hết.”

“Mục đích là gì?”

Mellery mỉm cười. “Con người đóng những vai trò nhất định trong cuộc sống của họ. Nội dung của những vai diễn đó – anh có thể gọi là kịch bản nếu muốn – đều ổn định và đoán trước được hết, dù rằng chúng thường vô thức và ít khi khiến ai nghĩ đến vấn đề lựa chọn vai.” Anh bắt đầu hứng thú với đề tài y đang nói, dù rằng chắc hẳn y đã giải thích như thế hàng trăm lần rồi. “Những gì chúng tôi làm ở đây rất đơn giản mặc dù nhiều khách lại cho rằng nó uyên thâm lắm. Chúng tôi làm cho họ ý thức được những vai diễn của họ trong vô thức, ích lợi và cái giá phải trả cho những vai diễn đó cũng như tác động của chúng đối với người khác. Khi khách thấy được những kiểu mẫu hành vi của mình rõ như ban ngày rồi, lúc ấy chúng tôi mới giúp họ hiểu ra rằng mỗi kiểu mẫu đều là một lựa chọn cả. Họ có thể tiếp tục hoặc chấm dứt nó. Sau đó – đây là phần quan trọng nhất – chúng tôi cung cấp cho họ một chương trình hành động để thay thế những kiểu mẫu có hại bằng những kiểu mẫu lành mạnh hơn.”

Gurney để ý thấy Mellery càng nói, sự lo âu của y càng thuyên giảm. Đề tài này đã đem lại ánh sáng phúc âm rạng ngời trong đôi mắt y.

“Còn nữa, mấy thứ này chắc anh nghe thấy quen lắm. Kiểu mẫu, lựa chọn và thay đổi là ba từ bị lạm dụng nhiều nhất trong thế giới những bài học tu thân vốn đã rất lôi thôi này. Nhưng khách nói với chúng tôi rằng những gì chúng tôi làm ở đây rất khác – mấu chốt ở đây là khác biệt. Mới hôm vừa rồi, một khách đã nói với tôi, ‘Đây là nơi hoàn hảo nhất trên đời.”

Gurney cố không để hoài nghi bộc lộ trong lời nói. “Trải nghiệm mang tính liệu pháp mà anh cung cấp hẳn có tác dụng rất mạnh mẽ.”

“Một vài người thấy vậy đấy.”

“Tôi nghe nói vài liệu pháp có tác dụng mạnh mẽ thường mang tính đối chọi cao.”

“Ở đây thì không,” Mellery nói. “Phương pháp tiếp cận của chúng tôi mang tính mềm mỏng và hiếu khách. Đại từ ưa thích nhất của chúng tôi là chúng ta, chứ không phải các bạn. Chúng tôi nói về những thiếu sót, những nỗi sợ, những hạn chế của chúng ta. Chúng tôi chưa bao giờ chỉ vào mặt ai mà kết tội người đó cả. Chúng tôi tin rằng những lời buộc tội sẽ có xu hướng củng cố bức tường của sự phủ nhận hơn là phá sập nó. Xem qua một trong những cuốn sách của tôi, anh sẽ hiểu triết lý này rõ hơn.”

“Tôi chỉ nghĩ một số việc thỉnh thoảng xảy ra ở đây có thể không thuộc cái triết lý ấy.”

“Chúng tôi nói sao làm vậy mà.”

“Không có đối chọi gì cả sao?”

“Sao anh cứ lặp đi lặp lại điểm ấy vậy?”

“Tôi đang thắc mắc không biết anh có bao giờ chơi ai đó một cú nặng đến mức khiến họ muốn chơi lại anh chưa.”

“Phương pháp của chúng tôi ít khi làm ai giận dữ lắm. Hơn nữa, bạn tâm thư của tôi là ai đi nữa thì hắn cũng thuộc về cái quá khứ rất xa so với thời điểm viện này ra đời.”

“Có lẽ vậy thật, nhưng cũng có lẽ không.”

Một cái chau mày ngơ ngác hiện trên khuôn mặt Mellery. “Hắn tập trung vào những ngày chè chén của tôi, vào chuyện nào đó mà tôi đã làm trong men rượu, vì vậy nó phải xảy ra trước khi tôi lập ra cái viện này.”

“Mặt khác, cũng có thể người nào đó khăng khít với anh ở hiện tại, đọc sách anh viết, biết được chuyện bù khú của anh, muốn làm anh sợ thì sao.”

Khi ánh mắt của Mellery tản mác qua một chuỗi các khả năng mới nảy sinh thì một phụ nữ trẻ bước vào phòng. Cô có đôi mắt xanh lục thông minh và mái tóc đỏ chải ngược kiểu đuôi ngựa.

“Xin lỗi đã ngắt lời ông. Tôi nghĩ ông nên xem những lời nhắn này.”

Cô trao cho Mellery một chồng nhỏ những lời nhắn viết trên giấy hồng, vẻ mặt ngạc nhiên của y cho Gurney cảm giác là chẳng mấy khi y bị ngắt ngang như thế.

“Ít nhất,” cô nói, mày chau lại rất dữ, “ông cũng nên xem lời nhắn trên cùng.”

Mellery đọc hai lần, rồi nghiêng người về phía trước, trao mẩu lời nhắn cho Gurney bên kia bàn. Gurney cũng đọc hai lần. Ở dòng ‘Gửi tới’ có ghi: Ông Mellery.

Ở dòng ‘Người gửi’ có ghi: X. Arybdis.

Ở phần dành cho ‘Nội dung’ là những vần thơ sau:

Trong số tất cả những sự thật mà ông không thể nhớ,

đây là hai điều thật nhất:

Mỗi hành động đều đòi hỏi cái giá của nó.

Và mỗi cái giá đều sẽ đến hạn trả.

Tối nay tôi sẽ gọi để hứa với ông,

tôi sẽ gặp ông vào tháng Mười một,

còn không thì là tháng Mười hai.

Gurney hỏi người phụ nữ trẻ có phải cô tận tay nhận lời nhắn không. Cô liếc nhìn Mellery.

Y nói, “Tôi xin lỗi, lẽ ra tôi phải giới thiệu với cô. Sue, đây là người bạn thân cũ của tôi, Dave Gurney. Dave, hãy gặp trợ lý cừ khôi của tôi, Susan MacNeil.”

“Hân hạnh được gặp cô, Susan.”

Cô mỉm cười nhã nhặn rồi nói, “Phải, tôi là người nhận lời nhắn.”

“Đàn ông hay phụ nữ nhắn?”

Cô ngập ngừng. “Anh hỏi phải lắm. Ấn tượng đầu tiên của tôi là giọng đàn ông. Giọng nam cao lắm cơ. Rồi tôi lại không chắc. Cái giọng ấy đổi.”

“Đổi như thế nào?”

“Lúc đầu nghe như là đàn ông giả giọng phụ nữ ấy. Rồi tôi lại thấy giống phụ nữ giả giọng đàn ông. Cái giọng ấy có gì đó không tự nhiên ấy, gì đó rất gượng gạo.”

“Thú vị đây,” Gurney nói. “Còn nữa – cô có viết lại tất cả những gì người này nói không?”

Cô ngập ngừng. “Tôi không hiểu ý anh lắm.”

“Tôi cảm thấy,” anh giơ mẩu giấy hồng lên nói, “có vẻ như lời nhắn này được đọc chính tả tỉ mỉ cho cô ghi, ngay cả những chỗ ngắt dòng.”

“Đúng vậy.”

“Vậy chắc hắn đã nói với cô rằng thứ tự sắp xếp của từng dòng rất quan trọng, và bảo rằng hắn đọc sao thì cô phải viết chính xác như thế.”

“Ồ, tôi hiểu rồi. Phải, đúng là ông ta có bảo tôi xuống dòng chỗ nào.”

“Còn chuyện nào khác có nói mà không được ghi lại đây không?”

“Ờ… có, ông ta có nói một chuyện khác nữa. Trước khi cúp máy, ông ta hỏi tôi có làm việc trực tiếp cho ông Mellery ở viện này không. Tôi nói có. Rồi ông ấy nói, ‘Cô nên xem những cơ hội nghề nghiệp mới. Tôi nghe nói Đổi mới Tâm linh là một ngành đang hấp hối đấy.’ Ông ta cười phá lên. Hình như ông ta thấy chuyện này vui lắm thì phải. Rồi ông ta bảo tôi nhất thiết phải cho ông Mellery đọc lời nhắn ngay lập tức. Nên tôi mới mang lời nhắn từ văn phòng sang đây.” Cô bắn một cái nhìn lo lắng về phía Mellery. “Hy vọng tôi làm vậy là đúng.”

“Nhất định rồi,” Mellery nói, cố lấy giọng như thể đang kiểm soát được tình hình.

“Cô Susan, tôi để ý thấy cô dùng chữ ‘ông ta’ để chỉ người gọi,” Gurney nói. “Phải chăng điều đó có nghĩa cô khá chắc đó là đàn ông?”

“Tôi nghĩ vậy.”

“Hắn có nói bóng gió gì về thời gian gọi tối nay không?”

“Không có.”

“Cô còn nhớ được thứ gì khác không, bất kể là thứ gì, dù nhỏ nhặt đến mấy?”

Mày cô nhíu lại một chút. “Tôi có cảm giác sởn gáy thế nào ấy – có cảm giác ông ta không tử tế lắm.”

“Nghe giọng hắn bực dọc ư? Hùng hổ? Dọa dẫm?”

“Không, không phải vậy. Ông ta lịch sự lắm, nhưng…”

Gurney chờ cô tìm kiếm ngôn từ thích hợp.

“Có thể là do ông ta quá lịch sự. Có thể là cái giọng lạ lùng ấy. Tôi không nói chắc được điều gì đã cho tôi cảm giác đó. Ông ta làm tôi sợ.”

Sau khi cô rời khỏi phòng, trở về văn phòng trong khu nhà chính, Mellery nhìn trân trân xuống nền nhà giữa hai chân.

“Đến lúc đi báo cảnh sát rồi đấy,” Gurney chọn lựa giây phút này để nêu ra quan điểm.

“Cảnh sát Peony ư? Chúa ơi, nghe như là tiết mục tạp kỹ đồng tính vậy.”

Gurney lờ đi nỗ lực pha trò yếu ớt ấy. “Chúng ta không phải chỉ đối phó với vài ba bức thư nặc danh và một cú điện thoại đâu. Chúng ta đang đối phó với một kẻ hận anh, muốn trả đũa anh. Anh đang trong tầm ngắm của hắn, và có lẽ hắn sắp bóp cò rồi.”

“X. Arybdis ư?”

“Đúng hơn có lẽ là kẻ sáng chế ra bí danh X. Arybdis.”

Gurney bèn kể cho Mellery những gì anh nhớ ra, với sự giúp đỡ của Madeleine, về cái nơi Charybdis chết chóc trong thần thoại Hy Lạp. Kể luôn cả chuyện anh không tìm được hồ sơ nào có tên X. Arybdis sống ở bang Connecticut hay bất kỳ tiểu bang lân cận nào qua danh bạ hay trang web tìm kiếm nào trên mạng.

“Một xoáy nước ư?” Mellery đau đáu hỏi.

Gurney gật đầu.

“Chúa ơi,” Mellery nói.

“Chuyện gì vậy?”

“Tôi sợ nhất là chết đuối.”