← Quay lại trang sách

Chương 10 Địa Điểm Hoàn Hảo

Peony là một thị trấn hết sức xa vời so với cái lịch sử mà nó cố gắng phản ánh. Kề cận thị trấn Woodstock[4], Peony vờ như có một quá khứ tương tự: cái quá khứ của nhạc rock, của áo quần sặc sỡ, của ma túy gây ảo giác – trong khi Woodstock thì ấp ủ vầng hào quang thế phẩm riêng của mình qua cái tên khiến người ta liên tưởng tới buổi nhạc hội mù mịt khói cần sa mà thật ra được tổ chức tại một nông trại ở thị trấn Bethel cách đó 80 ki-lô-mét. Hình ảnh của Peony là sản phẩm của thứ ảo ảnh tạo ra từ khói và gương, và trên nền móng huyễn tưởng này mọc lên những công trình thương mại không mấy lạ lẫm – những tiệm sách Thời Đại Mới[5], những hiệu bói bài, những cửa hiệu lớn của tín đồ Wicca và Druid, những cửa hiệu xăm hình, những không gian dành cho nghệ thuật trình diễn, những quán ăn chay – một trọng tâm thu hút những đứa con của hoa[6] – ngấp nghé trước ngưỡng lão suy, những fan cuồng đi theo nhóm The Grateful Dead đi trên những chiếc xe buýt Volkswagen cũ kỹ, và những người theo trường phái chiết trung cuồng nhiệt bọc trong nhiều thứ thời trang thượng vàng hạ cám.

Dĩ nhiên, lồng vào những yếu tố lạ lùng đến lòe loẹt này là vô vàn cơ hội cho du khách tiêu tiền: cửa hiệu, quán ăn mà tên và nội thất chỉ hơi phá cách một chút cùng những mặt hàng được chỉnh sửa phù hợp cho du khách hạng sang muốn tưởng tượng mình đang khám phá một xu hướng văn hóa nơi đây.

Mạng lưới đường sá lỏng lẻo tỏa ra từ khu thương mại của Peony là nơi dẫn đến tiền. Giá bất động sản đã tăng gấp đôi, gấp ba sau ngày 11/9, khi những cư dân New York dồi dào của cải và bệnh hoang tưởng cấp phi mã bị hút hồn bởi cái viễn tưởng về một chốn nương náu nơi thôn quê. Nhà cửa trong vùng đồi núi bao quanh khu làng phát triển cả về kích thước lẫn số lượng, những chiếc SUV hiệu Hummer và Land Rover biến dạng từ những chiếc Blazer và Bronco, và những ai đến chốn thôn quê để nghỉ cuối tuần đều vận những bộ trang phục mà dân nông thôn vẫn mặc, theo lời của thương hiệu Ralph Laurels.

Thợ săn, lính cứu hỏa và giáo viên nhường đường cho luật sư, chủ ngân hàng đầu tư, và những người phụ nữ ở độ tuổi nào đó dùng số tiền dàn xếp ly hôn của mình vào các hoạt động văn hóa, chữa trị làn da, các chương trình mở rộng trí tuệ cùng các bậc thầy trong đủ các loại lĩnh vực. Thật sự thì Gurney ngờ ngợ rằng nguyên nhân thuyết phục Mark Mellery mở cơ sở kinh doanh ở đây chính là sự khao khát của dân địa phương trong việc tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề trong cuộc sống từ các bậc thầy.

Anh rẽ ra khỏi đường cao tốc tỉnh ngay trước khi đến trung tâm làng rồi rẽ vào đường Filchers Brook theo chỉ dẫn của Google. Con đường ngoằn ngoèo chạy lên dốc một sườn đồi rậm rạp cuối cùng cũng đưa anh đến một bờ tường bằng đá phiến bản địa cao gần một mét bên vệ đường. Bức tường cách đường lộ khoảng 3 mét, chạy song song dọc con đường một đoạn ít nhất phải đến gần nửa cây số. Giữa tường và đường rậm rạp những khóm cúc tây màu xanh dương nhạt. Nửa đường dọc theo bờ tường là hai lối đi chỉn chu cách nhau khoảng mười lăm mét, chỗ ra và chỗ vào của một đường vòng tròn dành cho ô tô. Gắn trên tường của lối đi đầu tiên là một tấm biển đồng nhỏ nhắn: VIỆN ĐỔI MỚI TÂM LINH MELLERY.

Càng vào sâu lối đi dành cho ô tô, tính thẩm mỹ của nơi này càng hiện lên rõ nét. Nhìn đâu Gurney cũng bị ấn tượng bởi sự hoàn mỹ tự nhiên sẵn có. Bên cạnh lối xe chạy đầy sỏi, hoa thu dường như tự do mọc tùy ý ở đây. Song anh chắc chắn hình ảnh đời thường này, chẳng khác gì hình tượng của Mellery, cũng nhận được sự chăm chút rất tỉ mỉ. Cũng như những nơi thường lai vãng của giới nhà giàu kín cổng cao tường, cái không khí chủ đạo tại nơi đây là không khí của sự gần gũi tỉ mỉ, như bản chất vốn có của nó, không nụ hoa nào đang khô héo mà không được tỉa tót. Theo lối xe chạy, Gurney đến trước một trang viên lớn mang phong cách thời đại George, được chải chuốt nhã nhặn như vườn tược ở đây.

Đang đứng trước căn nhà và hứng thú quan sát anh là một người đàn ông cao ngạo có bộ râu quai nón màu gừng. Gurney kéo của xe xuống hỏi tìm khu vực đậu xe. Người đàn ông trả lời bằng giọng Anh trưởng giả, bảo anh nên chạy đến cuối đường.

Không may, con đường này lại dẫn Gurney ra ngoài, qua những lối đi khác trong bờ tường đá, trở lại đường Filchers Brook. Anh lái xe vòng lại, đi qua lối vào và men theo đường ô tô chạy một lần nữa đến trước căn nhà, nơi đây người Anh cao ráo ấy lại nhìn anh một cách hứng thú.

“Cuối đường này dẫn tôi đến đường lộ ở ngoài mà,” Gurney nói. “Tôi có bỏ lỡ thứ gì không ạ?”

“Tôi đúng là ngu bỏ mẹ!” người đàn ông hét to kèm một sự não nề cường điệu dường như mâu thuẫn với phong thái tự nhiên của ông ta. “Tôi cứ ngỡ mình biết mọi thứ, nhưng thực tế thì đa phần tôi đều sai cả!”

Gurney nghi ngờ trước mặt mình là một kẻ mất trí. Ngay lúc đó, anh cũng nhận ra bóng người thứ hai trong khung cảnh. Đang đứng đằng xa dưới bóng một cây đổ quyên khổng lồ và mải mê theo dõi hai người là một gã đàn ông chắc nịch da sẫm trông như đang chờ thử vai cho chương trình truyền hình Sopranos.

“A!” người Anh hét lên, tay hào hứng chỉ đằng xa dọc lối ô tô, “câu trả lời của anh kia rồi! Sarah sẽ dẫn dắt anh. Cô ấy là người anh cần đấy!” Nói bằng một giọng kịch cao độ, ông ta xoay người sải bước, theo sau là gã găng tơ như trong truyện tranh.

Gurney lái tiếp đến chỗ người phụ nữ đứng cạnh lối ô tô, vẻ ngậm ngùi thương cảm hiện rõ trên khuôn mặt béo múp của bà. Giọng bà toát lên vẻ thấu cảm.

“Ôi trời ạ, trời ạ, chúng tôi bắt anh phải lái xe vòng vòng như thế. Chào đón anh như vậy thật không phải.” Âu lo trong mắt bà đang ở mức báo động. “Anh để xe lại cho tôi đi. Anh đi thẳng vào nhà được rồi.”

“Không cần đâu. Bà vui lòng chỉ tôi chỗ đậu xe là được rồi.”

“Nhất định rồi! Theo tôi nào. Tôi phải bảo đảm lần này anh không lạc nữa.” Giọng bà làm cho nhiệm vụ này nghe có vẻ nhọc nhằn hơn người ta tưởng.

Bà vẫy tay ra hiệu cho Gurney đi theo. Đó là một cái vẫy tay rộng mở, như thể bà đang điều khiển một đoàn khách bộ hành. Trong tay kia vốn đang đặt bên hông, bà còn cầm theo một chiếc ô đã khép. Nhịp chân cố ý của bà truyền tải được một mối lo, rằng không khéo Gurney có thể mất dấu bà. Đến một khoảng hở trong khu vực bụi cây, bà bước sang một bên, tay chỉ Gurney đi vào một nhánh nhỏ tách ra từ lối ô tô băng qua bụi cây. Khi anh chạy xe ngang hàng bà, bà dúi chiếc ô về phía cửa xe đang mở.

“Cầm lấy này!” bà hét lớn.

Anh dừng xe, lúng túng.

“Anh biết người ta nói gì về thời tiết trên núi rồi đấy,” bà giải thích.

“Tôi chắc chắn sẽ không sao đâu.” Anh tiếp tục chạy ngang qua bà vào khu vực đậu xe, một nơi trông như có thể chứa gấp đôi lượng xe đang trong bãi. Gurney đếm thấy có 16 xe. Không gian gọn gàng hình chữ nhật rúc trong những khóm hoa và bụi cây mọc khắp nơi. Một cây ngô đồng cao quý ở đằng xa tách khu vực để xe ra khỏi một kho thóc đỏ cao ba tầng, màu của nó sống động trong ánh nắng hắt nghiêng.

Anh chọn một chỗ trống giữa hai chiếc SUV khổng lồ. Trong khi đậu xe, anh bỗng nhận ra có người phụ nữ từ đằng sau một luống thược dược thấp lè tè đang theo dõi anh đậu xe. Khi ra khỏi xe, anh mỉm cười lịch sự với cô ta – một phụ nữ như bông hoa tím thanh tú, có những đường nét tinh tế, nhỏ nhắn trên khuôn mặt, toát ra vẻ cổ điển. Nếu là diễn viên điện ảnh, Gurney nghĩ cô sẽ rất hợp với vai Emily Dickinson trong phim Hoa khôi Amherst.

“Không biết cô có thể chỉ cho tôi tìm Mark ở đâu không…” Nhưng đóa hoa tím ấy lại ngắt lời anh bằng câu hỏi của cô ta. “Thằng [bad word] nào nói anh có thể đậu xe ở đó hả?”