← Quay lại trang sách

PHẦN II - NHỮNG TRÒ CHƠI RÙNG RỢN Chương 17 Nhuốm Máu

Đúng mười giờ sáng, Gurney gọi cho đồn cảnh sát Peony để cho tên, địa chỉ, số điện thoại, và trình bày vắn tắt mối quan hệ giữa anh và nạn nhân. Viên cảnh sát mà anh nói chuyện, trung sĩ Burkholtz, nói với anh rằng thông tin này sẽ được chuyển đến tổ điều tra phụ trách vụ án thuộc Cục Điều tra Tội phạm thuộc Cảnh sát Bang.

Đinh ninh trong vòng 24 đến 48 tiếng sau cảnh sát mới liên hệ lại nên anh rất ngạc nhiên khi chưa đầy mười phút sau đã nhận được điện thoại. Giọng nói rất quen thuộc nhưng không thể nhận ra tức thời, khó nhận biết hơn nữa khi anh ta giới thiệu mà không nói tên.

“Anh Gurney, tôi là thanh tra cao cấp tại hiện trường Peony đây. Tôi được biết anh có thông tin gì đó cho chúng tôi.”

Gurney do dự. Anh định yêu cầu viên cảnh sát nói tên – theo đúng quy trình thông thường của cảnh sát – thì âm sắc của giọng nói ấy bỗng dấy lên ký ức về khuôn mặt và cái tên đi kèm với nó. Jack Hardwick mà anh nhớ từ một vụ án gây chấn động mà họ làm chung với nhau là một tay lớn tiếng, tục tằn, mặt đỏ, có cái đầu đinh bạc trước tuổi và cặp mắt nhợt nhạt của loài chó Bắc Cực. Hắn là tay đùa cợt không biết ngừng nghỉ, và nửa giờ đồng hồ với hắn lắm lúc tưởng như nửa ngày – một ngày mà ai cũng ước nó sẽ kết thúc sớm. Nhưng hắn cũng thông minh, ngoan cường, và tệ hơn nữa là nói năng thẳng tuột chẳng kiêng nể ai.

“Chào Jack,” Gurney vừa nói vừa giấu vẻ ngạc nhiên.

“Sao anh… Chó chết thật! Có thằng chó nào lại nói cho anh biết rồi! Ai nói cho anh biết vậy?”

“Anh có một giọng nói đáng nhớ mà Jack.”

“Đáng nhớ chó gì! Mười năm rồi còn đếch gì nữa!”

“Chín năm.” Bắt giữ Peter Thú túi. Piggert là một trong những vụ lớn nhất trong sự nghiệp của Gurney, một vụ đã giúp anh thăng lên hàng thanh tra hạng nhất mà ai cũng ao ước, và anh nhớ mãi cái ngày ấy.

“Ai nói cho anh biết hả?”

“Chẳng ai nói cả.”

“Khỉ thật!”

Gurney im bặt, nhớ lại cái thiên hướng muốn nói lời cuối của Hardwick và những cuộc chuyện trò vớ vẩn cứ kéo dài vô tận cho đến khi hắn hiểu ra điều đó.

Sau ba giây dài đăng đẵng, Hardwick nói tiếp bằng giọng bớt hiếu chiến hơn. “Chín năm khốn kiếp. Rồi đùng một cái anh ở đâu nhảy ra, nhảy ngay vào giữa một vụ có thể nói là chấn động nhất bang New York từ lúc anh câu được nửa thân dưới của bà Piggert từ dưới sông lên. Đúng là trùng hợp.”

“Thật ra thì là nửa thân trên mới đúng Jack à.”

Sau một khoảng lặng ngắn, điện thoại nổ tung tiếng cười inh tai vốn là thương hiệu của Hardwick.

“À!” hắn hét lên trong hơi thở hổn hển sau tiếng cười inh tai. “Davey ơi, Davey à, Davey lúc nào cũng khắt khe mấy thứ tiểu tiết cả.”

Gurney hắng giọng. “Anh nói cho tôi biết Mark Mellery chết như thế nào được không?”

Hardwick do dự. Hắn đang kẹt ở thế khó xử giữa quan hệ cá nhân và nguyên tắc làm việc, cái thế vốn chi phối phần lớn cuộc sống của cảnh sát và mang đến cho họ phần lớn những ung nhọt. Hắn quyết định nói ra toàn bộ sự thật – không phải vì hắn buộc phải làm vậy (Gurney không có chỗ đứng chính thức nào trong vụ án này và không được phép biết thông tin nào cả) mà vì vụ án mang tính chất man rợ. “Ai đó cứa cổ ông ta bằng vỏ chai vỡ.”

Gurney ư hự như thể bị đấm vào tim. Tuy vậy, phản ứng đầu tiên này lại được nhanh chóng thay thế bằng một phản ứng chuyên nghiệp hơn. Câu trả lời của Hardwick đã lấp vào đúng vị trí một trong những mảnh ghép trong đầu Gurney.

“Có phải là một chai uýt ki không?”

“Làm thế quái nào mà anh biết được vậy hả?” Chỉ trong chín chữ, giọng của Hardwick chuyển từ sững sờ sang cáo buộc. “Chuyện dài lắm. Anh có muốn tôi tạt qua không?”

“Tôi nghĩ anh nên tạt qua.”

Mặt trời, nếu sáng hôm ấy còn là một chiếc đĩa lạnh lẽo hiển hiện đằng sau lớp màu nước ảm đạm của màn mây mùa đông, thì giờ đây đã bị bầu trời lổn nhổn, xám xịt che khuất hoàn toàn. Tia sáng không hắt bóng dường như báo hiệu một điềm gở – bộ mặt của một vũ trụ lạnh lẽo, lạnh nhạt như băng.

Cảm thấy dòng tư tưởng này huyền hoặc một cách đáng ngượng ngùng, Gurney dẹp nó sang một bên khi anh dừng xe đằng sau hàng xe cảnh sát đậu lởm chởm ven đường phủ đầy tuyết trước Viện Đổi mới Tâm linh Mellery. Đa số các xe đều mang biểu trưng vàng lục của Cảnh sát Bang New York, kể cả một chiếc xe tải loại nhỏ đến từ phòng giám định pháp y trong vùng. Có hai chiếc màu trắng là xe cảnh sát trưởng, và hai chiếc màu lục là xe tuần tra của cảnh sát Peony. Anh nhớ lại câu bông đùa của Mellery cùng với vẻ mặt của y khi cho rằng cảnh sát Peony nghe như tên một tiết mục tạp kỹ đồng tính.

Những luống cúc tây, sum suê giữa xe và bức tường đá, đã bị thời tiết mùa đông càng lúc càng khắc nghiệt biến thành một mớ bòng bong toàn cuống nâu chưng diện những cuộn hoa tuyết lạ lẫm. Anh ra khỏi xe và hướng về phía công vào. Một tay cảnh sát mặc sắc phục thẳng thớm với cái quắc mắt bán quân sự đứng ở chỗ cổng đang mở. Với một cảm giác lạ lẫm, Gurney để ý thấy hắn có lẽ trẻ hơn con trai anh một hai tuổi.

“Tôi giúp gì được cho anh?”

Lời nói thì nhã nhặn, nhưng ánh mắt thì không.

“Tên tôi là Gurney. Tôi đến đây để gặp Jack Hardwick.”

Tay cảnh sát trẻ chớp mắt hai lần, một chớp cho mỗi cái tên. Vẻ mặt của hắn cho thấy ít nhất một trong hai cái tên ấy làm hắn muốn ợ chua.

“Chờ một chút,” hắn vừa nói vừa lấy chiếc máy bộ đàm từ thắt lưng ra. “Anh cần được hộ tống.”

Ba phút sau, người hộ tống đến – một thanh tra từ Cục Điều tra Tội phạm (BCI) với vẻ ngoài như muốn học đòi làm Tom Cruise. Bất chấp cái giá buốt của mùa đông, y chỉ mặc độc nhất một chiếc áo gió đen mở phanh lủng lẳng để lộ ra chiếc áo thun đen và quần jean. Biết rõ quy chế ăn mặc của cảnh sát bang rất khắt khe nên Gurney hiểu được trang phục xuềnh xoàng đến thế cho thấy y vừa được gọi đến hiện trường trực tiếp trong khi đang nghỉ ngoài giờ hoặc đang trong một hoạt động nằm vùng nào đó. Mép khẩu súng Glock chín li trong bao súng đen mờ trên vai dưới lớp áo gió dường như không chỉ là công cụ nhà nghề mà còn là lời tuyên bố về thái độ.

“Thanh tra Gurney phải không?”

“Đã nghỉ hưu,” Gurney nói như gắn thêm vào một dấu hoa thị.

“Vậy ư?” Tom Cruise nói một cách hờ hững. “Vậy chắc là hay lắm đây. Theo tôi nào.”

Khi Gurney theo người dẫn đường của mình đi dọc con đường vòng quanh tòa nhà chính đi về phía khu nhà nằm sau nó, đập vào mắt anh là bộ mặt khác biệt mà lượng tuyết dày gần tám xăng-ti-mét đã tạo ra ở nơi đây. Đó là một bức tranh sơn dầu giản dị trên vải bạt không có những chi tiết thừa thãi. Bước vào thế giới tối giản của phong cảnh trắng sáng này như đang bước vào một hành tinh mới được kiến tạo – một ý nghĩ hoàn toàn trái ngược với hiện thực bừa bộn nơi dây. Họ vòng quanh ngôi nhà được xây theo phong cách thời đại George cổ kính nơi Mellery đã sống và dừng lại ở mép hàng hiên phủ dày tuyết nơi Mellery chết.

Vị trí cái chết rất rõ ràng. Tuyết còn mang vết hằn của xác, và trải rộng quanh vùng đầu và vai của vết hằn là một vệt máu khổng lồ. Trước đây Gurney đã thấy sự tương phản đỏ – trắng kinh tởm ấy rồi. Cái ký ức chưa phai đó xảy ra vào một buổi sáng Giáng sinh trong năm đầu Gurney còn làm tân binh. Một tay cảnh sát nghiện rượu bị vợ nhốt bên ngoài nhà đã tự bắn vào tim, ngồi trên đống tuyết mà chết, Gurney cố xua hình ảnh xưa cũ đó ra khỏi tâm trí rồi tập trung ánh mắt nhà nghề sắc bén vào hiện trường trước mặt.

Một chuyên gia lấy dấu chân đang ngồi quỳ cạnh một hàng dấu chân trong tuyết sát bên vệt máu chính, tay xịt lên chúng chất gì đó. Từ chỗ đang đứng, Gurney không thấy được tấm nhãn trên chai xịt, nhưng anh đoán đó là sáp lấy dấu chân trên tuyết, một hóa chất dùng để giữ nguyên dấu chân trên tuyết để sau đó có thể đổ vào đó hợp chất tạo khuôn nha khoa. Dấu chân trên tuyết rất dễ phai, nhưng khi được xử lý cẩn thận sẽ thể hiện một mức độ chi tiết cực kỳ rõ. Dù trước đây đã chứng kiến quy trình này rất nhiều lần, nhưng anh vẫn không khỏi thán phục bàn tay vững vàng và sức tập trung cao độ của người chuyên gia đang tác nghiệp.

Cảnh sát đã chăng dây vàng theo hình đa giác quanh phần lớn khu vực hàng hiên, bao gồm cả cửa sau căn nhà. Các mặt đối diện hàng hiên cũng được rào thành các dãy hành lang – để bao bọc và bảo toàn một loạt các dấu chân ra vào rõ rệt theo lộ trình từ hướng kho thóc lớn cạnh nhà, đến khu vực vết máu, rồi ra khỏi hàng hiên, băng qua đồng cỏ phủ đầy tuyết về phía khu rừng.

Cửa sau căn nhà đang mở. Một thành viên trong đội điều tra đang đứng chỗ cửa nghiên cứu hàng hiên từ góc độ của căn nhà. Gurney biết chính xác anh ta đang làm gì. Khi có mặt ở hiện trường, ta thường bỏ rất nhiều thời gian chỉ để cảm nhận được cái không khí nơi đây – cố mường tượng lại những gì nạn nhân có thể đã thấy trong những giây cuối cùng. Việc định vị và thu thập chứng cứ cần tuân theo nhiều quy tắc nằm lòng – máu, hung khí, vân tay, dấu chân, tóc, sợi vải, mảnh sơn tróc, khoáng vật hay nguyên liệu thực vật đặt sai chỗ, vân vân – nhưng cũng có một vấn đề rất cơ bản liên quan đến việc nên chú trọng chứng cứ nào. Nói đơn giản, ta cần luôn cởi mở, sẵn sàng đón nhận nhiều khả năng khác lý giải chuyện đã xảy ra, nơi xảy ra, và kiểu cách xảy ra, vì nếu nhảy đến kết luận quá sớm, ta rất dễ bỏ sót những chứng cứ nằm ngoài tầm nhìn của ta về tình hình hiện tại. Đồng thời, ta phải bắt đầu phát triển ít nhất một giả thuyết lỏng lẻo để dẫn đường cho ta trong cuộc truy tìm chứng cứ. Ta có thể phạm những sai lầm đau đớn nếu tự tin quá sớm về kịch bản vụ án nhìn từ bên ngoài, nhưng mặt khác ta cũng có thể lãng phí nhiều thời gian và nhân lực quý báu nếu dò xét tỉ mỉ một khu vực rộng vài thước vuông chỉ để tìm kiếm một thứ mà có Chúa mới biết là gì.

Một thám tử giỏi làm những việc mà Gurney chắc chắn tay thám tử ở chỗ cửa đang làm – chuyển đổi vô thức giữa não trạng quy nạp và diễn dịch. Tôi thấy được những gì ở đây, và những dữ kiện này ngụ ý chuỗi sự kiện nào? Và, nếu kịch bản này hợp lý thì tôi phải thấy được chứng cứ nào khác và phải tìm chứng cứ đó ở đâu?

Qua nhiều lần trực tiếp thực hiện phương pháp thử sai, Gurney tin chắc mấu chốt trong quy trình này là duy trì một sự cân bằng thích hợp giữa quan sát và trực giác. Nguy cơ lớn nhất cho quy trình này là cái tôi. Một thám tử trong vai trò giám sát nếu vẫn không đưa ra được một lời giải thích khả dĩ nào cho những dữ kiện tìm được ở hiện trường có thể sẽ lãng phí thời gian nếu không sớm tập trung sức lực toàn đội vào một hướng đi cụ thể. Mặt khác, nếu ai đó chỉ nhìn thoáng qua hiện trường mà đã đoán chắc, và hùng hồn tuyên bố, chuyện gì đã xảy ra trong căn phòng loang lổ máu ấy rồi bắt mọi người phải chứng minh rằng y đúng thì rốt cuộc có thể gây ra nhiều vấn đề rất nghiêm trọng – thời gian bị lãng phí sẽ chỉ là vấn đề ít nghiêm trọng nhất trong số đó.

Gurney tự hỏi phương pháp tiếp cận nào đang thắng thế vào lúc này.

Bên ngoài rào cản có giăng dây vàng, bên phía xa chỗ vết máu, Jack Hardwick đang chỉ đạo hai tay cảnh sát trẻ mặt mày nghiêm nghị, một người là kẻ học đòi Tom Cruise vừa mới đưa Gurney đến hiện trường, còn người kia có vẻ như anh em song sinh của y. Chín năm không gặp kể từ khi hai người còn làm chung vụ án Piggert khét tiếng dường như đã thêm gấp đôi số năm đó vào tuổi của Hardwick. Khuôn mặt hắn đỏ hơn, mập hơn, tóc thưa hơn, còn giọng nói thì đã bắt đầu khàn ra do hút quá nhiều thuốc và uống quá nhiều rượu tequila.

“Có hai mươi khách,” hắn đang nói với hai bản sao của phim Top Gun. “Mỗi người các anh lo 9 khách. Lấy thông tin sơ bộ, tên, địa chỉ, số điện thoại. Lấy xác minh. Để Patty Cakes và tay bác sĩ nắn khớp xương cho tôi lo. Tôi cũng sẽ nói chuyện với bà quả phụ. Báo cáo lại với tôi trước 4 giờ chiều.”

Họ trao đổi thêm nhiều chuyện nữa nhưng vì nói quá nhỏ nên Gurney không nghe được, càng khó nghe hơn trước tiếng cười chói tai của Hardwick. Tay cảnh sát trẻ đã hộ tống Gurney từ cổng trước nói lời cuối, đầu nghiêng thấy rõ về phía anh. Sau đó bộ đôi này cùng xuất phát về hướng tòa nhà chính.

Khi họ đã mất dạng, Hardwick quay sang trao cho Gurney một lời chào nằm lấp lửng giữa một cái cười toe toét và một vẻ mặt nhăn nhó. Cặp mắt xanh lạ lẫm của hắn, một thời rạng lên vẻ ngờ vực, dường như chất chứa một sự hoài nghi đã sáo mòn.

“Tôi sẽ chết mất,” hắn vừa nói giọng khàn vừa đi vòng quanh khu vực chăng dây về phía Gurney, “nếu không có Giáo sư Dave.”

“Chỉ là một giảng viên hèn mọn thôi mà,” Gurney sửa lời, tự hỏi Hardwick đã bỏ công sức ra mày mò được những gì về khoảng thời gian hậu NYPD[8] khi anh là giảng viên môn tội phạm học tại trường đại học của bang.

“Đừng vờ vĩnh cái kiểu hèn mọn chết tiệt ấy với tôi. Anh là ngôi sao, anh bạn, anh biết vậy mà.”

Họ bắt tay không nồng hậu lắm. Gurney chợt nhận ra thái độ bông đùa của lão Hardwick này đã vón lại thành một thứ độc hại.

“Vị trí cái chết không có gì khả nghi lắm,” Gurney vừa nói vừa gật gù chỗ vết máu. Anh nóng lòng muốn đi thẳng vào vấn đề, cho Hardwick biết những gì anh biết, rồi cuốn gói đi ngay.

“Thứ gì cũng khả nghi chứ,” Hardwick tuyên bố. “Chết và khả nghi là hai thứ duy nhất trên đời chẳng ai biết chắc được.” Không thấy Gurney đáp lại, hắn nói tiếp, “Nhưng tôi phải công nhận vị trí chết minh bạch hơn mấy thứ khác ở đây. Cái nhà thương điên khốn kiếp này. Mấy tay ở đây cứ nói mãi về nạn nhân giống như hắn là cái gã Deepdick Chopup gì ấy trên ti vi.”

“Ý anh là Deepak Chopra?”

“Ừ, Dipcock hay gì cùng được. Chúa ạ, tha cho tôi tí đi!”

Dù trong lòng đang dồn nén một phản ứng khó chịu, nhưng Gurney vẫn không nói gì.

“Dân chúng kéo đến mấy nơi như vầy để làm cái quái gì thế hở? Nghe một thằng ngu Thời Đại Mới chạy Rolls-Royce nói về ý nghĩa cuộc đời ư?” Hardwick lắc đầu trước sự ngu ngốc của những người đồng bào – mày không ngừng chau lại nhìn mặt sau căn nhà, như thể kiến trúc thế kỷ 18 phải chịu trách nhiệm chính cho việc này.

Bực dọc đã đánh bại sự dè dặt của Gurney. “Theo tôi biết thì,” anh bình thản nói, “nạn nhân không phải là một thằng ngu.”

“Tôi có nói là hắn ngu đâu nào.”

“Tôi nghe anh nói vậy mà.”

“Tôi chỉ nhận xét chung chung vậy thôi. Tôi tin chắc ông bạn của anh là một ngoại lệ.”

Hardwick làm Gurney tức tối như một mảnh dằm nhọn. “Anh ta không phải bạn tôi.”

“Từ lời nhắn mà anh để lại cho cảnh sát Peony rồi họ chuyển cho tôi, tôi có cảm tưởng mối quan hệ giữa hai người đã có từ lâu rồi chứ.”

“Tôi quen anh ta hồi đại học, không liên lạc đã 25 năm, chỉ mới nhận được email của anh ta cách đây hai tuần thôi.”

“Email nói về việc gì?”

“Nói về vài lá thư anh ta nhận được qua bưu điện. Anh ta rất lo lắng.”

“Thư gì cơ?”

“Thơ là chủ yếu. Những bài thơ đọc như thư hăm dọa.”

Chi tiết này khiến Hardwick dừng lại suy nghĩ, đoạn hắn nói tiếp. “Anh ta muốn gì ở anh?”

“Muốn nghe lời khuyên của tôi.”

“Rồi anh khuyên anh ta làm gì?”

“Tôi khuyên anh ta đi báo cảnh sát.”

“Tôi nghĩ anh ta đâu có báo.”

Sự mỉa mai này làm Gurney khó chịu, nhưng anh dằn lòng lại.

“Còn một bài thơ nữa,” Hardwick nói.

“Ý anh là sao?”

“Trên xác nạn nhân có một bài thơ, viết trên một tờ duy nhất, chặn dưới một cục đá. Tất cả đều rất gọn ghẽ.”

“Hắn rất tỉ mỉ. Một tên cầu toàn.”

“Ai cơ?”

“Hung thủ. Tâm lý chắc có vấn đề, nhất định là một tên cầu toàn.”

Hardwick nhìn Gurney trân trân đầy hứng thú. Thái độ nhạo báng đã biến mất, ít ra là tạm thời biến mất. “Trước khi ta nói tiếp, tôi muốn biết anh biết được cái chai vỡ bằng cách nào.”

“Đoán mò thôi.”

“Đoán mò mà đoán đúng là chai uýt ki ư?”

“Cụ thể là uýt ki hiệu Bốn Hoa Hồng,” Gurney nói, miệng mỉm cười thỏa mãn khi thấy Hardwick trố mắt ra.

“Sao anh biết được? Giải thích nghe xem nào,” Hardwick ra lệnh.

“Có thể nói đây là một suy luận nhảy bậc, dựa vào những thứ được đề cập trong mấy bài thơ,” Gurney nói. “Anh đọc thơ sẽ hiểu.” Đáp lại câu hỏi đang hiện trên mặt đối phương, anh nói tiếp, “Mấy bài thơ nằm trong phòng làm việc, cùng với vài thông điệp khác trong ngăn bàn làm việc, ít ra thì lần cuối tôi thấy Mellery cất thư là vào chỗ đó. Phòng đó có lò sưởi lớn tách ra khỏi hành lang giữa.”

Hardwick vẫn nhìn anh trân trân, như thể nhìn như vậy sẽ giải quyết một vấn đề quan trọng nào đó. “Đi theo tôi,” cuối cùng hắn nói. “Tôi muốn cho anh xem thứ này.”

Trong sự yên lặng vốn không giống tính cách của mình, hắn dẫn đường đến khu vực để xe nằm giữa kho thóc khổng lồ và đường lộ, rồi dừng lại ở đoạn giao giữa đường lộ với lối xe chạy vòng cung, cũng chính là nơi cảnh sát bắt đầu rào dây thành một lối hành lang.

“Đây là nơi gần đường lộ nhất mà ta có thể phân biệt rõ dấu chân tin chắc là của hung phạm. Người ta cào tuyết trên đường lộ và lối xe chạy sau khi tuyết ngừng rơi vào khoảng hai giờ sáng. Ta chưa biết hung phạm vào trang viên trước hay sau thời gian cào tuyết. Nếu trước thì dấu vết nào ngoài đường lộ hay trên lối xe chạy cũng đều bị xe ủi tuyết xóa sạch rồi. Nếu sau thì ngay từ đâu cũng chẳng có dấu vết nào để lại cả. Nhưng từ chỗ này đây, dấu vết rõ hoàn toàn và rất dễ theo dõi, vòng quanh phía sau kho thóc, ra hàng hiên, băng qua khu vực ngoài trời đến cánh rừng, xuyên qua rừng, đi đến một bụi thông gần đường Thombush.”

“Hắn chẳng hề bỏ công che đậy dấu vết ư?”

“Phải,” Hardwick nói, giọng nghe có vẻ băn khoăn vì điều này. “Chẳng bỏ công gì sất. Trừ phi tôi bỏ sót thứ gì đó.”

Gurney ném cho hắn ta một cái lườm tò mò. “Có vấn đề gì chứ?”

“Anh tự xem cái này sẽ hiểu.”

Họ đi dọc hành lang giăng dây vàng, lần theo dấu vết đến bên kia kho thóc. Hằn sâu trong lớp tuyết dày gần tám xăng-ti-mét không có điểm nào nổi bật là vết ủng leo núi cỡ lớn (mà Gurney ước chừng có kích cỡ 10 hoặc 11, rộng cỡ D). Bất kỳ ai đã đi theo hướng này vào sáng sớm mà không quan tâm chuyện lộ trình của mình thì trước sau gì cũng đều sẽ bị phát hiện cả.

Khi họ vòng quanh đằng sau kho thóc, Gurney thấy một khu vực rộng hơn ở đó đã bị chăng dây. Một cảnh sát nhiếp ảnh đang tác nghiệp bằng máy ảnh phân giải cao trong khi một chuyên gia khám nghiệm hiện trường trong bộ đồ bảo hộ màu trắng cùng bộ đồ nghề thu thập chứng cứ của mình đang chờ tới lượt. Mỗi bức ảnh được chụp ít nhất hai lần, một tấm có thước đo trong khung ảnh để thiết lập tỉ lệ và một tấm không có, đồ vật được chụp bằng nhiều chế độ tiêu cự khác nhau – chế độ rộng để thiết lập vị trí so với những vật khác trong khung cảnh, chế độ bình thường để mô tả chính đồ vật ấy, và chế độ cận cảnh để lấy chi tiết.

Nằm trong tâm điểm chú ý của họ là một chiếc ghế gập sân vườn thuộc kiểu ghế mỏng manh thường bán ở cửa hàng giảm giá. Dấu chân dẫn thẳng đến ghế. Trước ghế, hằn sâu trong tuyết là năm, sáu mẩu thuốc lá. Gurney ngồi xổm xuống để xem kỹ hơn và thấy đó là thuốc lá hiệu Marlboro. Dấu chân sau đó đi tiếp từ chỗ ghế, vòng qua một bụi đỗ quyên về phía sân hiên nơi án mạng xảy ra.

“Chúa ạ,” Gurney nói. “Hắn ta mới ngồi đó hút thuốc ư?”

“Ừ. Một chút thư giãn trước khi cửa cổ nạn nhân. Ít ra thì trông có vẻ như thế. Tôi thấy anh chau mày lại như vậy có phải muốn hỏi cái ghế sân vườn nhỏ thảm hại kia ở đâu ra đúng không? Tôi cũng đã hỏi câu đó.”

“Và câu trả lời là?”

“Vợ nạn nhân nói chưa bao giờ thấy nó ở đó. Bà ta có vẻ thất kinh khi thấy ghế gì mà lại kém chất lượng đến vậy.”

“Sao cơ?” Gurney bật ra từ ấy như quất roi. Những lời nhận định khinh khinh của Hardwick đã trở thành những móng tay cào trên bảng đen, nghe khó chịu.

“Đùa chút thôi.” Hắn nhún vai. “Không thể để cho một vụ cứa cổ làm ta xuống tinh thần được. Nhưng nghiêm túc mà nói, đây có lẽ là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời sang giàu của mình, Caddy Smythe-Westerfield Mellery đến gần một chiếc ghế rẻ tiền tới vậy.”

Gurney biết rõ những trò khôi hài trong giới cảnh sát và sự cần thiết của nó trong việc đối phó với những chuyện khủng khiếp thường nhật trong công việc, nhưng lắm lúc nó lại làm anh khó chịu.

“Anh muốn nói tên giết người mang theo ghế sân vườn của mình ư?”

“Có vẻ như thế,” Hardwick nói, mặt nhăn nhó trước khả năng vô lý ấy.

“Và sau khi hút xong – gì nhỉ, nửa tá điếu Marlboro đúng không? – hắn đi đến cửa sau, dụ Mellery ra hàng hiên bên ngoài rồi cắt cổ anh ta bằng một cái chai vỡ? Hiện trường được tái hiện như vậy tính tới thời điểm này phải không?”

Hardwick gật gù miễn cưỡng, như bắt đầu cảm thấy kịch bản tội ác mà chứng cứ cho thấy nghe có vẻ dở hơi. Và chuyện còn tệ hơn thế.

“Thật ra thì,” hắn nói, “‘cắt cổ ông ta’ là nói nhẹ đấy. Nạn nhân bị đâm xuyên họng ít nhất cả chục lần. Khi nhân viên khám nghiệm tử thi chuyển xác ra xe để mổ, thì cái đầu chết tiệt ấy suýt rớt ra.”

Gurney nhìn theo hướng hàng hiên. Dù nó bị đám đỗ quyên che khuất hoàn toàn, nhưng hình ảnh vết máu khổng lồ trở lại tâm trí anh sống động và sắc nét như thể anh đang nhìn nó chằm chằm dưới ánh đèn hồ quang.

Hardwick quan sát anh một chập, cắn môi suy tư. “Thực tình thì,” cuối cùng hắn nói, “đó không phải là phần quái lạ gì. Lát nữa mới đến phần thật sự quái lạ, anh lần theo dấu chân sẽ thấy.”