Chương 22 Hiểu Đúng Vấn Đề
Đêm hôm ấy anh dành ra hai giờ đồng hồ viết và chỉnh sửa lại lời khai. Bản lời khai chỉ đơn giản kể lại – mà không dùng tính từ, không chứa cảm xúc hay ý kiến gì hết – những chi tiết có liên quan đến mối quen biết giữa anh với Mark Mellery, gồm cả quan hệ thân mật giữa họ thời đại học và những lần liên lạc gần đây, bắt đầu bằng việc Mellery email yêu cầu gặp mặt và kết thúc bằng việc y cương quyết không mang vấn đề trình cảnh sát.
Anh uống hai ly cà phê đậm đặc trong khi soạn lời khai và vì vậy ngủ không ngon. Lạnh người, đổ mồ hôi, ngứa ngáy, khát nước, cùng một cơn đau ngắn ngủi chuyển từ chân này sang chân kia một cách khó hiểu – một loạt các cảm giác khó chịu nối tiếp nhau trong đêm tạo nên một vườn ươm ác tính dành chứa những suy nghĩ phiền muộn, nhất là những suy nghĩ liên quan đến nỗi đau anh thoáng thấy trong mắt Madeleine.
Anh biết rằng nỗi đau ấy đến từ quan điểm của cô về những chuyện anh ưu tiên. Lúc nào cô cũng than phiền rằng khi những vai trò trong cuộc sống của anh xung đột nhau, Dave Thám tử luôn luôn thế chỗ Dave Người chồng. Anh về hưu hay không có khác gì. Rõ ràng cô đã hy vọng là nó sẽ khác, đến mức tin là vậy. Nhưng làm sao anh lại có thể đi ngược lại bản chất của mình? Dù có quan tâm tới cô, muốn ở bên cô, muốn cô hạnh phúc đến mấy, thì làm sao anh có thể trở thành một người mà anh không phải? Trí óc anh hoạt động hiệu quả khác thường trong một vài lĩnh vực, và điều làm anh thỏa mãn nhất trên đời là có thể áp dụng cái trí tuệ thiên phú ấy. Anh có một bộ óc cực kỳ logic và một chiếc ăng ten được tinh chỉnh rất tốt để có thể dò được sự không nhất quán. Những tố chất này khiến anh trở thành một thám tử xuất chúng. Chúng cũng tạo nên thứ đệm trừu tượng cho phép anh giữ khoảng cách vừa phải với những điều khủng khiếp trong nghề. Những cảnh sát khác có những thứ đệm khác – rượu chè, tình đoàn kết anh em, sự yếm thế làm chai sạn con tim. Lá chắn của Gurney là khả năng nắm bắt tình huống, coi đó là những thử thách trí tuệ và tội ác là những phương trình phải giải. Anh là như thế. Anh không thể đi ngược lại bản chất bằng cách nghỉ hưu đơn giản như vậy. Anh nghĩ đến đó thì thiếp đi, một giờ đồng hồ trước lúc bình minh ló dạng.
Cách Walnut Crossing gần 97 ki-lô-mét về phía Đông, qua Peony 16 ki-lô-mét, trên một dốc núi nhìn được toàn cảnh sông Hudson, Tổng bộ Cảnh sát Bang tại khu vực có cảnh sắc của một pháo đài mới dựng lên. Mặt tiền khổng lồ lát đá xám và những cánh cửa sổ hẹp dường như được thiết kế để chống chọi lại ngày tận thế. Gurney tự hỏi liệu có phải kiểu kiến trúc này chịu ảnh hưởng của sự kiện 11/9, cơn cuồng loạn đã phát sinh ra nhiều dự án còn ngớ ngẩn hơn cả những đồn cảnh sát bất khả xâm phạm như thế.
Bên trong, ánh đèn huỳnh quang làm tăng đến tột độ khí sắc thô ráp của những chiếc máy phát hiện kim loại, camera điều khiển từ xa, các chốt bảo vệ chống đạn, và sàn nhà bê tông sáng bóng. Có một chiếc micro để liên lạc với người lính gác trong chốt – thực sự giống phòng điều khiển hơn, với một dãy màn hình ghi lại hình ảnh từ camera an ninh. Đèn bên trong chiếu ánh sáng chói lóa lạnh lùng lên tất cả các bề mặt cứng, cho người lính gác một vẻ xanh xao kiệt quệ. Ngay cả mái tóc không màu của anh ta trông cũng bệnh hoạn dưới ánh sáng không tự nhiên ấy. Trông anh ta như sắp nôn mửa.
Gurney nói vào micro, kìm lòng lại không hỏi han xem anh ta có sao không. “Tôi là David Gurney. Tôi đến gặp anh Jack Hardwick.”
Anh lính gác đẩy tấm thẻ thông hành tạm thời và danh sách đăng nhập qua một khe hẹp dưới chân một bức tường thủy tinh đáng gờm chạy từ trần nhà xuống chở ngăn cách quầy.
Anh ta nhấc điện thoại lên, tra một danh sách dán ở bên trong, ấn bốn phím số nội bộ, nói gì đó mà Gurney không nghe được rồi đặt điện thoại trở lại giá.
Một phút sau một cánh cửa thép màu xám ở phần tường cạnh chốt gác mở ra, để lộ người lính mặc thường phục đã hộ tống anh ngày hôm trước ở viện. Y ra hiệu cho Gurney mà hình như không nhận ra anh, rồi dẫn anh dọc theo một hành lang xám không có gì nổi bật tới một cánh cửa xám khác rồi mở cửa.
Họ bước vào một phòng hội nghị lớn không cửa sổ – không cửa sổ nhất định là để giữ an toàn cho khách tham dự khỏi bị mảnh kính vỡ gây sát thương nếu có khủng bố tấn công. Gurney hơi sợ không gian kín, ghét những nơi không cửa sổ, ghét những tay kiến trúc sư nào nghĩ thiết kế như vậy là hay.
Người hướng dẫn kiệm lời của anh đi thẳng đến một lư cà phê ở góc xa. Đa số ghế ở bàn hội nghị chữ nhật đã có chủ là những người chưa vào phòng. Áo khoác được treo lủng lẳng sau lưng bốn trong số mười ghế, ba ghế khác dựa nghiêng vào chiếc bàn phía trước như một cách giữ chỗ. Gurney cởi bỏ chiếc áo khoác nhẹ có mũ đang mặc rồi đặt lên lưng một chiếc ghế trống.
Cửa mở, Hardwick bước vào, theo sau là một phụ nữ tóc đỏ với dáng vẻ mọt sách trong bộ com lê kiểu dành cho cả nam lẫn nữ tay mang một cái laptop và một bộ hồ sơ dày cộm, và tay Tom Cruise học đòi đi đến gặp chiến hữu của mình ở chỗ bình cà phê. Người phụ nữ tiến tới một ghế chưa có người rồi bỏ đồ đạc của mình lên chiếc bàn trước mặt. Hardwick đến gần Gurney, mặt hắn có cái vẻ lấp lửng giữa mong đợi và khinh miệt.
“Anh sẽ được tiếp đãi đặc biệt đấy, anh bạn ạ,” hắn thầm thì một cách chói tai. “Chúng ta rất vinh hạnh chào đón sự có mặt của ủy viên công tố quận tài-không-đợi-tuổi trẻ nhất trong lịch sử tỉnh.”
Gurney cảm nhận được cái ác cảm theo phản xạ của mình đối với Hardwick, một sự ác cảm mà anh nhận thấy không cân xứng với sự gay gắt vô bổ của hắn. Dù đã cố gắng không phản ứng lại, nhưng khi nói môi anh lại cứng đơ. “Việc y can dự vào những vụ như thế này chẳng phải là chuyện thường tình sao?”
“Tôi có nói là không thường tình đâu nào,” Hardwick xì xầm. “Tôi chỉ nói là anh sẽ được tiếp đãi đặc biệt thôi.” Hắn liếc nhìn ba chiếc ghế nghiêng ở giữa bàn và bằng cặp môi cong vút đang dần trở thành một phần của khuôn mặt, hắn nhận xét bâng quơ, “Ngai vàng cho ba nhà thông thái đây.”
Theo gót lời nhận xét ấy, cánh cửa mở ra và ba người đàn ông bước vào.
Hardwick xì xầm ngang vai Gurney nói cho anh biết họ là ai. Thấy hắn có thể nói mà không cử động môi, Gurney chợt nhận ra cái nghiệp mà Hardwick đã bỏ lỡ chính là nghiệp dùng đến tài nói tiếng bụng.
“Đại úy Rod Rodriguez, một thằng ngu hống hách,” cái giọng thì thầm không rõ từ đâu đến ấy cất lên khi một người đàn ông béo phệ, làn da ngăm thẩm mỹ viện, với nụ cười méo xệch cùng cặp mắt hiểm ác, bước vào phòng và giữ cửa cho một người đàn ông cao hơn theo sau – người này thuộc dạng mảnh khảnh, cảnh giác, ánh mắt dáo dác khắp phòng nhìn từng người chưa đến một giây, “ủy viên công tố quận Sheridan Kline đấy,” tiếng thì thầm nói, “Muốn trở thành Thống đốc Kline.”
Người đàn ông thứ ba, khúm núm theo sau Kline, đầu hói trước tuổi và khắp người toát lên nét duyên của một chén dưa cải bắp Đức lạnh tanh, là “Stimmel, trợ lý chính của Kline.”
Rodriguez dẫn họ đến chỗ mấy chiếc ghế nghiêng, cố tình mời Kline ngồi ghế ở giữa, Kline mặc nhiên chấp nhận. Stimmel ngồi bên trái Kline, Rodriguez ngồi bên phải. Rodriguez nhìn những khuôn mặt có mặt trong phòng qua cặp kính gọng mỏng. Mớ tóc đen rậm rạp chải kiểu hết sức gọn gàng, nhô lên từ chiếc trán thấp, được nhuộm thấy rõ. Y đập bàn vài tiếng chát chúa bằng khớp đốt ngón tay, mắt nhìn quanh để chắc chắn mọi người đang chú ý.
“Theo nghị trình của chúng ta thì cuộc họp này bắt đầu lúc 12 giờ trưa, và 12 giờ trưa là con số trên đồng hồ ngay lúc này. Xin phiền mọi người vào chỗ ngồi của mình…?”
Hardwick ngồi cạnh Gurney. Nhóm bình-cà-phê đi đến bàn, và trong vòng nửa phút tất cả đều an tọa trên ghế. Rodriguez nhìn quanh chua chát, như muốn nói chuyên gia thực thụ chẳng mất nhiều thời gian đến vậy để ổn định trật tự.
Thấy Gurney, miệng y nhếch lên một cái, không rõ là cười khẩy hay nhăn mặt. Vẻ mặt chua chát càng hằn sâu khi y thấy một chiếc ghế trống. Đoạn y nói tiếp.
“Tôi không cần phải nói cho các anh biết là một vụ giết người gây xôn xao dư luận đã rơi vào tay chúng ta. Chúng ta có mặt ở đây để chắc chắn chúng ta đều có mặt ở đây.” Y ngừng nói, như xem thử có ai đánh giá cao sự dí dỏm đậm chất thiền này không. Rồi y dịch ra cho những cái đầu u tối hiểu. “Chúng ta đến đây để chắc chắn rằng chúng ta cùng hướng về một nhiệm vụ từ ngày đầu vụ án.”
“Ngày thứ hai rồi,” Hardwick lẩm bẩm.
“Anh nói gì cơ?” Rodriguez nói.
Hai anh em sinh đôi nhà Cruise trao cho nhau những cái nhìn ngơ ngác.
“Hôm nay là ngày thứ hai, thưa sếp. Hôm qua là ngày thứ nhất, thưa sếp, và là một ngày chết tiệt.”
“Tất nhiên tôi nói bóng bẩy vậy thôi. Ý của tôi là chúng ta cần phải hướng về cùng một nhiệm vụ ngay từ đầu vụ án này. Tất cả chúng ta đều phải hành quân theo cùng một nhịp trống. Tôi nói như vậy có rõ không nào?”
Hardwick gật gù một cách ngây thơ. Rodriguez vờ như tảng lờ Hardwick và hướng những lời bình luận của mình đến những người nghiêm túc hơn đang ngồi ở bàn.
“Từ những thông tin ít ỏi mà chúng ta biết được tại thời điểm này, thì vụ án hứa hẹn sẽ khó khăn, phức tạp, nhạy cảm, gây chấn động nữa cũng nên. Tôi được biết nạn nhân vừa là nhà văn vừa là nhà diễn thuyết thành đạt. Gia đình bên vợ nổi tiếng là giàu sụ. Khách hàng của Viện Mellery bao gồm một số nhân vật lắm tiền, bảo thủ, phiền phức. Yếu tố nào trong số đó cũng có thể tạo nên một gánh xiếc truyền thông nhộn nhạo. Đặt ba yếu tố này lại với nhau là các anh sẽ có một thử thách hết sức gay go đấy. Bốn mấu chốt để phá án là tổ chức, kỷ luật, giao tiếp, và giao tiếp nhiều hơn nữa. Các anh có thấy gì, nghe gì, kết luận gì đi nữa cũng chỉ là công cốc nếu các anh không ghi âm hay báo cáo lại đúng quy trình. Giao tiếp và giao tiếp nhiều hơn nữa.” Y liếc xung quanh, đưa mắt nhìn Hardwick lâu nhất, nhận ra Hardwick, một cách không tế nhị lắm, là tay chuyên phạm luật về ghi âm và báo cáo. Hắn đang săm soi một đốm tàn nhang lớn trên mu bàn tay phải.
“Tôi không thích người nào phá lệ,” Rodriguez nói tiếp. “Những kẻ phá lệ về lâu về dài sẽ gây ra nhiều rắc rối hơn những người phạm luật. Kẻ phá lệ lúc nào cũng nói mình làm vậy để giải quyết chuyện này chuyện kia. Thực tế là bọn họ làm vậy chỉ để thuận tiện cho bản thân thôi. Bọn họ làm vậy vì thiếu kỷ luật, mà thiếu kỷ luật thì sẽ phá hoại cơ cấu hoạt động. Nên mọi người nghe tôi nói cho rõ đây. Trong vụ này chúng ta sẽ tuân theo luật lệ. Toàn bộ các luật lệ. Chúng ta sẽ sử dụng danh sách kiểm tra. Chúng ta sẽ điền báo cáo một cách chi tiết. Chúng ta sẽ nộp báo cáo đúng giờ. Mỗi vấn đề sẽ đi qua một kênh cụ thể. Mọi thắc mắc pháp lý phải gửi đến văn phòng của công tố viên Kline trước khi – tôi nhắc lại, trước khi – chúng ta có bất cứ hành động nào chưa chắc chắn. Giao tiếp, giao tiếp, giao tiếp.” Y ném những từ ấy như ném hỏa pháo tới tấp vào vị trí của địch. Xét thấy mọi kháng cự đều đã bị dập tắt, y quay người ngọt xớt sang ủy viên công tố quận vẫn luôn tỏ ra bồn chồn suốt cuộc hô hào, rồi nói, “Sheridan, tôi biết anh rất quan tâm đến vụ án này. Anh có muốn nói gì với tổ điều tra của chúng tôi không?”
Kline nở rộng một nụ cười mà nhìn xa có thể tưởng lầm là nồng hậu. Nhìn gần, người ta sẽ thấy một chính trị gia rừng rực ngọn lửa tự luyến.
“Tôi chỉ muốn nói là tôi đến đây để giúp đỡ. Khả năng đến đâu thì giúp đến đó. Các anh là dân chuyên nghiệp, được đào tạo, có kinh nghiệm, có tài nghệ. Các anh biết công việc của mình. Đây chính là sô diễn của các anh.” Một tiếng khúc khích nho nhỏ lọt vào tai Gurney. Rodriguez chớp mắt. Lẽ nào Rodriguez lại bắt đúng tần số của Hardwick đến vậy? “Nhưng tôi đồng ý với Rod. Đây có thể là một buổi trình diễn rất lớn, một buổi trình diễn rất khó để xuôi chèo mát mái. Chắc một điều rằng nó sẽ lên ti vi, và sẽ có nhiều người xem. Các anh chuẩn bị đọc những cái tít giật gân đi là vừa – ‘Án mạng đẫm máu của một bậc thầy Thời Đại Mới’. Muốn hay không, vụ này cũng là ứng cử viên cho mấy tờ báo lá cải. Tôi không muốn chúng ta xấu mặt như lũ ngu ở Colorado làm be bét vụ Jon Benét hay lũ ngu ở California làm be bét vụ Simpson. Vụ án này chúng ta sẽ tung hứng nhiều trái bóng, và nếu bóng rớt thì hai tay chúng ta sẽ là một mớ lộn xộn. Mấy trái bóng đó…”
Gurney muốn nghe hết kết cục của mấy trái bóng kia, nhưng sự tò mò của anh chưa được đáp ứng thì Kline đã im bặt trước một tiếng chuông điện thoại. Tiếng chuông phiền nhiễu ấy thu hút sự chú ý của mọi người, mỗi người mỗi vẻ khó chịu khác nhau. Rodriguez sừng sộ nhìn Hardwick thò tay vào túi, trình ra dụng cụ phá rối, rồi nghiêm chỉnh ngâm lại câu thần chú của đại úy, “Giao tiếp, giao tiếp, giao tiếp.” Rồi Hardwick bấm nút ‘nối’ để trả lời cuộc điện thoại.
“Hardwick đây… Nói đi… Ở đâu cơ?… Nó khớp với dấu chân ư?… Sao nó lại ở đó, có thấy dấu vết nào không?… Sao hắn lại làm vậy, các anh có biết không?… Được rồi, đưa đến phòng giám định càng sớm càng tốt… Không thành vấn đề.” Hắn ấn nút ‘ngắt’ rồi trầm tư nhìn điện thoại.
“Này?” Rodriguez nói, ánh mắt sừng sộ đã bị sự tò mò làm méo mó.
Hardwick nhằm câu trả lời vào người phụ nữ tóc đỏ. Cô ta để mở laptop trên bàn và nhìn hắn một cách trông chờ.
“Tin từ hiện trường. Ta tìm được đôi ủng của hung thủ – hoặc là đôi ủng leo núi nào đó khớp với dấu ủng rời khỏi xác chết. Đôi ủng đang trên đường tới chỗ người của cô ở phòng giám định đấy.”
Cô tóc đỏ gật gù rồi bắt đầu gõ gõ bàn phím.
“Tôi nhớ anh nói dấu chân đi đến một nơi xa xôi nào đó thì mất dấu mà,” Rodriguez nói, như thể y vừa bắt tại trận Hardwick nói dối điều gì đó.
“Đúng,” Hardwick nói mà không nhìn y.
“Vậy thì đôi ủng tìm được ở đâu?”
“Cũng ở cái chỗ xa xôi ấy. Trên một cái cây gần chỗ mất dấu. Treo lủng lẳng trên cành.”
“Anh muốn nói với tôi là tên hung thủ của anh leo cây, tháo ủng ra, rồi để lại trên đó ư?”
“Ờ… ở đâu… ý tôi là, sau đó hắn làm gì?”
“Chúng ta có biết cái khỉ gì đâu. Có lẽ đôi ủng sẽ chỉ cho ta đi đúng hướng.”
Rodriguez thốt ra một giọng cười gay gắt như tiếng quát. “Cứ hy vọng vậy đi. Trong khi chờ đợi, ta trở lại nghị trình nào. Sheridan, hình như anh bị ngắt lời chỗ nào đó.”
“Cùng với quả bóng của anh ta trên không trung,” giọng thì thầm của nghệ sĩ nói tiếng bụng cất lên.
“Không hẳn là gián đoạn đâu,” Kline nói, cười nhăn nhó ngụ ý. “Tình thế nào tôi cũng có thể xoay chuyển theo hướng có lợi.”
“Thật ra, tôi thích nghe hơn – nhất là nghe tin tức trong ngành. Càng hiểu rõ vấn đề thì tôi càng giúp được nhiều.”
“Tùy anh thôi, Sheridan. Hardwick, anh dường như thu hút được sự chú ý của mọi người. Anh trình bày những dữ kiện còn lại đi nào – càng ngắn gọn càng tốt. Tuy công tố viên đây rất rộng lượng chuyện giờ giấc, nhưng cậu ấy còn nhiều chuyện phải làm. Nhớ kỹ đấy nhá.”
“Được rồi, mấy nhóc, các cậu nghe đại úy nói rồi đấy. Đây là phiên bản nén gọn đây, tôi nói một lần thôi. Không được mơ mộng giữa ban ngày, không hỏi những câu ngu si. Nghe này.”
“Này!” Rodriguez giơ cả hai tay lên. “Tôi không muốn mọi người cảm thấy là không được hỏi gì cả.”
“Nói bóng bẩy thôi, sếp ạ. Tôi chỉ không muốn giữ ủy viên công tố quận lâu hơn mức cần thiết thôi.” Hắn đọc rõ chức danh của Kline bằng một giọng tôn trọng được khoa trương đúng mức để có thể vừa sỉ nhục bóng gió vừa giữ ở mức độ mơ hồ không ai bắt bẻ được.
“Được thôi, được thôi,” Rodriguez nói kèm một cái vẫy tay nôn nóng. “Nói đi.”
Hardwick bắt đầu thuật lại một cách đơn điệu những dữ kiện đang có. “Trong khoảng thời gian 3 đến 4 tuần trước án mạng, nạn nhân nhận được nhiều lá thư mang tính quấy nhiễu hoặc đe dọa, cùng với hai cuộc gọi, một cuộc do trợ lý của Mellery nhận và ghi lại, còn cuộc kia do nạn nhân nhận và ghi âm lại. Bản sao của những thứ này chúng tôi sẽ phân phát sau. Vợ nạn nhân là Cassandra (còn gọi là Caddy) trình báo rằng vào đêm xảy ra án mạng vợ chồng bà ta bị một cuộc gọi lúc 1 giờ sáng đánh thức, nhưng khi bắt máy thì người gọi cúp ngay.”
Rodriguez chưa kịp mở miệng thì Hardwick đã đoán được câu hỏi và trả lời. “Chúng tôi đã liên lạc với công ty điện thoại để xem lịch sử cuộc gọi có định và cuộc gọi di động vào đêm xảy ra án mạng và vào thời điểm hai cuộc gọi trước đó. Tuy nhiên, xét thấy mức độ hoạch định kỹ lưỡng trong việc thực hiện tội ác này, tôi không nghĩ hung phạm lại để lại dấu vết điện thoại cho ta theo dõi.”
“Để xem sao đã,” Rodriguez nói.
Gurney kết luận rằng tay đại úy này là người luôn dành ưu tiên hàng đầu cho việc phải ra vẻ kiểm soát được bất kỳ tình huống hay cuộc đàm thoại nào mà y tham gia.
“Vâng, thưa sếp,” Hardwick nói bằng cái vẻ kính cẩn khoa trương, tình tế khó bắt bẻ, mà hắn đã rất thành thục. “Trở lại câu chuyện, vài phút sau họ bị nhiều tiếng động gần nhà quấy nhiễu – những tiếng động mà bà vợ mô tả là tiếng rít của thú vật. Khi tôi trở lại và hỏi bà ta lần nữa thì bà ta nói là bà ta nghĩ chắc có lẽ là mấy con gấu chó đánh nhau. Chồng bà ta ra xem. Một phút sau bà ta nghe một tiếng mà theo bà ta mô tả là giống như tiếng một cái tát bị bóp nghẹt, sau đó không lâu chính bà ta đi ra kiểm tra. Bà ta thấy chồng nằm trên sân hiên ngay bên ngoài cửa sau. Máu lan xuống tuyết từ vết thương trên cổ họng. Bà ta hét lên – hoặc nhớ là có hét – cố sức cầm máu nhưng không được, xong bà ta chạy trở lại vào trong nhà, gọi 911.”
“Anh có biết chắc bà ta có thay đổi tư thế xác chết khi có cầm máu hay không đâu, đúng không nào?” Rodriguez khiến câu hỏi nghe như một câu hỏi mẹo.
“Bà ta nói là không nhớ.”
Rodriguez trông có vẻ hoài nghi.
“Tôi tin bà ta,” Hardwick nói.
Rodriguez nhún vai bằng một cách vẻ như đánh giá thấp niềm tin của tất cả những người đàn ông khác. Liếc qua những ghi chép của mình, Hardwick tiếp tục bài tường thuật không chút cảm xúc của mình.
“Cảnh sát Peony đến hiện trường trước tiên, sau đó là xe của văn phòng cảnh sát trưởng, tiếp theo là quân nhân Calvin Maxon từ doanh trại địa phương. Cục Điều tra Tội phạm được liên hệ lúc 1 giờ 56 phút sáng. Tôi đến hiện trường vào lúc 2 giờ 20 phút sáng, còn nhân viên khám nghiệm tử thi thì đến lúc 3 giờ 25 phút sáng.”
“Nhắc tới Thrasher mới nhớ,” Rodriguez giận dữ nói, “anh ta có gọi cho ai nói là sẽ đến trễ không vậy?”
Gurney liếc dọc dãy mặt đang ngồi ở bàn. Chắc họ đã quá quen với cái tên lạ lùng này của người khám nghiệm tử thi nên chẳng ai có phản ứng gì. Cũng chẳng thấy ai có hứng thú gì với câu hỏi ấy – cho thấy tay bác sĩ này là một trong những người đến trễ kinh niên. Rodriguez nhìn chằm chằm chỗ cửa phòng, nơi lẽ ra Thrasher đã phải đi vào cách đây mười phút, vừa nhìn vừa giận âm ỉ trong lòng vì có người đã làm trái lịch làm việc của y.
Như thể bấy lâu Thrasher vẫn đang thập thò sau cửa chờ đội trưởng giận sôi lên, cánh cửa bật mở và một người đàn ông cao lêu nghêu đi loạng choạng vào phòng cùng một chiếc cặp hồ sơ kẹp dưới tay, một bình cà phê trên tay, trông như đang nói dở.
“… thi công bị đình trệ, công nhân làm việc. Ha! Mấy tấm biển ghi vậy mà.” Ông ta mỉm cười rạng rỡ với nhiều người theo tuần tự. “Hình như cái từ làm việc có nghĩa là đứng đực ra gãi háng thì phải. Nhiều vụ như vậy lắm. Không có đào lát gì nhiều đâu. Tôi có thấy đào lát gì đâu. Một lũ lỗ mãng thiếu năng lực chỉ biết cản đường.” Ông ta ngó nhìn Rodriguez qua cặp kính lệch. “Chuyện đó chắc cảnh sát bang chẳng làm gì được đâu, phải không đại úy?”
Rodriguez phản ứng lại bằng một nụ cười mệt mỏi của một người nghiêm túc buộc phải đối phó với lũ ngốc. “Chào buổi trưa, bác sĩ Thrasher ạ.”
Thrasher đặt cặp và cà phê lên chiếc bàn nằm trước chiếc ghế trống còn lại. Ánh mắt ông ta phóng quanh phòng, dừng lại ở ủy viên công tố quận.
“Chào Sheridan,” ông ta nói cùng chút ngạc nhiên. “Tham gia vụ này từ sớm ư?”
“Anh có thông tin thú vị cho chúng tôi phải không Walter?”
“Phải, đúng là có đấy. Ít ra là một ngạc nhiên nho nhỏ.”
Háo hức muốn giữ quyền kiểm soát thấy rõ, Rodriguez diễn trò lèo lái tiếp cuộc họp đang bỏ dở.
“Này mọi người, tôi thấy đây là cơ hội để biến sự chậm trễ của vị bác sĩ đây theo hướng có lợi cho ta. Trước giờ ta đã nghe phân tích các diễn biến xung quanh việc phát hiện xác rồi. Dữ kiện sau cùng mà tôi nghe có liên quan đến việc bác sĩ khám nghiệm đến hiện trường. Bác sĩ khám nghiệm đã đến đây rồi này – vậy tại sao bây giờ ta không gộp báo cáo của ông ta vào bài tường thuật nhỉ?”
“Ý hay đấy,” Kline nói, mắt vẫn không rời khỏi Thrasher.
Vị bác sĩ bắt đầu nói như đã có ý định trình bày ngay từ phút ông ta đến.
“Một tuần sau quý vị sẽ có vẫn bản báo cáo đầy đủ. Hôm nay tôi chỉ trình bày sơ lược thôi.”
Đó có phải là một câu nói hóm hỉnh hay không, Gurney trầm ngâm, thì cũng chẳng có ai đánh giá cao cả. Có lẽ nó được lặp đi lặp lại thường xuyên đến nỗi khán giả đã trơ tai.
“Một vụ giết người rất lý thú,” Thrasher nói tiếp, tay với lấy bình cà phê trên bàn. Ông ta uống một ngụm lâu, trầm tư rồi để bình cà phê lại trên bàn. Gurney mỉm cười. Con cò tóc hung bù xù này có sở thích canh thời gian và ưa những gì kịch tính. “Mọi thứ không hoàn toàn như bề ngoài ban đầu đâu.”
Ông ngừng nói, chờ cho căn phòng sắp nổ tung vì sốt ruột.
“Khám nghiệm tử thi sơ bộ tại hiện trường dẫn đến giả thuyết rằng nguyên nhân cái chết là đứt động mạch cảnh do bị đâm chém nhiều nhát bằng một cái chai vỡ được phát hiện sau đó tại hiện trường. Tuy nhiên, kết quả mổ xác ban đầu cho thấy nguyên nhân cái chết là đứt động mạch cảnh do một viên đạn duy nhất bắn vào cổ nạn nhân ở cự ly gần. Vết thương của chai là vết thương bồi vào vết thương của súng sau khi nạn nhân đã gục xuống. Có ít nhất mười bốn nhát đâm, có lẽ đến hai mươi nhát, nhiều nhát để lại mảnh thủy tinh trong mô cổ, trong đó bốn mảnh xuyên thẳng qua cơ cổ và khí quản rồi đâm lòi ra đằng sau gáy.”
Có một khoảng lặng ở bàn, kèm theo là nhiều vẻ mặt bối rối và hứng thú khác nhau. Rodriguez chụm đầu ngón tay lại để tạo thành hình tháp chuông. Y là người lên tiếng đầu tiên.
“Vết đạn ư?”
“Vết đạn,” Thrasher nói, bằng sự thích thú của một người thích khám phá những thứ không ai thấy trước được.
Rodriguez nhìn Hardwick với vẻ cáo buộc. “Tại sao chẳng nhân chứng nào của anh nghe tiếng súng hả? Anh nói với tôi có ít nhất hai mươi khách ở trang viên mà, nếu vậy thì lẽ nào bà vợ lại không nghe?”
“Bà ta có nghe.”
“Gì hả? Anh biết bao lâu rồi? Sao tôi không biết?”
“Bà ta có nghe mà không biết,” Hardwick nói. “Bà ta nói có nghe tiếng gì đó như tiếng một cái tát bị bóp nghẹt. Lúc đó bà ta chưa thấy tiếng đó có ý nghĩa gì cả, và tôi cũng chẳng thấy có nghĩa lý gì, mãi đến bây giờ mới hiểu.”
“Bị bóp nghẹt ư?” Rodriguez hỏi một cách ngờ vực. “Anh muốn nói là nạn nhân bị bắn chết bằng súng giảm thanh ư?”
Mức độ chú ý của Sheridan Kline tăng vọt lên một bậc.
“Vậy là rõ rồi còn gì!” Thrasher la to.
“Rõ gì cơ?” Rodriguez và Hardwick đồng thanh hỏi.
Cặp mắt của Thrasher ánh lên vẻ đắc thắng. “Rõ tại sao có lông ngỗng trong vết thương.”
“Cả trong mẫu máu quanh chỗ cái xác nữa.” Giọng cô tóc đỏ nghe không thể phân biệt được là nam hay nữ cũng như bộ com lê của cô ta.
Thrasher gật đầu. “Tất nhiên trong đó cũng có nữa.”
“Trêu ngươi thật,” Kline nói. “Ai trong các anh hiểu chuyện thì bỏ chút thời gian nói cho tôi hiểu được không?”
“Lông ngỗng ấy!” Thrasher hét một tiếng như thể Kline bị nặng tai.
Vẻ mặt ngơ ngác thực tình của Kline bắt đầu phủ đầy băng giá.
Hardwick lên tiếng khi chợt hiểu ra sự thật. “Tiếng súng hãm thanh, cùng với sự xuất hiện của lông ngỗng, cho thấy hiệu ứng hãm thanh có lẽ được tạo ra bằng cách bọc súng trong một loại vật liệu bằng lông nào đó – có thể là áo khoác trượt tuyết hoặc áo khoác có mũ trùm đầu.”
“Anh muốn nói ta có thể hãm thanh của súng bằng cách cầm nó bên trong áo khoác trượt tuyết ư?”
“Không hẳn thế. Ý tôi là nếu tôi cầm súng trong tay và quấn quanh nó – nhất là quanh họng súng – một loại vật liệu bằng lông đủ dày, thì tiếng nổ có thể giảm xuống thành tiếng của một cái tát, nếu nghe từ bên trong một căn nhà đóng cửa sổ được cách ly tốt.”
Lời lý giải dường như thỏa mãn được mọi người trừ Rodriguez. “Tôi muốn xem kết quả vài cuộc thử nghiệm trước khi tin chuyện đó.”
“Anh không nghĩ đó là bộ phận hãm thanh thực sự sao?” Kline nghe có vẻ thất vọng.
“Có thể chứ,” Thrasher nói. “Nhưng nếu vậy anh phải có cách giải thích khác cho mấy cái hạt lông ngỗng li ti đó chứ.”
“Vậy là,” Kline nói, “hung thủ bắn nạn nhân ở cự ly gần…”
“Không phải ở cự ly gần,” Thrasher xen vào. “Ở cự ly gần theo nghĩa là họng súng gần chạm vào nạn nhân, nhưng không có chứng cứ nào cho thấy như vậy.”
“Vậy thì bắn từ khoảng cách bao xa?”
“Khó nói lắm. Trên cổ có vài vết bỏng lấm chấm, rời rạc do thuốc súng để lại, nghĩa là súng phải bắn trong vòng một mét rưỡi, nhưng vết bỏng không nhiều nên không tạo ra hình thù gì. Khoảng cách bắn có thể còn gần hơn nữa, và vật liệu bao quanh họng súng đã giảm thiểu vết bỏng do thuốc súng.”
“Tôi có thấy anh tìm được viên đạn nào đâu.” Rodriguez nhằm câu phê bình vào một điểm trên không trung giữa Thrasher và Hardwick.
Hàm Gurney cứng lại. Anh đã làm việc cho nhiều người như Rodriguez – những kẻ lầm tưởng rằng ham muốn giành quyền kiểm soát của mình là thuật lãnh đạo và luôn miệng phản đối là ngoan cường.
Thrasher đáp lại trước tiên. “Viên đạn trượt chỗ đốt sống. Ở chỗ có thể chặn lại viên đạn là mô cổ thì lại không có nhiều. Ta có một vết thương vào và một vết thương ra – và vết thương nào cũng khó phát hiện bởi tổn thương do những vết đâm bồi vào sau đó.” Nếu ông ta đang vờ vịt để câu được lời khen, Gurney nghĩ, thì đây là một cái hồ chết chẳng có gì để câu. Rodriguez chuyển ánh mắt dò hỏi sang Hardwick. Giọng Hardwick một lần nữa suýt tỏ thái độ bất phục.
“Chúng tôi không tìm đạn. Chúng tôi không có lý do gì để tin là có đạn cả.”
“Giờ các anh có lý do rồi đấy.”
“Luận điểm hay đấy, thưa sếp,” Hardwick nói với một chút giễu cợt. Hắn rút điện thoại ra rồi nhập vào một số, vừa nhập vừa đi xa ra khỏi bàn. Dù hắn nói nhỏ nhưng ai cũng biết hắn đang nói chuyện với một sĩ quan tại hiện trường và yêu cầu anh ta ưu tiên tìm kiếm viên đạn. Khi hắn trở lại bàn, Kline hỏi có hy vọng tìm được viên đạn bắn từ ngoài nhà không.
“Thường thì không,” Hardwick nói. “Nhưng trong trường hợp này có khả năng đó. Nếu xét đến vị trí xác chết, ta có thể thấy nạn nhân có lẽ bị bắn khi đang xoay lưng về phía nhà. Nếu đạn không bị lệch nhiều thì ta có thể tìm thấy trong lớp gỗ bọc quanh tường ngoài.”
Kline gật đầu chầm chậm. “Được rồi, vậy thì, một phút trước tôi định nói như vậy này, để xem tôi có hiểu đúng vấn đề không nhé – hung thủ bắn nạn nhân ở cự ly gần, nạn nhân gục xuống đất, động mạch cảnh bị đứt, máu bắn ra từ cổ. Sau đó hung thủ đập vỡ một cái chai rồi ngồi xổm xuống cạnh xác và đâm xác 14 nhát. Có phải bức tranh như vậy không?” Kline hỏi một cách ngờ vực.
“Ít nhất 14 nhát thôi, có thể nhiều hơn,” Thrasher nói. “Khi nhát đâm chồng chất lên nhau thì rất khó đếm chính xác là bao nhiêu.”
“Tôi hiểu, nhưng ý của tôi là, tại sao lại vậy?”
“Xác định động cơ không phải là lĩnh vực chuyên môn của tôi,” Thrasher nói như thể khái niệm này ngang hàng về mặt khoa học với việc giải mã giấc mơ, “hãy hỏi các đồng chí trong tổ điều tra của chúng ta ở đây về vấn đề đó.”
Kline quay sang Hardwick. “Cái chai vỡ là một hung khí tiện tay thôi, một hung khí nhất thời, một hung khí ở quán rượu thay cho dao hay súng. Một người đã có súng nạp đầy đạn rồi còn mang theo chai rượu vỡ làm gì nữa, và tại sao hắn lại dùng chai sau khi đã giết chết nạn nhân bằng súng chứ?”
“Để bảo đảm là nạn nhân chết hẳn chăng?” Rodriguez thử giải thích.
“Vậy sao không bắn nạn nhân một phát nữa là xong? Tại sao không bắn vào đầu? Tại sao lúc đầu không bắn vào đầu cho rồi? Bắn ở cổ làm gì?”
“Có lẽ hắn là một tay súng dở ẹc.”
“Từ cự ly cách xác một mét rưỡi ư?” Kline quay sang Thrasher. ”Chúng ta có chắc về trình tự ra tay không? Bắn xong mới đâm ư?”
“Chắc chứ, theo cách nói trước tòa thì, chắc đến một mức độ hợp lý về mặt chuyên môn. Vết bỏng do thuốc súng tuy ít nhưng rất rõ. Nếu lúc hung thủ nổ súng, vùng cổ đã dính đầy máu trước đó do bị đâm thì không thể nào thấy được vết bỏng rõ đến vậy…”
“… và ta đã tìm được viên đạn từ lâu rồi.” Cô tóc đỏ nói một cách nhỏ nhẹ, tỉnh rụi mà chỉ một vài người nghe được. Kline nằm trong số đó. Gurney cũng vậy. Anh đang tự hỏi khi nào thì có người hiểu được luận điểm này. Hardwick không biết đang nghĩ gì nhưng không có vẻ gì là ngạc nhiên.
“Cô nói vậy là sao?” Kline hỏi.
Cô ta trả lời mà không đưa mắt ra khỏi màn hình máy tính. “Nếu trong đợt tấn công đầu tiên nạn nhân bị đâm 14 nhát ở cổ, trong đó 4 nhát xuyên thẳng qua cổ, thì khó có khả năng nạn nhân còn đứng vững được. Và nếu ông ta bị bắn từ trên xuống khi đang nằm ngửa thì viên đạn phải nằm ở phần đất dưới xác chứ.”
Kline ném cho cô ta một cái nhìn cân nhắc. Gurney trầm ngâm nhận thấy không như Rodriguez, Kline có đủ trí tuệ để tôn trọng trí tuệ.
Rodriguez cố gắng lấy lại kiểm soát. “Loại đạn chúng ta muốn tìm có cỡ bao nhiêu hả bác sĩ?”
Thrasher sừng sộ nhìn qua nửa trên cặp kính đang trượt xuống cái mũi dài ngoằng. “Tôi phải làm gì để mấy người hiểu những dữ kiện đơn giản nhất của bệnh lý học đây hả?”
“Tôi biết, tôi biết,” Rodriguez cáu kỉnh nói, “da thịt rất mềm dẻo, co được, giãn được, ta không thể nói chính xác được, vân vân và vân vân. Nhưng theo anh thì nòng đạn xấp xỉ loại 0.22 hay 0.44 không? Đoán có cơ sở nào.”
“Tôi không ăn lương để đoán già đoán non. Vả lại, năm phút sau thì chẳng ai còn nhớ đó chỉ là suy đoán cả. Người ta chỉ nhớ bác sĩ khám nghiệm nói cái gì đó 0.22 nhưng hóa ra lại sai.” Trong mắt ông ta ánh lên một hồi ức lạnh lùng, nhưng ông ta chỉ nói, “Các anh cứ moi viên đạn ở sau nhà ra rồi đưa cho phòng đạn đạo thì biết thôi…”
“Bác sĩ,” Kline cắt ngang như một đứa bé đang thẩm vấn Ông Phù thủy, “có thể nào ước lượng khoảng thời gian chính xác giữa tiếng súng và mấy nhát đâm sau đó không?”
Giọng điệu của câu hỏi dường như xoa dịu được Thrasher. “Nếu khoảng thời gian giữa lúc bắn và lúc đâm đáng kể, và cả hai vết thương đều chảy máu, thì chúng ta sẽ tìm được máu ở hai giai đoạn đông máu khác nhau. Trong trường hợp này tôi nghĩ hai loại vết thương xảy ra theo trình tự khá gần nhau nên không thể so sánh được. Ta chỉ có thể nói rằng khoảng thời gian này tương đối nhỏ, còn đó là mười giây hay mười phút thì khó nói lắm. Nhưng dù sao đó cũng là câu hỏi hay về bệnh lý học,” ông ta kết luận, phân biệt rõ câu hỏi này với câu hỏi của tay đại úy.
Khóe miệng của tay đại úy giật nhanh. “Nếu hiện tại anh chỉ có bấy nhiêu thông tin cho chúng tôi thì chúng tôi sẽ không giữ anh nữa, bác sĩ. Tôi sẽ nhận được văn bản báo cáo không trễ hơn một tuần chứ?”
“Tôi có nói như vậy rồi thì phải.” Thrasher cầm lên chiếc cặp đầy phồng nằm trên bàn, gật đầu cười nụ với tay công tố viên, rồi ra khỏi phòng.