← Quay lại trang sách

Chương 21 Những Việc Ưu Tiên

“Sa lầy vào mấy thứ thơ thẩn này là chúng ta sẽ vắt giò lên cổ mà chạy trong năm tới cho xem,” Hardwick nói. Hắn phát âm rõ chữ thơ thẩn như thể đó là loại sình lầy bẩn thỉu nhất.

Những bức thông điệp của tên hung thủ được trải ra trên một chiếc bàn lớn giữa phòng họp quản trị của viện, nơi tổ điều tra tội phạm đã trưng dụng làm phòng hợp lưu động phục vụ cho giai đoạn điều tra sâu ban đầu.

Đầu tiên là lá thư gồm hai phần của ‘X. Arybdis’ đưa ra lời tiên đoán huyền bí rằng con số Mellery sẽ nghĩ đến là số 658 và đòi số tiền 289,87 đô để bù cho chi phí tìm ra y. Sau đó, ba lá thư kia với mức độ đe nẹt ngày càng cao đến bằng đường bưu điện. (Lá thư thứ ba trong số này được Mellery bỏ vào túi ni lông đựng thức ăn để giữ lại dấu vân tay, như đã nói với Gurney.) Bày ra trên bàn theo thứ tự còn có tấm séc 289,87 đô của Mellery bị trả lại kèm bức thư ngắn của Gregory Dermott cho biết không có ai tên ‘X. Arybdis’ ở địa chỉ trên séc; bài thơ hung thủ đã đọc qua điện thoại cho trợ lý của Mellery ghi lại; băng ghi âm đoạn nói chuyện qua điện thoại của hung thủ chiều hôm đó với Mellery, trong đó Mellery đề cập đến con số 19; lá thư tìm được trong hộp thư của viện tĩnh tu đoán Mellery sẽ chọn con số 19; và bài thơ cuối cùng tìm thấy trên xác chết. Một lượng chứng cứ rất đáng kể.

“Anh có biết gì về cái bịch ni lông ấy không?” Hardwick hỏi. Nói về ni lông, giọng hắn nghe ỉu xìu như khi nói về thơ văn.

“Lúc ấy Mellery hãi hùng nghiêm trọng,” Gurney nói. “Anh ta nói với tôi rằng muốn giữ lại dấu vân tay nào đó có thể để lại trên thư.”

Hardwick lắc đầu. “Mấy thứ CSI[10] vớ vẩn đây mà. Ni lông nhìn có vẻ công nghệ cao hơn giấy. Chứng cứ mà để trong túi ni lông sẽ bị hư hại vì ẩm. Mấy thằng ngu.”

Một viên cảnh sát mặc thường phục đeo huy hiệu cảnh sát Peony trên nón đang đứng chỗ cửa với nét mặt ưu phiền.

“Gì hả?” Hardwick nói như thách vị khách ấy mang đến cho hắn một vấn đề nữa.

“Nhóm kỹ thuật muốn vào. Được không?”

Hardwick gật đầu, nhưng sự chú ý của hắn đã trở lại bộ sưu tập những lời đe dọa có vần điệu đang bày ra khắp bàn.

“Chữ viết gọn gàng đấy,” hắn nói, mặt nhăn nhó ghê tởm. “Anh nghĩ sao hả Dave? Anh nghĩ có khi nào ta đang điều tra một vụ ni cô giết người không?”

Nửa phút sau, các kỹ thuật viên xuất hiện trong phòng họp ban giám đốc cùng những chiếc túi đựng chứng cứ, một laptop, một máy in mã vạch xách tay để dán nhãn tạm thời vào tất cả những món đồ bày ra trên bàn. Hardwick yêu cầu mỗi vật chứng phải phô tô xong mới gửi đến phòng thí nghiệm ở Albany để kiểm tra dấu vân tay tiềm tàng và phân tích chữ viết, giấy và mực – đặc biệt là bức thư để lại trên xác nạn nhân.

Gurney lặng lẽ quan sát Hardwick làm việc trong vai trò giám sát viên hiện trường. Một vụ án kéo dài nhiều tháng hay nhiều năm thường phụ thuộc nhiều vào năng lực của người phụ trách hiện trường trong những giờ đồng hồ đầu tiên của quá trình điều tra. Theo Gurney thấy thì Hardwick thật sự đang làm việc rất hiệu quả. Anh ngồi nhìn hắn đọc tài liệu của thợ ảnh về ảnh chụp và nơi chụp để bảo đảm tất cả những khu vực có liên quan đều đã khám xét, kể cả những khu vực mấu chốt trong phạm vi trang viên, lối ra vào, tất cả dấu chân và vật chứng thấy được (ghế sân vườn, mẩu thuốc lá, chai vỡ), cái xác ở hiện trường ban đầu, và chỗ tuyết sũng máu xung quanh xác.

Hardwick cũng yêu cầu thợ ảnh tìm cách chụp toàn bộ trang viên và khu vực xung quanh nhìn từ trên cao – một quy trình không theo thông lệ, nhưng trong hoàn cảnh này, nhất là khi có một chuỗi dấu chân chẳng dẫn đến đâu, điều này là hợp lý.

Ngoài ra, Hardwick còn hội ý với bộ đôi thám tử trẻ để xác nhận họ đã thực hiện những cuộc thẩm vấn được phân công trước đó. Hắn gặp nhân viên thu thập chứng cứ cấp cao để xem lại danh sách các vật chứng thu thập được, và yêu cầu một trong những thám tử của anh ta sắp xếp đưa chó nghiệp vụ đến hiện trường vào sáng hôm sau – một dấu hiệu cho Gurney thấy Hardwick đang nghĩ rất nhiều về bài toán dấu chân. Sau cùng, hắn xem sổ ghi chép của lính gác ở cổng trước để bảo đảm không có ai xâm nhập hiện trường trái phép. Ngồi xem Hardwick tiếp nhận và đánh giá, lập kế hoạch ưu tiên và chỉ đạo, Gurney kết luận tay cảnh sát này vẫn đầy năng lực dưới áp lực như thuở hai người còn cộng tác. Hardwick là một tên khốn cục cằn thế nào thì cũng không thể phủ nhận hắn làm việc rất hiệu quả.

Vào 4 giờ 15 phút, Hardwick nói với anh, “Ngày dài đằng đẵng, mà anh có ăn tí lương nào đâu. Sao anh không về gia trang của anh đi?” Rồi hắn sững người lại một chút, như thể một ý nghĩ nào đó vừa đột kích hắn, đoạn nói tiếp, “Ý tôi là, chúng tôi không trả lương cho anh. Gia đình Mellery có trả lương cho anh không? Cứt thật, tôi cá là có. Tài năng lẫy lừng đâu có giá rẻ được.”

“Tôi không có giấy phép. Tôi muốn lấy tiền người ta cũng không được. Vả lại, tôi chẳng muốn làm thám tử tư ăn lương chút nào.”

Hardwick bắn cho anh một cái nhìn hoài nghi.

“Thật tình mà nói, ngay lúc này tôi nghĩ tôi sẽ nghe theo đề nghị của anh và kết thúc ở đây.”

“Anh nghĩ có thể tạt qua tổng bộ địa phương tầm trưa mai được không?”

“Kế hoạch gì thế?”

“Hai chuyện. Thứ nhất, chúng tôi cần lời khai của anh – quá khứ của anh với nạn nhân, phiên bản cách đây đã lâu và phiên bản hiện tại. Anh biết cách làm việc của chúng tôi mà. Thứ hai, tôi muốn anh dự một cuộc họp: một cuộc họp định hướng để mọi người làm việc ăn ý với nhau. Báo cáo sơ bộ về nguyên nhân cái chết, kết quả thẩm vấn nhân chứng, máu, dấu vân, hung khí, vân vân… Những giả thuyết ban đầu, những việc cần ưu tiên, những bước tiếp theo.. Những anh chàng như anh sẽ rất được việc, sẽ giúp chúng tôi đi đúng hướng, không lãng phí tiền thuế của dân. Không chia sẻ tài năng thiên bẩm phố thị của anh với những kẻ phàm phu quê mùa như chúng tôi là có tội đấy. Trưa mai nhé. Nếu mang theo được lời khai của anh thì tốt quá.”

Tay này cần phải tinh khôn ra vẻ. Như vậy mới nói lên được vị thế của hắn trên đời này. Hardwick Tinh Khôn, Tổ trọng án, Cục điều tra tội phạm, Cảnh sát Bang New York. Nhưng dưới lớp vỏ nhố nhăng ấy, Gurney cảm nhận được một sự thật: Hardwick rất cần sự giúp đỡ của anh trong một vụ án đang ngày càng trở nên lạ lùng.

Gurney lái xe về nhà mà như quên lãng cảnh vật xung quanh. Mãi đến khi lái lên con dốc cao của thung lũng, qua tiệm tạp hóa Abelard Dillweed một đoạn, anh mới nhận ra những đám mây tụ lại trong ngày đã biến mất, thay vào đó là vầng sáng rực rỡ của mặt trời hoàng hôn rọi lên mạn Tây những quả đồi. Những ruộng ngô đầy tuyết tiếp giáp với con sông khúc khuỷu tắm trong một bức tranh màu phấn sống động đến nỗi mắt anh như sáng lên trước khung cảnh đó. Rồi, với một tốc độ đáng kinh ngạc, mặt trời màu san hô bỗng hạ xuống rặng núi đối diện, và vầng sáng bị dập tắt. Những hàng cây trụi lá lại mang một màu đen thẫm. Và tuyết trở lại một màu trắng trống trải.

Gần đến nút rẽ, anh lái chậm lại, mắt để ý một con quạ bên mép đường. Con quạ đang đậu trên một thứ gì đó khiến nó cao hơn mặt đường vài phân. Khi đi ngang hàng với nó, anh nhìn kỹ hơn. Nó đang đậu trên xác một con thú có túi ô pốt. Lạ lùng thay, thông thường quạ rất thận trọng, nhưng con quạ này không bay đi mà cũng không có biểu hiện sợ sệt xe cộ đi ngang qua. Nó đứng bất động, toát lên một vẻ gì đó như là mong ngóng – làm cho hoạt cảnh lạ lẫm trước mắt có cái chất của cơn mộng mị.

Gurney rẽ vào đường và xuống số xe để đi chầm chậm lên đoạn đường dốc khúc khuỷu – tâm trí anh choán đầy cảnh tượng con chim màu đen ấy đang đậu một cách cảnh giác, trông đợi trên xác con vật trong bóng hoàng hôn nhạt dần.

Còn hơn 3 cây số nữa – 5 phút nữa – là tới giao lộ dẫn tới nhà Gurney. Đến đoạn đường quê chật hẹp dẫn từ kho thóc đến căn nhà thì không khí đã u ám và lạnh lẽo hơn. Một trận gió tuyết như một bóng ma xoáy dọc bãi cỏ, gần đến khu rừng tối đen thì tan biến.

Anh dừng xe gần nhà hơn mọi khi, bẻ ngược cổ áo để chống chọi cơn lạnh, rồi hối hả chạy đến chỗ cửa sau. Anh vừa vào bếp thì đã nhận ra thứ âm thanh trống trải không lẫn vào đâu được báo hiệu Madeleine đã đi vắng. Như thể quanh cô có tiếng kêu yếu ớt của dòng điện, một nguồn năng lượng chiếm đầy không gian khi nó hiện hữu và để lại một sự trống rỗng như sờ thấy được khi nó mất đi.

Trong không khí còn có thứ khác, cái cảm xúc còn đọng lại sáng hôm ấy, sự hiện diện u tối của chiếc hộp từ tầng hầm, chiếc hộp vẫn nằm trên bàn trà bên phía phòng không hắt bóng, dải băng trắng mềm mại của nó vẫn chưa ai động vào.

Vòng nhanh qua phòng tắm thông với gian trữ thức ăn, anh đi thẳng đến phòng làm việc và kiểm tra tin nhắn trên điện thoại. Chỉ có một tin. Giọng nói của Sonya – óng mượt như xa tanh, như đàn vi ô lông xen. “Chào David, tôi có khách hàng này mê mệt tác phẩm của anh đây. Tôi nói với ông ấy là anh đang hoàn tất một tác phẩm nữa, và tôi muốn nói cho ông ấy biết khi nào thì tác phẩm hoàn thành. Mê mệt không phải là một từ gì ghê gớm lắm đâu, còn chuyện tiền bạc chắc không thành vấn đề. Gọi cho tôi càng sớm càng tốt nhé. Chúng ta cần cùng nhau bàn bạc vấn đề này. Cảm ơn anh David.”

Anh định phát lại tin nhắn thì nghe tiếng cửa sau mở ra đóng vào. Anh ấn nút ‘dừng’ trên máy để bỏ đoạn phát lại và gọi với ra, “Em đấy à?”

Không có tiếng trả lời, làm anh bực dọc.

“Madeleine,” anh gọi lớn hơn mức cần thiết.

Anh nghe tiếng cô trả lời, nhưng quá nhỏ nên anh không nghe được cô nói gì. Đó là giọng nói mà trong giây phút hằn học này đây, anh gọi nó là cái giọng ‘nhỏ theo kiểu thụ-động- gây-hấn’. Ý định đầu tiên của anh là ở lại trong phòng, nhưng như vậy có vẻ ấu trĩ quá, nên anh đi ra bếp.

Madeleine quay sang nhìn anh từ chỗ treo áo ở phía kia căn phòng nơi cô treo chiếc áo khoác màu cam có mũ. Tuyết vẫn còn lấm chấm khắp nơi trên vai áo, nghĩa là cô đã đi qua rừng thông.

“Ngoài trời đẹp ơi là đẹp,” cô vừa nói vừa luồn ngón tay vuốt mái tóc nâu dày, làm phồng chỗ tóc bị áo khoác làm xẹp. Cô bước vào gian trữ thức ăn, một phút sau đi ra, rồi liếc dọc ngang khắp mặt bếp.

“Anh để mấy hạt hồ đào ở đâu thế?”

“Gì cơ?”

“Chẳng phải em đã nhờ anh đi mua hồ đào sao?”

“Hình như em đâu có nói.”

“Chắc em không có nói. Hay chắc anh không nghe em nói?”

“Anh không biết,” anh nói. Anh thấy thật khó khớp đề tài này vào tâm trạng hiện tại. “Mai anh mua.”

“Mua ở đâu?”

“Ở tiệm Abelard.”

“Vào Chủ nhật ư?”

“Chủ… ờ phải, người ta đóng cửa mà. Em cần mấy hạt hồ đào làm gì cơ?”

“Em phụ trách làm món tráng miệng mà.”

“Món tráng miệng gì?”

“Elizabeth làm món rau trộn và nướng bánh mì, Jan thì làm món bò hầm đậu, còn em làm món tráng miệng.” Mắt cô tối sầm lại. “Anh quên rồi ư?”

“Mai họ đến ư?”

“Đúng vậy.”

“Mấy giờ?”

“Có vấn đề gì ư?”

“Trưa mai anh phải giao lời khai viết tay cho tổ điều tra.”

“Vào Chủ nhật ư?”

“Đây là một vụ điều tra án mạng mà,” anh uể oải nói, mong sao lời nói của mình nghe không phải như châm biếm.

Cô gật đầu. “Vậy là mai anh đi cả ngày rồi?”

“Trong ngày thôi.”

“Trong ngày là bao lâu?”

“Chúa ạ, em biết bản chất của những chuyện như thế này mà.

Sự buồn bã và giận dữ đang ganh đua trong mắt cô làm Gurney bất an hơn cả cái tát tai. “Vậy chắc mai anh về nhà lúc nào đó không biết, cũng có thể ăn tối với em và mọi người được, mà cũng có thể không ăn tối được,” cô nói.

“Anh phải giao cho người ta bản lời khai có chữ ký với tư cách là nhân-chứng-tiền-vụ-án. Anh có muốn làm thế đâu.” Giọng anh đột ngột lên cao, sửng sốt, phun từng chữ vào mặt cô. “Có nhiều thứ trong đời chúng ta buộc phải làm. Đây là nghĩa vụ pháp lý – không phải là chuyện muốn hay không muốn. Anh đâu có soạn ra thứ luật pháp chết tiệt ấy!”

Cô nhìn anh trân trân vẻ mệt mỏi cũng bộc phát như cơn giận của anh. “Anh vẫn chưa thấy vấn đề ư?”

“Vấn đề gì?”

“Vấn đề là bộ não của anh chỉ bận rộn nào giết người, cố ý gây thương tích, rồi máu me, quái vật, kẻ dối trá, người bị tâm thần, đến nỗi chẳng còn chỗ cho thứ khác nữa.”