Chương 29 Đi Ngược
Tháng Mười một là tháng anh không thích chút nào, cái tháng của ánh sáng yếu ớt, lấp lửng lê bước giữa thu và đông.
Cảm nhận về mùa dường như làm trầm trọng hơn cái cảm giác anh đang bước loạng choạng trong màn sương che phủ vụ án Mellery, như một kẻ mù không thấy thứ gì đó ngay trước mặt mình.
Hôm ấy khi trở về nhà từ Peony, ngược lại với tính cách vốn có, anh quyết định chia sẻ trăn trở của mình với Madeleine, cô đang ngồi ở chiếc bàn bằng gỗ thông nhâm nhi từng giọt trà và mẩu bánh nam việt quất cuối cùng.
“Anh muốn nghe ý kiến của em về một chuyện,” anh nói, ngay lập tức hối hận vì đã lựa chọn sai từ. Madeleine không thích những từ như ý kiến.
Cô nghiêng đầu một cách tò mò. Anh xem đó là lời mời gọi.
“Viện Mellery nằm trên khoảng đất 6,6 hecta giữa đường Filchers Brook và đường Thombush trong vùng đồi núi nằm phía trên ngôi làng. Khoảng 6 hecta là đất rừng, chắc khoảng 0,6 hecta là cỏ, luống hoa, khu vực để xe, và 3 tòa nhà – gồm giảng đường chính là một, ở đây có văn phòng làm việc và nhà khách, tư dinh của Mellery là hai, và kho thóc chứa trang thiết bị bảo trì là ba.”
Madeleine ngước mắt nhìn đồng hồ trên tường nhà bếp, còn anh thì tiếp tục gấp gáp. “Cảnh sát có mặt ở hiện trường tìm thấy một loạt dấu chân từ đường Filchers Brook đi vào trang viên và dẫn đến một chiếc ghế sau kho. Từ ghế, dấu chân đi đến vị trí Mellery bị giết rồi từ đó đến một nơi cách đó hơn 800 mét trong rừng, ở đây thì dấu chân mất hẳn. Không còn dấu chân nữa. Không có manh mối nào cho thấy người để lại dấu chân đến tận chỗ ấy lại tẩu thoát bằng cách nào mà không để lại thêm dấu chân nào khác.”
“Chuyện đùa đấy ư?”
“Anh đang mô tả chứng cứ có thực ở hiện trường mà.”
“Còn con đường mà anh đề cập kia là gì?”
“Đường Thombush cách dấu chân cuối cùng hơn ba mươi mét.”
“Con gấu quay lại rồi kìa,” Madeleine nói sau một khoảng lặng ngắn.
“Gì hả?” Gurney nhìn cô trân trân, ngơ ngác.
“Con gấu.” Cô hất hàm về phía cửa sổ bên hông nhà.
Giữa cửa sổ và những luống hoa đang ngủ dưới lớp sương muối, một chiếc gậy chăn cừu bằng thép làm giá đỡ cóng thức ăn cho chim sẻ đã bị uốn cong đụng đất, còn cóng thức ăn thì bị vỡ ra một nửa.
“Để lát anh lo,” Gurney nói, bực dọc trước lời nhận xét lạc đề của cô. “Em có phản ứng gì với vấn đề về dấu chân lúc nãy không?”
Madeleine ngáp. “Em nghĩ nó ngô nghê quá, còn người thực hiện thì rất điên rồ.”
“Nhưng hắn thực hiện bằng cách nào mới được?”
“Cũng giống như cái trò đoán số của hắn vậy.”
“Ý em là sao?”
“Ý em là, hắn thực hiện bằng cách nào đi nữa thì có khác biệt gì đâu?”
“Em nói tiếp đi,” Gurney nói, sự tò mò của anh nhỉnh hơn sự bực dọc một chút.
“Bằng cách nào không quan trọng. Câu hỏi cần đặt ra là tại sao, và nếu vậy thì câu trả lời hiển nhiên quá còn gì.”
“Câu trả lời hiển nhiên ấy là…?
“Hắn muốn chứng minh rằng các anh là một lũ ngu.”
Câu trả lời của cô ngay lập tức đặt anh vào hai tâm thái khác nhau – vừa hài lòng vì cô đã đồng ý với anh rằng cảnh sát là mục tiêu trong vụ án này, vừa không hài lòng lắm khi cô lại nhấn mạnh chữ ngu đến thế.
“Có thể hắn đi lùi thì sao,” cô gợi ý kèm một cái nhún vai.
“Có thể nơi anh nghĩ dấu chân chấm dứt lại là nơi dấu chân xuất phát, còn nơi anh nghĩ dấu chân xuất phát là nơi dấu chân chấm dứt thì sao?”
Đây nằm trong những khả năng mà Gurney đã xem xét và loại trừ. “Có hai vấn đề. Thứ nhất, như vậy câu hỏi ‘Làm cách nào mà dấu chân có thể ngừng giữa chừng?’ sẽ chuyển thành câu hỏi ‘làm cách nào mà dấu chân lại xuất phát giữa chừng?’ Thứ hai, khoảng cách giữa các dấu chân rất đều nhau. Thật khó tưởng tượng có ai đó đi lùi hơn 800 mét qua rừng mà không trượt chân một lần.”
Rồi anh chợt nhận ra một biểu hiện hứng thú dù nhỏ nhất từ Madeleine cũng là thứ mà anh muốn khuyến khích, nên anh nồng nhiệt nói thêm: “Nhưng thực tình thì suy nghĩ của em khá hay đấy – nên em hãy suy nghĩ tiếp nhé.”
Vào hai giờ sáng hôm sau, nhìn chằm chằm vào khung cửa sổ chữ nhật trong phòng ngủ, qua ánh sáng yếu ớt từ mảnh trăng bán nguyệt bị mây che khuất, Gurney vẫn đang suy nghĩ – và vẫn còn trầm ngâm nhận xét của Madeleine rằng hướng chỉ của dấu chân và hướng đi thực sự của dấu chân là hai chuyện riêng biệt. Điều đó thì đúng, nhưng nó góp phần giải thích các dữ kiện như thế nào? Cho dù ai đó có thể đi lùi một quãng đường xa như vậy qua địa hình gập ghềnh mà không sẩy chân một bước, một chuyện không ai làm được, thì giả thuyết ấy cũng chỉ biến điểm dừng khó giải thích của lối mòn ấy thành một điểm xuất phát khó giải thích.
Mà như vậy thật chăng?
Giả sử…
Nhưng như vậy không thể nào. Từ từ nào, tạm giả sử là…
Như Sherlock Holmes đã nói, “Khi ta đã loại trừ mọi khả năng vô lý, thì những gì còn lại, cho dù khó xảy ra đến đâu, nhất định là sự thật.”
“Madeleine này?”
“Hừm?”
“Xin lỗi đã đánh thức em. Có chuyện quan trọng.”
Cô đáp lại bằng một tiếng thở dài.
“Em thức chưa?”
“Giờ thì thức rồi.”
“Nghe này. Giả sử hung thủ vào trang viên không phải từ đường lớn mà từ đường phụ thì sao. Giả sử hắn đến hiện trường nhiều tiếng đồng hồ trước khi gây án – đúng ra là ngay trước khi tuyết rơi. Giả sử hắn đi vào lùm thông nhỏ từ đường phụ mang theo cái ghế sân vườn nhỏ, và những thứ đồ lỉnh kỉnh khác, mặc áo liền quần Tyvek, mang găng tay cao su vào, rồi chờ đợi.”
“Đợi trong rừng ư?”
“Đợi trong lùm thông, nơi mà chúng ta tưởng dấu chân chấm dứt ấy. Hắn ngồi chờ tuyết ngừng rơi – quá nửa đêm một chút. Rồi hắn đứng dậy, mang theo ghế, chai uýt ki, súng, và máy ghi âm mini có tiếng thú vật rít, rồi đi bộ hơn 800 mét còn lại đến căn nhà. Trên đường đi hắn gọi số di động của Mellery để bảo đảm anh ta đủ tỉnh táo để nghe tiếng thú vật..”
“Khoan đã. Em nhớ anh nói là hắn không thể nào đi lùi qua rừng được mà.”
“Hắn không đi lùi. Hắn không cần phải đi lùi. Em đã đúng khi tách biệt hướng ngón giày và gót giày ra khỏi hướng đi thực sự – nhưng mình cần phải phân biệt thêm một thứ nữa. Giả sử đế giày được tách rời ra khỏi mũ giày thì sao.”
“Bằng cách nào?”
“Tên hung thủ chỉ cần cắt đế đôi ủng này ra dán vào đôi ủng kia – theo chiều ngược lại. Vậy là hắn có thể đi về phía trước dễ dàng và để lại một loạt các vết lún gọn ghẽ phía sau mà nhìn vào người ta sẽ tưởng là hắn đi theo hướng xuất phát.”
“Còn cái ghế?”
“Hắn mang đến sân hiên. Có thể hắn bày ra đủ thứ đồ trên ghế trong lúc bọc cái áo khoác lông ngỗng quanh súng để làm một bộ phận giảm thanh cỡ nhỏ. Dấu chân ghế dễ dàng bị dấu chân của chính hắn làm mờ đi, nên sau đó chẳng ai để ý. Rồi hắn mở đoạn băng có tiếng thú vật đang rít lên để dụ Mellery ra tới cửa sau. Cụ thể hắn thực hiện mọi chuyện như thế nào thì có nhiều giả thuyết lắm, nhưng nói chung là hắn dí súng vào Mellery, dụ anh ta ra sân hiên bên ngoài rồi bắn. Khi Mellery gục xuống, hung thủ lấy cái chai vỡ đâm anh ta liên hồi rồi hắn ném chai vỡ phía dấu chân đã để lại trên đường tới sân hiên – cố nhiên – những dấu chân này theo hướng đi ra khỏi sân.”
“Tại sao không để chai bên cạnh xác được rồi, còn không thì mang theo luôn?”
“Hắn không mang theo chai vì hắn muốn chúng ta phát hiện ra nó mà. Chai uýt ki là một phần của trò chơi, một phần của toàn bộ kịch bản. Anh đoán rằng hắn ném chai song song với mấy dấu chân tưởng chừng như đang đi ra xa khỏi xác ấy chỉ giống như phết một lớp kem lên cái bánh lừa lọc nho nhỏ đó thôi.”
“Chi tiết đó khá tinh tế đấy.”
“Chẳng hạn như để một đôi ủng ở nơi mà ta tưởng là cuối lối mòn, nhưng dĩ nhiên khi bắt đầu đi hắn đã để ở đó rồi.”
“Vậy đó không phải là đôi để lại dấu chân?”
“Đúng, nhưng chuyện đó ta đã biết rồi. Một kỹ thuật viên ở phòng giám định của BCI tìm thấy một khác biệt nhỏ xíu giữa đế một trong hai chiếc ủng với dấu chân đế lại trên tuyết. Mới đầu chẳng hợp lý gì cả. Nhưng bây giờ kịch bản được sửa lại thì nó rất khớp – khớp hoàn toàn.”
Madeleine không nói gì trong một lúc, nhưng anh gần như có thể cảm nhận được đầu cô đang tiếp thu, đánh giá, thử nghiệm kịch bản mới để tìm ra sơ hở.
“Vậy sau khi hắn quẳng chai đi thì chuyện gì xảy ra nữa?”
“Rồi hắn đi từ hàng hiên đến phía sau kho thóc, đặt ghế ở đó, rồi quăng một mớ mẩu thuốc xuống đất trước ghế để ai nhìn vào cũng nghĩ hắn đã ngồi đó trước khi gây án. Hắn cởi bỏ bộ đồ Tyvek và đổi găng cao su ra, mặc áo khoác vào, đi quanh bên kia kho thóc – để lại những dấu chân đi ngược khốn kiếp ấy – hướng về phía đường Pilchers Brook, lúc này thị trấn đã cào sạch tuyết rồi nên không có dấu chân nào để lại ở đây, rồi bước ra xe đậu trên đường Thombush, lái xuống làng, hay đi đâu đó.”
“Lúc đến hiện trường, cảnh sát Peony có thấy ai trên đường Thombush không?”
“Có vẻ như là không, nhưng hắn cũng có thể dễ dàng đi vào rừng, hoặc là…” Anh dừng lại để xem xét các khả năng.
“Hoặc là sao?”
“Khả năng này không cao lắm, nhưng anh được biết có một nhà trọ B&B[14] trên núi mà BCI đáng lẽ phải kiểm tra. Nghe có vẻ quái dị lắm, nhưng sau khi đâm nạn nhân muốn đứt đầu ra, tên giết người điên khùng của chúng ta có lẽ đã tản bộ trở lại một phòng trọ nhỏ ấm cúng nào đó cũng không chừng.”
Hai người nằm lặng thinh cạnh nhau trong bóng tối nhiều phút dài dàng dặc. Tâm trí của Gurney chạy ngược xuôi tái hiện lại vụ án như một người vừa hạ thủy một chiếc tàu đóng tại nhà và đang chăm chú kiểm tra xem có vết rò rỉ nào không. Khi đã chắc chắn không có lỗ hổng nào nghiêm trọng, anh hỏi Madeleine nghĩ gì.
“Đối thủ hoàn hảo đấy,” cô nói.
“Gì cơ?”
“Đối thủ hoàn hảo.”
“Nghĩa là?”
“Anh thích giải câu đố mà. Hắn cũng vậy. Một cuộc hôn phối trên thiên đường.”
“Hay dưới địa ngục đây?”
“Ở đâu cũng được. À, mấy bức thư ấy có gì không ổn.”
“Cái gì… không ổn?”
Madeleine quen nhảy qua một chuỗi các liên tưởng khiến anh đôi khi phải tụt lại ở phía sau một bước dài.
“Mấy bức thư hung thủ gửi cho Mellery mà anh cho em xem đấy – hai lá đầu, sau đó là mấy bài thơ. Lúc nãy em có nhớ lại nội dung cụ thể của từng bức.”
“Rồi sao?”
“Em cố nhớ mãi mà không được, mặc dù em có trí nhớ tốt. Rồi em nhận ra lý do tại sao lại không nhớ được. Chẳng có thứ gì trong thư là thật cả.”
“Ý em là sao?”
“Chẳng có thứ gì là cụ thể cả. Chẳng đề cập đến việc Mellery thực sự đã làm gì hay ai đã bị tổn thương. Sao lại mơ hồ như vậy? Không tên tuổi, ngày tháng, nơi chốn, không đề cập cụ thể đến thứ gì cả. Lạ lắm phải không?”
“Hai con số 658 và 19 cũng khá cụ thể mà.”
“Nhưng chúng chẳng có ý nghĩa gì với Mellery cả, ngoài chuyện Mellery nghĩ ra chúng. Và đó nhất định là một mánh khóe nào đó.”
“Nếu vậy thì anh vẫn chưa tìm ra được mánh khóe đó.”
“À, nhưng anh sẽ tìm được mà. Anh rất giỏi nối các điểm lại với nhau mà.” Cô ngáp. “Chuyện đó chẳng ai giỏi hơn anh cả.” Trong giọng cô không thấy có sự mỉa mai nào.
Anh nằm đó trong đêm cạnh cô, cảm nhận sự thoải mái thật ngắn ngủi trong lời khen của cô. Rồi trí óc anh bắt đầu kiếm tìm không yên, rà soát bức thư của tên hung thủ, xem lại ngôn từ trong thư dưới ánh sáng mới từ lời nhận xét của cô.
“Mấy lá thư đủ cụ thể để làm Mellery sợ xịt cứt ra đấy,” anh nói.
Cô gà gật thở dài. “Hoặc là không đủ cụ thể.”
“Nghĩa là sao?”
“Em không biết nữa. Có lẽ chẳng có vấn đề cụ thể nào để mà ghi ra cụ thể cả.”
“Nhưng nếu Mellery không làm gì hết thì tại sao anh ta lại bị giết?”
Cô phát ra một tiếng kêu nhỏ trong cổ họng tương đương với cái nhún vai. “Em không biết. Em chỉ biết mấy bức thư đó có gì không ổn thôi. Thôi ngủ tiếp đi.”