Chương 28 Trở Lại Hiện Trường
Hành trình từ văn phòng của Kline về nhà Gurney có đi ngang qua Peony, nên anh quyết định tạt qua viện.
Thẻ căn cước tạm thời mà trợ lý của Kline cấp giúp anh qua được tay cảnh sát gác cổng mà không bị hỏi han gì. Vừa hít vào luồng không khí lạnh, anh vừa ngẫm nghĩ thấy ngày hôm nay giống buổi sáng sau án mạng đến kỳ quái. Lớp tuyết nếu trong những ngày vừa qua đã tan đi một phần thì giờ đây đã trở lại nguyên trạng. Gió tuyết về đêm, thường gặp ở những vùng cao trong dãy Catskills, làm phong cảnh nơi đây trở nên trong lành và trắng sáng hơn.
Gurney quyết định đi lại lộ trình của hung thủ với hy vọng có thể nhìn ra thứ gì đó xung quanh mà anh đã bỏ sót. Anh rảo bước dọc theo lối ô tô, qua khu vực để xe, đi quanh ra sau kho thóc nơi tìm thấy chiếc ghế sân vườn. Anh nhìn xung quanh, cố gắng hiểu ra lý do tại sao tên hung thủ lại chọn địa điểm này để ngồi. Sự tập trung của anh bị phá vỡ bởi tiếng đóng mở cửa và một giọng khàn khàn quen thuộc.
“Chúa ạ! Ta nên mở cuộc không kích ở đây và san bằng cái nơi chó chết này.”
Nghĩ bụng tốt nhất nên lộ diện, Gurney bước qua hàng giậu cao ngất ngăn cách khu vực kho thóc với sân hiên sau của căn nhà. Trung sĩ Hardwick và thanh tra Tom Cruise Blatt chào anh bằng ánh mắt chòng chọc thiếu hoan nghênh.
“Anh làm cái quái gì ở đây hả?” Hardwick hỏi.
“Đã dàn xếp tạm thời với công tố viên rồi. Chỉ muốn nhìn lại hiện trường lần nữa thôi. Xin lỗi đã làm anh gián đoạn, nhưng tôi nghĩ anh cần biết tôi ở đây.”
“Trong bụi cây hả?”
“Phía sau kho thóc. Tôi đứng ở nơi hung thủ ngồi.”
“Để làm gì?”
“Câu hỏi hay hơn phải là hắn ta ở đó để làm gì?”
Hardwick nhún vai. “Ẩn nấp trong bóng đêm chăng? Ngồi chơi hút thuốc trên cái ghế sân vườn chó chết của hắn chăng? Chờ thời cơ thích hợp chăng?”
“Khi nào thì thời cơ thích hợp?”
“Biết được thì sao?”
“Tôi không rõ nữa. Nhưng tại sao lại chờ ngay đây? Và tại sao lại đến hiện trường sớm như vậy để phải mang theo ghế?”
“Chắc hắn muốn chờ cả nhà Mellery đi ngủ. Chắc hắn muốn quan sát đèn, chờ đèn tắt hết mới ra tay.”
“Theo Caddy Mellery thì vợ chồng bà ta đi ngủ và tắt đèn nhiều tiếng đồng hồ trước rồi. Và cú điện thoại đánh thức họ gần như chắc chắn là của hung thủ – nghĩa là hắn muốn họ tỉnh, không muốn họ ngủ. Và nếu hắn muốn biết đèn có tắt hết chưa thì tại sao lại đóng đô ở một trong những nơi hiếm hoi không thấy được cửa sổ trên lầu chứ? Thực tế thì từ vị trí ghế ở đó hắn khó thể nào thấy được căn nhà nữa là.”
“Như vậy có nghĩa là cái quái gì đây?” hắn quát, cùng với cái giọng ấy là ánh mắt bứt rứt.
“Có nghĩa là, hoặc là tên hung phạm cực kỳ thông minh, thận trọng ấy đã phí công tốn sức làm chuyện vô bổ, hoặc là tình tiết mà chúng ta đã tái hiện ở đây sai.”
Blatt, người bấy lâu vẫn theo dõi cuộc nói chuyện như theo dõi một trận quần vợt, nhìn Hardwick trân trân.
Hardwick trông ra vẻ đang nếm phải thứ gì đó lờ lợ. “Cậu tìm cho tôi chút cà phê được không?”
Blatt bĩu môi thay cho lời ca cẩm, song rút vào nhà trở lại, như để thực hiện mệnh lệnh của Hardwick.
Hardwick thong thả đốt một điếu thuốc. “Còn thứ này nữa vô lý lắm. Mới đây tôi có xem qua bản báo cáo dữ liệu các dấu chân. Khoảng cách giữa các dấu chân từ đường lộ đến chỗ ghế sau kho thóc dài hơn khoảng cách giữa các dấu chân từ xác ra đến rừng trung bình một đoạn 7,62 xăng-ti-mét.”
“Nghĩa là lúc đến hung phạm bước nhanh hơn lúc đi?”
“Chính xác là như vậy.”
“Vậy là việc đến kho thóc ngồi chờ lại gấp gáp hơn là tẩu thoát sau khi gây án?”
“Wigg lý giải dữ kiện như vậy, còn tôi thì không nghĩ ra được cách lý giải nào khác.”
Gurney lắc đầu. “Tôi nói cho anh nghe, Jack ạ, ống kính của chúng ta lệch tiêu điểm rồi. À, còn dữ kiện này nữa làm tôi nghĩ mãi không yên. Vị trí chính xác phát hiện chai uýt ki là ở đâu thế?”
“Cách xác hơn ba mươi mét, song song dấu chân rời khỏi xác.”
“Tại sao lại ở đó?”
“Vì hắn làm rơi chai ở đó mà. Có vấn đề gì chứ?”
“Tại sao lại mang nó đến đó cơ? Sao không để lại bên cạnh xác?”
“Do sơ suất. Trong lúc điên tiết, hắn không nhận ra là còn cầm trong tay. Khi nhận ra thì hắn quăng nó đi. Tôi thấy có vấn đề gì đâu.”
“Có lẽ không. Nhưng dấu chân rất đều, thong thả, không gấp gáp – như thể mọi thứ đều được tiến hành theo kế hoạch vậy.”
“Anh đang ám chỉ cái quái gì nào?” Hardwick đang biểu lộ sự thiểu não của một người đang gắng sức giữ túi thức ăn bị rách.
“Mọi thứ trong vụ án này đều có cảm giác cực kỳ bình thản, cực kỳ có tính toán – rất trí tuệ. Linh tính mách bảo tôi rằng thứ nào nằm ở đâu đều có lý do của nó.”
“Anh muốn nói là hắn mang vũ khí rời xa khỏi xác hơn ba mươi mét mới thả ở đó vì một lý do đã được dự mưu ư?”
“Tôi đoán như vậy.”
“Hắn có lý do khốn kiếp nào đây?”
“Làm vậy để lại kết quả gì cho ta nào?”
“Anh đang nói gì hả?”
“Gã này chú trọng nhiều đến cảnh sát chẳng kém gì chú trọng đến Mark Mellery cả. Anh có bao giờ nghĩ mấy thứ kỳ lạ ở hiện trường có thể là một phần của cái trò mà hắn muốn chơi với chúng ta không?”
“Không, tôi chưa bao giờ nghĩ vậy cả. Thành thật mà nói, nghĩ như vậy là đi khá xa đấy.”
Gurney cố dằn mình không tranh cãi, trái lại anh nói, “Hình như đại úy Rod vẫn nghĩ mục tiêu của ta nằm trong số khách.”
“Ừ, y nói là ‘một tên điên nào đó trong cái nhà thương điên’ ấy.”
“Anh đồng ý?”
“Chuyện bọn họ là kẻ điên ư? Nhất định rồi. Chuyện một người trong số đó là hung thủ ư? Có thể vậy.”
“Hoặc là có thể không phải vậy?”
“Tôi không chắc nữa. Nhưng đừng nói cho Rodriguez biết.”
“Anh ta có ứng cử viên nào ưa thích không?”
“Đối với y mà nói, tên nghiện ma túy nào trong số đó đều có khả năng cả. Hôm qua y cứ thao thao nói Viện Đổi mới Tâm linh Mellery chẳng là gì ngoài một spa xa xỉ cho mấy tay cặn bã lắm tiền.”
“Tôi không thấy có liên quan gì cả.”
“Giữa cái gì với cái gì?”
“Chính xác thì nghiện ma túy có liên quan gì đến vụ án Mellery?”
Hardwick rít hơi thuốc trầm tư cuối cùng, rồi búng mẩu thuốc vào đống đất ẩm ướt bên dưới giậu hoa nhựa ruồi. Gurney suy ngẫm thấy đây không phải là thứ mà người ta nên làm ở hiện trường vụ án, ngay cả sau khi hiện trường đã được rà soát kỹ, nhưng đây chính là thứ mà anh đã quen suốt thời gian còn hợp tác với Hardwick. Anh cũng không lấy làm ngạc nhiên khi thấy hắn bước tới bờ giậu dùng ngón cái đi giày dập mẩu thuốc đang cháy dở. Đó là cách tay cảnh sát này tự cho mình thời gian để cân nhắc tiếp theo sẽ nói gì, hay không nói gì. Khi mẩu thuốc đã được dập tắt hoàn toàn và chôn sâu dưới đất 7 xăng-ti-mét, Hardwick lên tiếng.
“Có lẽ không liên quan nhiều đến vụ án, nhưng lại liên quan nhiều đến Rodriguez.”
“Chuyện gì vậy? Anh có thể nói không?”
“Y có cô con gái trong Greystone.”
“Bệnh viện tâm thần ở New Jersey ư?”
“Ừ. Con bé bị tổn thương vĩnh viễn gì đó. Chơi ma túy ở câu lạc bộ, ‘đá’, hêrôin. Một vài mạch điện trong não bị cháy, muốn giết mẹ mình. Theo cách nhìn của Rodriguez thì bất kỳ tay nghiện ma túy nào khác trên đời này đều phải chịu trách nhiệm những gì đã xảy ra với con y. Đây không phải là đề tài mà y có đủ lý trí để suy xét.”
“Nên anh ta nghĩ một kẻ nghiện nào đó giết Mellery ư?”
“Y muốn như vậy lắm, cho nên y nghĩ như vậy.”
Một cơn gió ẩm ướt, cá biệt quét qua sân hiên từ hướng bãi cỏ phủ tuyết. Gurney run cầm cập và đút tay sâu vào túi áo khoác. “Tôi cứ tưởng anh ta chỉ muốn gây ấn tượng với Kline thôi.”
“Cũng như vậy nữa. Y ngu chứ cũng phức tạp lắm. Rất thích kiểm soát người khác. Một tên xấu xa đầy tham vọng. Hoàn toàn thiếu tự tin. Lúc nào trong đầu cũng lẩn quẩn chuyện trừng phạt con nghiện. À, cũng không ưa gì anh lắm đâu.”
“Có lý do cụ thể nào không?”
“Không thích đi lệch quy trình chuẩn. Không thích gã nào thông minh. Không thích bất cứ ai gần gũi với Kline hơn y. Ai biết còn thứ chết tiệt gì nữa?”
“Nghe không giống như người có tâm thế thích hợp để chỉ đạo điều tra.”
“Ừ, ôi, còn thứ gì mới nữa trong thế giới tuyệt vời của pháp luật hình sự chứ? Nhưng chỉ vì một gã nào đó ngu bỏ mẹ không có nghĩa là y luôn luôn sai.”
Gurney trầm ngâm điều thông thái theo trường phái Hardwick này mà không bình luận gì, rồi đổi đề tài. “Chúng ta chú trọng vào số khách như vậy có phải đã lờ đi những hướng điều tra khác không?”
“Chẳng hạn như?”
“Chẳng hạn như nói chuyện với những người trong khu vực. Nhà nghỉ, nhà trọ…”
“Chẳng có thứ gì bị lờ đi cả,” Hardwick nói, đột nhiên tỏ ra dè chừng. “Những hộ gia đình quanh đó – cũng không nhiều đâu, chưa đến chục hộ trên đường từ ngôi làng đến viện – đã được liên hệ trong vòng 24 giờ đầu tiên rồi, cực nhọc công mà chẳng kiếm được thông tin gì sất. Chẳng ai nghe thấy gì, nhớ gì. Không người lạ, không tiếng ồn, không xe cộ vào những giờ lạ, không có thứ gì khác thường. Vài người thì nghĩ có nghe tiếng chó sói đồng cỏ. Vài người khác thì nghĩ có nghe tiếng cú mèo.”
“Lúc đó là mấy giờ?”
“Lúc đó là lúc nào?”
“Lúc nghe tiếng cú mèo ấy.”
“Tôi không biết, bởi vì họ có biết đâu. Họ chỉ nhớ là quãng nửa đêm thôi.”
“Chỗ cho thuê nhà trọ thì sao?”
“Gì hả?”
“Có ai kiểm tra chỗ cho thuê nhà trọ trong khu vực không?”
“Có một nhà nghỉ ở ngay ngoài làng – một nơi ọp ẹp phục vụ thợ săn. Đêm đó phòng trống. Nằm trong phạm vi gần năm ki-lô-mét chỉ có hai nhà trọ khác có phục vụ phòng ngủ và bữa sáng. Một chỗ đóng cửa nghỉ đông. Còn chỗ kia, nếu tôi nhớ không lầm, thì có người đặt một phòng vào đêm xảy ra án mạng – một gã nào đó đi ngắm chim cùng mẹ.”
“Ngắm chim vào tháng Mười một ư?”
“Tôi cũng thấy lạ nên mới xem vài trang web nói về ngắm chim. Thì ra ai thực sự muốn ngắm chim thì thích đi vào mùa đông lắm – cây trút hết lá, cảnh vật thoáng đãng hơn, rất nhiều gà lôi, cú, gà gô, sơn tước, con này con kia, vân vân.”
“Anh nói chuyện với mấy người đó rồi ư?”
“Blatt nói với một trong số chủ cho thuê – một cặp pê đê, nghe tên thấy ngớ ngẩn rồi, chẳng thông tin gì có ích cả.”
“Tên ngớ ngẩn ư?”
“Ừ, một người tên là Hột Đào, đại khái vậy.”
“Hột Đào?”
“Đại khái vậy. Không phải, Hột Mận cơ, đúng rồi. Paul Hột Mận[13]. Anh tin nổi không?”
“Có ai nói chuyện với khách ngắm chim không?”
“Tôi nghĩ trước khi Blatt tạt qua thì họ đã đi rồi, nhưng không phải là tin chính thức đâu đấy.”
“Không ai theo dõi sao?”
“Chúa ạ! Bọn họ thì biết cái quái gì cơ chứ? Cậu muốn thăm gia đình Hột Đào thì cứ thăm đi. Tên chỗ trọ đó là The Laurels, từ viện xuống núi hơn hai cây số là tới. Tôi được phân công lượng nhân lực nhất định cho vụ án này nên đếch thể nào phí nhân lực theo dõi tất cả những ai từng đi qua Peony.”
“Phải.”
Câu trả lời này của Gurney cùng lắm cũng chỉ mơ hồ, nhưng nó dường như làm dịu được Hardwick. Hardwick nói bằng một giọng gần như thân mật, “Nói tới nhân lực mới nhớ, tôi phải trở lại công việc đây. Lúc nãy anh nói anh làm gì ở đây?”
“Tôi nghĩ nếu tôi đi quanh trang viên này một lần nữa thì chắc sẽ nghĩ ra được cái gì đó.”
“Đây là phương pháp làm việc của tay phá án cừ khôi của Sở Cảnh sát New York đấy ư? Thật đáng thương hại!”
“Tôi biết, Jack, tôi biết mà. Nhưng hiện tại đây là cách tốt nhất tôi có thể làm.”
Hardwick trở vào nhà, vừa đi vừa lắc đầu trong sự hoài nghi quá mức.
Gurney hít vào hơi ẩm của tuyết, và như thường lệ, trong thoáng chốc nó chiếm chỗ mọi ý nghĩ lý trí, khuấy động một cảm xúc thơ ấu mạnh mẽ mà anh không có lời nào diễn tả. Anh cất bước ngang qua bãi cỏ trắng xóa về phía khu rừng, hương tuyết gợi cho anh đầy ắp những ký ức – ký ức về những câu chuyện mà bố đã kể cho anh nghe lúc anh mới năm sáu tuổi, những câu chuyện đối với anh còn sống động hơn bất cứ thứ gì trong cuộc đời thực của mình – những câu chuyện về những người tiên phong, về túp lều giữa vùng hoang vu, về đường rừng, về người da đỏ tốt lẫn xấu, về những nhánh con bị gãy răng rắc, về những vết lún của giày da đanh để lại trên cỏ, về những thân dương xỉ gãy làm chứng cứ quan trọng cho thấy kẻ thù đã đi ngang qua nơi này, và tiếng kêu của chim rừng, một vài tiếng thật, một vài tiếng là của thổ dân da đỏ dùng để bí mật liên lạc với nhau – những hình ảnh thật cụ thể, thật giàu chi tiết. Thật trớ trêu, anh nghĩ, khi ký ức về những câu chuyện bố đã kể thời thơ ấu đã thay thế hầu hết các ký ức về chính ông. Dĩ nhiên, ngoài việc kể những câu chuyện này cho anh nghe, bố anh chưa bao giờ dành nhiều thời gian cho anh. Ông chỉ biết làm việc, làm việc và giữ trong lòng mọi chuyện.
Làm việc và giữ trong lòng mọi chuyện. Câu nói tóm tắt cuộc đời này đây, anh bỗng nhận ra, mô tả hành vi của bản thân anh chính xác như hành vi của bố mình. Những rào cần anh từng dựng lên để tránh nhận ra những điểm tương đồng này dường như gần đây càng lúc càng xuất hiện nhiều vết rò rỉ lớn. Anh nghĩ rằng mình không chỉ đang dần biến thành bố, mà đã biến thành ông tự bao giờ. Làm việc và giữ trong lòng mọi chuyện. Cụm từ ấy truyền đạt mới thấm thía làm sao một cảm giác nhỏ nhoi, lạnh lẽo về cuộc đời anh. Thật bẽ bàng khi quãng thời gian dài dằng dặc của một đời người lại có thể tóm gọn lại trong một câu nói ngắn đến dường ấy. Anh làm chồng kiểu gì khi năng lượng của anh lại hạn chế đến thế? Và làm cha kiểu gì? Làm cha kiểu gì mà luôn đắm đuối vào những ưu tiên trong nghề nghiệp mà… Thôi, đủ rồi.
Gurney bước vào khu rừng, men theo lối mòn mà anh nhớ là lộ trình dấu chân, giờ đây đã bị tuyết mới che khuất. Khi đến bụi cây thường xanh nơi lối mòn chấm dứt một cách vô lý, anh hít vào hương thông thơm ngát, lắng nghe sự tĩnh lặng sâu thẳm nơi đây, và chờ nguồn cảm hứng. Không nguồn cảm hứng nào xuất hiện. Thất vọng vì điều ngược lại xảy ra đúng như mong đợi, anh buộc mình ôn lại lần thứ hai mươi những gì anh biết chắc về các sự kiện đã xảy ra vào đêm án mạng. Tên hung thủ đã đi bộ vào trang viên từ đường lộ chăng? Hắn mang theo một khẩu 0.38 đặc biệt của cảnh sát, một chai rượu vỡ hiệu Bốn Hoa Hồng, một cái ghế sân vườn, một đôi ủng phụ, và một máy ghi âm nhỏ thu sẵn tiếng rít của thú vật để dụ Mellery ra khỏi giường? Hắn mặc áo liền quần hiệu Tyvek ư, đeo găng ư, và choàng chiếc áo khoác lông ngỗng dày cộm có thể dùng làm bộ phận giảm thanh cho súng? Hắn ngồi sau kho thóc hút thuốc?
Hắn dụ Mellery ra sân hiên bên ngoài, bắn chết nạn nhân, rồi đâm xác chết ít nhất 14 nhát? Sau đó hắn ung dung băng ngang qua bãi cỏ trống và vào rừng được gần một cây số thì treo đôi ủng phụ lên cành, và biến mất không một dấu vết?
Mặt Gurney nhăn nhó – một phần do hơi lạnh âm ẩm càng lúc càng ảm đạm trong ngày và một phần do giờ đây, rõ hơn bao giờ hết, anh nhận ra những gì anh ‘biết’ về tội ác ấy lại chẳng hề hợp lý.