Chương 37 Họa Vô Đơn Chí
Gurney cảm thấy thôi thúc muốn gọi cho Sheridan Kline nói về chứng cứ mới mang tính quyết định này để chứng minh sự liên kết giữa bông hoa mẫu đơn và vụ án, nhưng anh muốn gọi cho một người khác trước. Nếu hai vụ án này song song nhau như hiện tại cho thấy, thì có khả năng Rudden không những đã bị đòi tiền mà còn bị yêu cầu gửi tiền đến cùng một hộp thư ở Wycherly, bang Connecticut.
Gurney lấy tập hồ sơ vụ án mỏng ra khỏi ngăn bàn và tìm bản phô tô mẩu ghi chú mà Gregory Dermott đã gửi cùng với tấm séc anh ta trả lại cho Mellery. Phần đầu thư “Hệ thống Bảo mật GD” trông đậm chất kinh doanh, truyền thống, thậm chí hơi lỗi thời một chút. Trên đó có ghi một số điện thoại có mã vùng ở Wycherly.
Đến hồi chuông thứ hai thì có người bắt máy, một giọng nói phù hợp với phong cách của phần đầu thư.
“Xin chào, Công ty Bảo mật GD xin nghe. Tôi có thể giúp gì cho quý vị?”
“Tôi muốn nói chuyện với anh Dermott. Tôi là thanh tra Gurney từ vẫn phòng ủy viên công tố quận.”
“Rốt cuộc anh cũng gọi!” Sự dữ dội biến chuyển trong giọng nói làm anh giật nảy người.
“Sao cơ?”
“Anh gọi vì tờ séc bị gửi nhầm đúng không?”
“Phải, đúng là vậy, nhưng…?”
“Tôi báo anh biết cách đây 6 ngày rồi mà – 6 ngày rồi.”
“Báo chuyện gì cách đây 6 ngày cơ?”
“Chẳng phải anh mới nói mình gọi là vì tấm séc sao?”
“Ta nói lại từ đầu nào, anh Dermott. Theo như tôi hiểu thì khoảng mười ngày trước, Mark Mellery có nói chuyện với anh về một tấm séc mà anh gửi trả lại cho anh ta, trên séc có ghi người nhận là ‘X. Arybdis’ và gửi đến hộp thư của anh. Có đúng vậy không?”
“Tất nhiên là đúng rồi. Câu hỏi kiểu gì thế này?” Dermott nghe có vẻ cáu.
“Khi anh nói anh đã báo cáo cách đây 6 ngày rồi, tôi e là tôi chưa…”
“Tấm séc thứ hai đấy!”
“Anh nhận được tấm séc thứ hai à?”
“Chẳng phải đó là lý do anh gọi sao?”
“Thật ra thì, thưa anh, tôi gọi là để hỏi chính câu hỏi đó.”
“Câu hỏi gì?”
“Anh có nhận thêm một tấm séc khác gửi từ một người tên Albert Rudden không?”
“Phải rồi. Rudden là tên trên tấm séc thứ hai. Tôi gọi để báo cáo tấm séc đó đó. Cách đây 6 ngày rồi.”
“Anh gọi cho ai?”
Gurney nghe vài tiếng thở sâu và dài, như thể người đàn ông này đang cố dằn lòng, không để cho mình nổ tung vì giận.
“Này, anh thanh tra, đang có rối rắm gì ở đây mà tôi chẳng thấy hay ho gì cả. Tôi gọi cảnh sát cách đây 6 ngày trình báo một tình huống rắc rối. Người ta gửi 3 tấm séc đến hộp thư của tôi rồi đấy, đề địa chỉ đến một người mà tôi chưa bao giờ nghe đến. Bây giờ anh gọi lại cho tôi, có vẻ như muốn nói chuyện mấy tấm séc, nhưng anh hình như chẳng hiểu tôi nói gì thì phải. Tôi có bỏ sót điều gì không đây? Cái quái gì đang xảy ra vậy hả?”
“Anh gọi sở cảnh sát nào vậy?”
“Dĩ nhiên sở cảnh sát chỗ tôi rồi – địa phận Wycherly này đây. Anh gọi lại cho tôi mà lại không biết là sao?”
“Thưa anh, thật sự thì tôi không gọi lại cho anh. Tôi gọi từ bang New York để nói chuyện có liên quan đến tấm séc đầu tiên mà anh gửi trả lại cho Mark Mellery. Chúng tôi không biết tấm séc nào nữa. Anh nói ngoài tấm séc đầu tiên ra còn hai tấm nữa à?”
“Đúng là như vậy đấy!”
“Một tấm từ Albert Rudden, còn tấm kia từ một người khác à?”
“Đúng vậy, anh thanh tra. Bây giờ mọi chuyện rõ ràng rồi phải không?”
“Rỡ ràng quá rồi. Nhưng bây giờ tôi lại thắc mắc tại sao 3 tấm séc sai địa chỉ lại gây phiền toái đến mức anh phải gọi cho cảnh sát địa phương.”
“Tôi gọi cảnh sát địa phương vì đã trình báo cảnh sát bưu chính rồi mà họ chẳng mảy may quan tâm. Trước khi anh hỏi tôi vì sao lại gọi cảnh sát bưu chính, cho tôi nói là cảnh sát mấy anh nhận thức vấn đề bảo mật khá tồi đấy.”
“Sao anh lại nói vậy?”
“Tôi làm trong ngành bảo mật mà, anh cảnh sát hay thám tử gì đó ơi. Ngành bảo mật dữ liệu máy tính. Anh có biết việc ăn cắp nhân thân phổ biến đến mức nào không? Có biết việc đó thường xuyên dính líu tới việc lấy cắp địa chỉ đến mức nào không?”
“Ra là vậy. Rồi cảnh sát Wycherly làm gì?
“Làm ít hơn cảnh sát bưu chính, nếu không muốn nói là không làm gì hết.”
Gurney hình dung được là cuộc gọi của Dermott nhận được phản hồi rất thờ ơ. Ba người không quen biết gửi séc đến hộp thư ai đó nghe không có vẻ như là một hiểm họa cần ưu tiên cao.
“Anh có gửi trả tờ séc thứ hai và thứ ba cho người gửi giống như đã gửi tờ séc cho Mark Mellery không?”
“Dĩ nhiên là có. Tôi còn kèm theo ghi chú hỏi ai đã cho họ số hộp thư của tôi nhưng chẳng ai trong số đó biết phép lịch sự mà hồi âm cả.”
“Anh có giữ lại tên và địa chỉ ghi trên tấm séc thứ ba không?”
“Dĩ nhiên là có.”
“Tôi cần tên và địa chỉ ấy ngay bây giờ.”
“Sao vậy? Có chuyện gì xảy ra ở đây mà tôi không biết không?”
“Mark Mellery và Albert Rudden cả hai đều đã chết. Có thể do mưu sát.”
“Mưu sát? Anh nói mưu sát là sao hả?” Giọng Dermott trở nên the thé.
“Có thể họ bị mưu sát.”
“Ôi Chúa ơi! Anh nghĩ nó có liên quan đến mấy tấm séc à?”
“Bất kỳ ai cho họ địa chỉ hộp thư của anh đều là người có liên quan trong vụ án.”
“Ôi Chúa ơi. Sao lại là địa chỉ của tôi? Có liên quan gì đến tôi chứ?”
“Anh hỏi hay lắm, anh Dermott.”
“Nhưng tôi có bao giờ nghe đến cái tên Mark Mellery hay Albert Rudden đâu.”
“Tên trên tấm séc thứ ba là gì?”
“Tấm séc thứ ba á? Ôi Chúa ơi, đầu óc tôi tự nhiên trống rỗng.”
“Anh nói có ghi lại cái tên đó mà.”
“Phải, phải rồi, tất nhiên tôi có ghi chứ. Đợi đã. Richard Kartch. Đúng rồi. Richard Kartch. K-a-r-t-c-h. Để tôi tìm địa chỉ cho anh. Đợi đã, nó đây rồi, số 349 đường Quarry, Sotherton, bang Massachusetts.”
“Hiểu rồi.”
“Này anh thanh tra, hình như ít nhiều tôi cũng dính dáng đến vụ này nên anh biết được gì thì nói cho tôi nghe nhé, tôi rất cảm ơn. Ắt hẳn phải có lý do nào đó nên hộp thư của tôi mới được chọn đúng không?”
“Cái tên Richard Kartch không có ý nghĩa gì với anh sao?”
“Không có nghĩa gì hết. Tôi chắc mà. Mấy cái tên dạng như vậy tôi hay nhớ lắm.”
“Được rồi, thưa anh. Tôi muốn cho anh vài số điện thoại để có gì anh liên lạc với tôi. Nếu anh nghĩ ra được thứ gì đó về tên của 3 người kia, hay biết ai khác vào được hộp thư của anh thì báo ngay cho tôi nhé, tôi cảm ơn nhiều. Còn câu hỏi cuối này nữa. Anh có nhớ số tiền ghi trên tấm séc thứ hai và thứ ba không?”
“Quá dễ. Séc thứ hai và thứ ba cũng như séc thứ nhất thôi – đều là 289,87 đô cả.”
Madeleine bật một chiếc đèn ở cửa phòng làm việc lên. Suốt cuộc nói chuyện giữa Gurney và Dermott, hoàng hôn đã buông xuống tự bao giờ và căn phòng gần như chìm trong bóng tối.
“Có tiến triển gì không?”
“Tiến triển nhiều lắm. Nhờ em hết.”
“Bà dì Mimi của em có hoa mẫu đơn đấy,” cô nói.
“Người nào là Mimi cơ?”
“Bà bác bên ngoại,” cô nói, không hoàn toàn che đậy cơn giận trước một người đàn ông tinh thông chuyện tung hứng tình tiết của một cuộc điều tra phức tạp nhất lại không nhớ nổi vài người bà con họ hàng. “Bữa tối của anh xong rồi kìa.”
“À, thật ra..”
“Trên lò nướng đó. Đừng quên đấy.”
“Em ra ngoài hả?”
“Ừ.”
“Đi đâu?”
“Tuần vừa qua em đã nói với anh những hai lần rồi mà.”
“Anh nhớ mang máng thứ Năm gì đó. Còn chi tiết thì…”
“… thì bây giờ anh không nhớ được chứ gì? Chẳng có gì mới cả. Gặp anh sau.”
“Em không muốn nói cho anh biết em đi…?”
Bước chân cô đã lùi xa khỏi nhà bếp ra cửa sau.
Chẳng có danh mục điện thoại nào có tên Richard Kartch ở số 349 đường Quarry ở Sotherton, nhưng tìm những địa chỉ gần đó trên Internet, Gurney tìm ra tên và số điện thoại của hai chủ nhân nhà số 329 và 369.
Một giọng nam lè nhè cuối cùng cũng trả lời cuộc gọi của anh tới nhà số 329. Y phủ nhận cộc lốc, không biết ai có cái tên Kartch cả, không biết nhà số 349 là nhà nào cùng đường nữa, thậm chí còn không biết bản thân đã sống ở khu vực này được bao lâu. Y nghe như nửa tỉnh nửa mê vì rượu hoặc thuốc phiện, có lẽ nói dối theo thói quen, và rõ ràng chẳng giúp ích được gì cho Gurney.
Người phụ nữ ở nhà số 369 đường Quarry thì lại cởi mở hơn.
“Anh muốn nói đến cái lão ẩn dật đó hả?” Cách bà ta nói làm cái biệt danh ấy nghe bệnh hoạn đến sởn gáy.
“Ông Kartch sống một mình sao?”
“Ồ, đúng thật là vậy, trừ phi anh tính luôn mấy con chuột cống quanh đống rác nhà lão. Cũng may vợ lão trốn đi rồi. Tôi chẳng lấy làm lạ khi anh gọi – anh nói anh là cảnh sát đúng không?”
“Thanh tra đặc biệt của văn phòng công tố quận.” Anh biết rằng, khi công khai toàn bộ thông tin, theo nguyên tắc anh phải đề cập đến tên bang và tỉnh có quyền hạn điều tra nhưng anh tự biện minh rằng những chi tiết đó có thể bổ sung sau.
“Lão ta gây ra chuyện gì thế?”
“Tôi chưa biết, nhưng ông ta có thể giúp chúng tôi điều tra một vụ nên chúng tôi cần liên lạc với ông ta. Bà có biết ông ấy làm ở đâu hay mấy giờ ông ấy đi làm về không?”
“Đi làm á? Đúng là chuyện đùa!”
“Ông Kartch thất nghiệp ư?”
“Không có ai mướn thì đúng hơn.” Có sự cay độc trong giọng bà ta.
“Hình như bà có vấn đề thật sự với ông ấy thì phải.”
“Lão là một con lợn, lão ngu ngốc, lão dơ bẩn, lão nguy hiểm, lão điên khùng, lão hôi hám, lão trang bị vũ khí đến tận răng, và lão thường xuyên say xỉn.”
“Nghe như một người hàng xóm lập dị nhỉ.”
“Lão hàng xóm đến từ địa ngục! Anh có hiểu cái cảm giác này không? Anh thì gắng sức dẫn người muốn mua nhà xem nhà anh trong khi con dã nhân ở trần nốc bia ừng ực nhà bên lấy súng săn bắn thùng rác nổ lổ chỗ.”
Đoán được câu trả lời sẽ như thế nào, anh quyết định hỏi câu tiếp theo. “Bà có sẵn lòng gửi hộ tôi một lời nhắn đến ông Kartch được không?”
“Anh đùa đấy à? Tôi chỉ sẵn lòng cho lão một đầu que nhọn thôi.”
“Khi nào thì ông ta thường ở nhà nhất?”
“Chọn đại một giờ đi, giờ nào cũng được. Tôi chưa bao giờ thấy cái lão mất trí đó rời nhà nửa bước.”
“Nhà ông ta có số không?”
“H a! Anh chẳng cần số má gì để nhận ra căn nhà đâu. Lúc vợ lão bỏ đi nhà chưa xây xong mà – giờ cũng có xong đâu. Không ván lợp ngoài. Chẳng thảm cỏ. Không có bậc thang lên cửa trước nữa. Ngôi nhà hoàn hảo cho một lão điên thật sự. Ai đến đó nên mang theo súng thì hơn.”
Gurney cảm ơn bà ta rồi kết thúc cuộc trò chuyện.
Giờ thì sao nữa?
Nhiều người khác nhau cần được cập nhật thông tin. Đầu tiên và quan trọng nhất là Sheridan Kline. Rồi sau đó tất nhiên là Randy Clamm. Chưa kể tay đại úy Rodriguez và Jack Hardwick nữa. Vấn đề là nên gọi cho ai trước. Anh quyết định để tất cả bọn họ chờ thêm ít phút nữa. Thay vào đó, anh gọi đến dịch vụ trợ giúp danh bạ xin số của Sở Cảnh sát Sotherton, bang Massachusetts.
Anh nói chuyện với viên trung sĩ đang trực, một người có giọng khàn đục tên Kalkan – giống tên một nhãn hiệu thức ăn cho chó. Tự giới thiệu xong, Gurney giải thích rằng một người đàn ông ở Sotherton tên Richard Kartch đang được cảnh sát quan tâm trong quá trình điều tra một vụ án mạng ở bang New York, rằng ông ta có thể sẽ gặp nguy hiểm, rằng có vẻ như ông ta không có điện thoại và cần phải nhanh chóng mang điện thoại đến cho ông ta hoặc mang ông ta đến nơi có điện thoại, để ông ta được cảnh báo về tình hình của mình.
“Chúng tôi có biết Richie,” Kalkan nói.
“Nghe như anh có lẽ đã gặp rắc rối với ông ấy.”
Kalkan không trả lời.
“Ông ta có tiền án à?”
“Khi nãy anh nói anh là ai cơ?”
Gurney nói cho anh ta nghe một lần nữa, lần này cụ thể hơn một chút.
“Và anh đang trong quá trình điều tra vụ gì?”
“Hai vụ giết người – một vụ ở phía Bắc New York, một vụ ở quận Bronx – cùng kiểu cách gây án. Trước khi bị giết, cả hai nạn nhân đều nhận được thông điệp từ hung thủ. Chúng tôi có bằng chứng cho thấy ông Kartch đã nhận được ít nhất một trong những thông điệp tương tự, nên ông ta có thể sẽ trở thành mục tiêu thứ ba.”
“Vậy anh muốn Richie Điên liên hệ với anh à?”
“Ông ta cần gọi cho tôi ngay lập tức, nếu có mặt một trong số cảnh sát các anh thì càng tốt. Nói chuyện điện thoại với ông ta xong, chúng tôi có thể phải tiến hành thẩm vấn tiếp ông ta ở Sotherton – với sự hợp tác của sở cảnh sát các anh.”
“Chúng tôi sẽ cho xe đến chỗ ông ấy ngay khi có thể. Cho tôi số điện thoại liên lạc của anh đi,”
Gurney cho anh ta số di động vì dự định dùng điện thoại nhà gọi cho Kline, BCI và Clamm.
Kline đã đi ra ngoài cả ngày, Ellen Rackoff cũng vậy, và cuộc gọi được tự động chuyển đến số điện thoại mà ở tiếng chuông thứ sáu Gurney toan cúp máy thì có người trả lời.
“Stimmel nghe đây.”
Gurney nhớ lại người đàn ông đi cùng Kline đến buổi họp BCI, một người có thứ tính cách của một tay tội phạm chiến tranh bị câm.
“Dave Gurney đây. Tôi có lời nhắn cho sếp của anh.”
Không có tiếng trả lời.
“Anh có đó không?”
“Tôi đây.”
Gurney hiểu ra đó có thể là lời mời anh tiếp tục. Nên anh tiếp tục nói và cho Stimmel biết chứng cứ xác nhận mối liên hệ giữa án mạng thứ nhất với án mạng thứ hai; rằng thông qua Dermott, anh đã tìm ra người có thể là nạn nhân thứ ba; và cho anh ta biết những bước anh đang tiến hành thông qua Sở Cảnh sát Sotherton để liên lạc được với ông ta. “Anh hiểu hết chứ?”
“Hiểu.”
“Sau khi thông báo cho ủy viên công tố quận xong, anh muốn chuyển thông tin này đến BCI luôn hay tôi nên nói chuyện trực tiếp với Rodriguez?”
Có một khoảng lặng ngắn. Gurney cho rằng người đàn ông nghiêm nghị, kín tiếng này đang tính toán hệ quả của cả hai phương án. Biết rõ thiên hướng thích giành quyền kiểm soát của hầu hết các cảnh sát nên anh chắc chắn khoảng 90 phần trăm là mình sẽ có câu trả lời như mình nghĩ.
“Chúng tôi lo được rồi,” Stimmel nói.
Không còn nhu cầu gọi cho BCI nữa nên Gurney còn lại Randy Clamm.
Như thường lệ, cậu ta trả lời ở hồi chuông đầu tiên.
“Clamm đây.”
Và như thường lệ, cậu ta nghe có vẻ đang gấp gáp, như vừa nói vừa làm cùng lúc ba việc khác. “Anh gọi tôi mừng lắm. Đang lập ra 3 danh sách những chỗ gián đoạn trong tài khoản vãng lai của Rudden – danh sách các cuống séc có ghi tiền nhưng không ghi tên, danh sách séc đã trả nhưng chưa đổi ra tiền mặt, danh sách những số séc bị bỏ qua – bắt đầu từ thời gian gần đây nhất đi ngược về.”
“Có danh sách nào của anh có số tiền 289,87 đô không?”
“Hả? Sao anh biết? Nó nằm trong danh sách ‘séc đã trả nhưng chưa đổi ra tiền mặt’. Sao anh…?”
“Đó là khoản tiền hắn luôn yêu cầu nạn nhân gửi.”
“Luôn luôn ư? Ý anh là hơn hai lần rồi sao?”
“Tấm séc thứ ba được gửi đến cùng hộp thư. Chúng ta đang trong quá trình liên lạc với người gửi. Chính vì vậy nên tôi mới gọi để cho cậu biết kiểu mẫu hoạt động của hung thủ là như vậy. Nếu như các mảnh ghép của kiểu mẫu này vẫn đúng, thì viên kẹo đồng cậu đang tìm kiếm ở nhà Rudden là loại 0.38 đặc biệt.”
“Ai là nạn nhân thứ ba?”
“Richard Kartch ở Sotherton, bang Massachusetts. Vẻ như là một nhân vật khó tính.”
“Massachusetts sao? Chúa ơi, thằng nhóc của chúng ta có mặt ở khắp nơi. Nạn nhân thứ ba vẫn còn sống chứ?”
“Ít phút nữa sẽ biết. Cảnh sát địa phương đã cho xe đến nhà ông ta.”
“Được rồi. Cảm ơn anh đã cho tôi biết mọi chuyện mọi lúc mọi nơi. Tôi sẽ đốc thúc đội thu thập chứng cứ trở lại nhà Rudden. Tôi sẽ cho anh biết sau. Cảm ơn anh đã gọi.”
“Chúc may mắn. Nói chuyện sau nhé.”
Càng lúc Gurney càng phục anh chàng thanh tra trẻ tuổi này. Anh càng nghe cậu ta nhiều bao nhiêu thì lại càng thích những gì mình nghe bấy nhiêu – sự năng nổ, thông minh, tận tâm trong công việc. Và còn một thứ khác nữa. Thứ gì đó hào hứng không dễ lay chuyển. Thứ gì đó làm anh cảm động.
Anh lắc đầu quầy quậy như chó giũ nước rồi hít vào nhiều hơi sâu. Anh nghĩ ngày hôm nay chắc hẳn đã làm anh cạn kiệt về mặt cảm xúc nhiều hơn anh tưởng. Hoặc có lẽ dư âm của giấc mơ về người bố vẫn còn đeo đuổi anh. Anh tựa lưng vào ghế rồi nhắm mắt lại.
Tiếng điện thoại đánh thức anh dậy, mới đầu anh lại nhầm đó là tiếng chuông báo thức. Anh thấy mình vẫn còn ngồi trên ghế trong phòng làm việc, cổ cứng đơ đau nhức. Đồng hồ đeo tay cho anh biết mình đã thiếp đi gần hai tiếng đồng hồ. Anh nhấc điện thoại lên và hắng giọng.
“Gurney nghe đây.”
Giọng tay ủy viên công tố ở đầu dây bên kia bật ra như con ngựa bật chạy từ công xuất phát.
“Dave, tôi vừa nhận được tin. Chúa ạ, vụ này càng lúc càng lớn. Một nạn nhân tiềm tàng thứ ba ở Massachusetts ư? Đây có lẽ là vụ mưu sát khốn kiếp lớn nhất kể từ vụ Con trai của Sam, chưa kể đến vụ Jason Strunk của anh nữa. Vụ này lớn thật! Tôi muốn nghe chính miệng anh nói câu này trước khi tôi nói chuyện với báo đài: chúng tôi có chứng cứ xác đáng cho thấy đây là cùng một gã đã xử hai nạn nhân đầu tiên, đúng không?”
“Chứng cứ ám chỉ rất rõ điều đó.”
“Ám chỉ ư?”
“Ám chỉ rất rõ.”
“Anh nói chắc chắn hơn được không?”
“Ta không có dấu vân tay. Ta không có ADN. Theo tôi, nhất định hai vụ này có liên quan đến nhau, nhưng ta chưa chứng minh được các nạn nhân bị cùng một đối tượng cứa cổ.”
“Khả năng này có cao không?”
“Rất cao.”
“Anh phán đoán như vậy là đủ cho tôi rồi.”
Gurney mỉm cười trước lòng tin giả tạo rành rành này. Anh biết quá rõ Sheridan Kline là hạng người coi trọng phán đoán của mình nhiều hơn của bất kỳ ai khác, nhưng y luôn muốn để ngỏ một con đường để đổ trách nhiệm nếu tình hình trở xấu.
“Tôi thấy đã đến lúc nói chuyện với bạn bè của chúng ta ở kênh Fox News rồi. Muốn vậy, tối nay tôi phải liên lạc với BCI để soạn ra một bản tuyên bố. Cập nhật cho tôi chuyện này từng phút nhé Dave, nhất là các diễn biến ở Massachusetts. Tôi muốn biết tất cả.” Kline cúp máy mà không buồn chào tạm biệt.
Có vẻ như Kline đang có kế hoạch công khai vụ án một cách rình rang – tăng tốc gánh xiếc truyền thông trong vai trò người chỉ đạo tiết mục – trước khi ủy viên công tố ở quận Bronx, hoặc ở bất kỳ địa phận nào mà cuộc giết chóc lan tới, chộp được cơ hội đánh bóng bản thân trước công chúng. Cứ tưởng tượng đến mấy buổi họp báo sắp tới là môi Gurney lại giật lên đầy ghê tởm.
“Anh có sao không đấy?”
Giật mình bởi giọng nói ở gần sát bên, Gurney nhìn lên, thấy Madeleine đứng chỗ cửa phòng làm việc.
“Chúa ạ, em làm quái gì mà…?”
“Anh mải mê nói chuyện quá nên em vào anh đâu có nghe.”
“Hình như vậy.” Anh chớp mắt nhìn đồng hồ. “Thế em đã đi đâu?”
“Có nhớ em nói gì lúc em ra cửa không?”
“Em nói em không muốn cho anh biết em định đi đâu.”
“Em nói em đã cho anh biết những hai lần rồi.”
“Được rồi, tốt thôi. Ờ… anh có việc phải làm.”
Như thể là đồng minh của anh, điện thoại đổ chuông.
Điện thoại gọi từ Sotherton nhưng không phải của Richard Kartch mà là một thanh tra có cái tên Gowacki.
“Chúng tôi đang gặp tình huống này,” anh ta nói. “Anh đến đây gấp được không?”