Chương 36 Manh Mối Tiếp Nối
Trước khi cúp máy, Gurney đã thuyết phục được thám tử Clamm tin rằng việc bông hoa xuất hiện ở án mạng thứ hai trùng tên với nơi xảy ra án mạng thứ nhất nhất định không đơn giản là trùng hợp.
Anh cũng đề nghị nhiều hành động cần phải thực hiện ngay không được chậm trễ – lục soát toàn diện nhà Rudden để tìm xem có lá thư nào lạ không, bất cứ thư nào dưới dạng thơ, bất cứ thư nào viết tay, bất cứ thư nào viết bằng mực đỏ; báo cho văn phòng khám nghiệm tử thi biết hung thủ dùng súng kết hợp với chai vỡ trong vụ án ở Peony, phòng khi họ muốn khám nghiệm lại xác Rudden; lùng sục căn nhà tìm vết đạn hay vật liệu nào có thể dùng để giảm thanh tiếng súng; rà soát lại căn nhà và những nhà sát vách, cả phần đường nằm giữa căn nhà và hàng rào phân giới cộng đồng để tìm chai lọ bị vỡ, đặc biệt là vỏ chai uýt ki; và bắt đầu soạn ra lý lịch của Albert Rudden để khai thác tìm ra mối liên hệ tiềm tàng giữa ông ta và Mark Mellery cũng như những vụ xung đột, kẻ thù, vấn đề pháp lý, hoặc những rắc rối có liên quan đến rượu.
Cuối cùng, khi nhận ra giọng điệu độc đoán trong những ‘lời đề nghị’ của mình, Gurney nói chậm lại và xin lỗi.
“Xin lỗi cậu, Randy. Tôi làm việc không theo trật tự gì cả. Vụ Rudden hoàn toàn là của cậu. Cậu là người phụ trách, nghĩa là nước cờ tiếp theo là gì do cậu toàn quyền quyết định. Tôi biết tôi không phải là người phụ trách nên xin lỗi cậu, tôi cư xử như vậy thật không phải.”
“Không sao cả. À, dưới này có một anh trung úy tên Everly nói đã từng học chung Học viện Cảnh sát với một người tên Dave Gurney. Có phải là anh không?”
Gurney bật cười. Anh quên mất Bobby Everly đang công tác ở địa phận đó. “ừ, là tôi đấy.”
“À, nếu vậy thì tôi hoan nghênh bất kỳ thông tin nào từ anh mọi lúc mọi nơi, và bất cứ khi nào anh muốn hỏi bà Rudden nữa thì xin cứ tự nhiên. Tôi thấy anh rất biết cách khai thác bà ấy.”
Nếu đây là lời châm biếm thì lời châm biếm này được che đậy rất kỹ. Gurney quyết định xem đó là lời khen.
“Cảm ơn cậu. Tôi không cần nói chuyện trực tiếp với bà ấy đâu, nhưng tôi có một đề nghị nhỏ. Nếu tình cờ tôi phải nói chuyện mặt đối mặt với bà ấy một lần nữa, tôi sẽ thẳng thắn hỏi bà ấy Đức Chúa đã bảo bà ta làm gì với vỏ chai uýt ki vỡ.”
“Chai uýt ki nào cơ?”
“Cái chai có thể đã bị bà ta đem ra khỏi hiện trường vì lý do mà bản thân bà ấy biết rõ nhất. Tôi sẽ hỏi chuyện cái chai một cách bóng gió rằng cậu biết cái chai nằm ở đó rồi và biết bà ấy đã lấy đi dưới sự thúc bách của Đức Chúa, và cậu chỉ tò mò muốn biết cái chai ở đâu thôi. Dĩ nhiên có thể chẳng có cái chai uýt ki nào cả, và nếu cậu cảm nhận được bà ấy thật sự chẳng biết cậu đang nói gì, thì cứ việc chuyển sang câu hỏi khác.”
“Anh có chắc toàn bộ vụ việc này sẽ theo kiểu mẫu vụ án ở Peony không – nhất định phải có một cái chai uýt ki ở đâu đó ư?”
“Tôi nghĩ như vậy. Nếu cậu thấy tiếp cận bà ấy như vậy không thoải mái thì không sao cả. Đó là quyền của cậu.”
“Cũng đáng thử mà. Chẳng mất mát gì nhiều. Tôi sẽ cho anh biết kết quả sau.”
“Chúc may mắn.”
Người tiếp theo Gurney cần nói chuyện là Sheridan Kline. Có một sự thật hiển nhiên nói rằng không bao giờ nên để sếp của bạn qua người khác mà biết bất kỳ thông tin nào ông ta cần nghe từ bạn. Trong lĩnh vực chấp pháp, sự thật đó đúng gấp đôi. Gurney liên lạc được với Kline khi y đang trên đường dự buổi hội nghị ở Lake Placid giữa các ủy viên công tố đến từ nhiều khu vực khác nhau, và sóng điện thoại chập chờn ở vùng núi phía Bắc làm anh mất liên lạc thường xuyên với Kline, khiến anh phải giải thích cái mắt xích “hoa mẫu đơn,” vất vả hơn mình muốn. Anh nói xong, Kline chần chừ một lúc thật lâu mới trả lời, làm Gurney lo y lại lái vào một khu vực mất tín hiệu truyền tải.
Cuối cùng y nói, “Yếu tố hoa cỏ này – anh thấy ổn à?”
“Nếu thật sự chỉ là trùng hợp,” Gurney nói, “thì đây là một sự trùng hợp rất đáng chú ý đấy.”
“Nhưng cùng chưa vững chắc lắm. Giả sử tôi lập luận ngược lại đi. Tôi buộc phải chỉ ra rằng vợ anh chưa tận mắt thấy cái bông hoa nhựa mà anh tả cho cô ấy nghe cơ mà. Giả sử bông hoa đó không phải là hoa mẫu đơn gì sất. Nếu vậy thì chúng ta đang ở đâu đây? Cứ cho thật sự là hoa mẫu đơn đi, như vậy cũng chưa chứng minh được điều gì cả. Tôi thề đây chẳng phải là chứng cứ đột phá gì đâu mà bảo tôi dám đứng lên phát biểu trong buổi họp báo. Chúa ạ, sao lại không phải là hoa thật cho ta biết chắc hơn nhỉ? Sao lại là hoa nhựa cơ chứ?”
“Chuyện đó cũng làm tôi đau đầu,” Gurney nói, cố gắng che giấu sự bực dọc trước phản ứng của Kline. “Tại sao không phải là hoa thật? Ít phút trước tôi có hỏi vợ như vậy và cô ấy nói mấy người bán hoa không muốn bán hoa mẫu đơn vì khi nở ra thì đài hoa nặng nên không đứng thẳng trên cuống được. Hoa này có bán trong vườn ươm để trồng, nhưng chưa tới mùa nên chưa có. Thành ra, dùng hoa nhựa có lẽ là cách duy nhất để hắn gửi thông điệp cho chúng ta. Tôi đang nghĩ có lẽ tên hung thủ chỉ nhân tiện làm vậy thôi – hắn thấy hoa trong cửa hàng rồi nảy ra ý tưởng này, vì thấy nó vui vui.”
“Vui vui ư?”
“Hắn đang chế nhạo chúng ta, thử chúng ta, chơi trò với chúng ta. Nhớ lại bức thư hắn để lại trên xác Mellery đi – có giỏi thì đến bắt tao đi. Như vậy mới có mấy cái dấu chân đi giật lùi đấy. Tên điên này đang đong đưa thông điệp trước mặt chúng ta, tựu trung lại chỉ muốn nói: ‘Đuổi theo tao đi, đuổi theo tao đi, dám cá bọn bay chẳng bắt được tao!’ “
“OK, tôi hiểu rồi, tôi hiểu ý anh rồi. Có lẽ anh đúng. Nhưng chỉ dựa vào suy đoán của một cá nhân về ý nghĩa của một bông hoa nhựa thì tôi làm sao dám công bố là đã tìm ra mắt xích liên kết hai vụ án này được. Cho tôi thứ gì đó cụ thể nào – càng sớm càng tốt.”
Cúp máy xong, Gurney ngồi xuống cạnh của sổ phòng làm việc, nhìn trân trân cảnh chiều ảm đạm bên ngoài. Cứ cho là mọi việc như Kline suy đoán đi. Rốt cuộc có thể bông hoa đó chẳng phải là hoa mẫu đơn gì cả thì sao. Gurney bàng hoàng nhận ra ‘mắt xích’ mới của anh thật sự rất mong manh nhưng anh lại quá tin tưởng vào nó. Bỏ qua cái sơ hở rành rành đó là dấu hiệu cho thấy rõ ràng anh đã đưa quá nhiều cảm tính vào giả thuyết của mình. Biết bao lần anh nhấn mạnh điều đó cho sinh viên ngành tội phạm học nghe trong một khóa đứng lớp ở đại học bang, vậy mà giờ đây anh lại đang rơi vào chính cái bẫy đó. Thật ngán ngẩm.
Những ngõ cụt trong ngày cứ chạy lòng vòng trong đầu anh thành một vòng lặp mệt mỏi suốt nửa giờ, hoặc có lẽ lâu hơn.
“Sao anh lại ngồi trong bóng tối thế kia?”
Anh xoay người trong ghế, thấy bóng Madeleine ngả chỗ cửa.
“Kline muốn các mối liên kết được xác thực hơn thay vì một bông hoa mẫu đơn dễ gây tranh cãi.” Anh nói. “Anh cho tay thám tử ở Bronx một số chỗ để tìm rồi. Hy vọng cậu ta sẽ tìm ra được gì đó.”
“Anh nói có vẻ không tin tưởng lắm.”
“Này nhé, một mặt chúng ta có cái hoa mẫu đơn ấy, hay ít ra là có cái bông hoa mà chúng ta nghĩ là hoa mẫu đơn. Mặt khác chúng ta lại gặp vấn đề khi tưởng tượng rằng có mối liên hệ nào đó giữa nhà Rudden và nhà Mellery. Nếu có người sống ở nhiều thế giới khác nhau…”
“Nếu đó là tên hung thủ giết người hàng loạt và không có mối liên hệ nào thì sao?”
“Có giết người hàng loạt thì cũng không giết ngẫu nhiên. Nạn nhân của bọn chúng thường có một điểm chung nào đó – đều có tóc vàng, đều là dân châu Á, đều đồng tính – một đặc điểm nào đó có ý nghĩa đặc biệt đối với hung thủ. Nên cho dù Mellery và Rudden chẳng bao giờ dính líu trực tiếp đến chuyện nào đi nữa, thì chúng ta vẫn phải tìm ra điểm chung hoặc điểm tương đồng giữa hai người.”
“Vậy nếu…” Madeleine toan nói nhưng tiếng chuông điện thoại cắt ngang lời cô.
Randy Clamm gọi.
“Xin lỗi đã làm phiền anh nhưng tôi nghĩ anh muốn biết là anh đã đúng. Tôi lái xe đến đó gặp bà góa phụ, rồi hỏi cái câu mà anh khuyên tôi nên hỏi – hỏi cũng thẳng thắn lắm. Tôi chỉ hỏi, ‘Cho tôi xem cái chai uýt ki mà bà tìm thấy được không?’ Tôi chẳng cần phải đụng đến Đức Chúa gì cả. Bả nói luôn, ‘Cái chai đó ở trong thùng rác’, nói thẳng thắn y như tôi vậy. Bả mà không nói vậy chắc tôi tiêu. Tôi với bả vào bếp thì thấy ngay cái chai đang nằm trong xô rác – hiệu Bốn Hoa Hồng, bị bể. Tôi nhìn chằm chằm cái chai, không nói nên lời. Không phải tôi bất ngờ vì anh đoán đúng – đừng hiểu sai đó – mà vì Chúa ơi, tôi không ngờ lại dễ dàng đến vậy. Hiển nhiên bỏ mẹ. Định tâm lại xong, tôi mới yêu cầu bả chỉ cho tôi biết chính xác nơi tìm ra cái chai. Nhưng ngay lúc đó tự nhiên toàn bộ sự việc giống như bắt đầu có tác động với bả vậy, nhìn bả thấy buồn lắm – chắc do lúc đó tôi nói chuyện không được thân mật cho lắm. Tôi nói bà thư giãn đi, đừng lo nghĩ gì hết, nói cho tôi biết bà phát hiện cái chai ở đâu đi, vì như vậy sẽ giúp ích cho chúng tôi rất nhiều, rồi tôi kêu bả, anh biết đó, đại loại là kể cho tôi nghe vì lý do khỉ gió gì mà lại dời cái chai chứ. Dĩ nhiên tôi không nói vậy, tôi chỉ nghĩ trong đầu vậy thôi. Rồi bả nhìn tôi, anh biết bả nói gì không? Bả nói Albert lâu nay tiến bộ chuyện rượu chè lắm, gần một năm nay không uống rượu. Ổng đến Hội Cai rượu, tiến bộ lắm – rồi khi bả thấy cái chai nằm trên sàn cạnh ổng, bên cạnh cái bông hoa nhựa ấy, ý nghĩ đầu tiên của bả là ổng uống rượu trở lại rồi vấp phải cái chai, té xuống, bị chai cứa cổ chết. Ngay lúc đó bả không nhận ra là ổng bị sát hại – thậm chí bả còn không nghĩ đến chuyện đó nữa là, đến khi cảnh sát tới rồi bàn tán xôn xao thì bả mới biết. Nhưng trước khi họ đến bả giấu cái chai đi vì nghĩ đó là chai rượu của ổng, và bả thì không muốn ai biết là ổng đã nghiện rượu trở lại.”
“Và ngay cả sau khi biết ông ấy bị giết, bà ta vẫn không muốn ai biết cái chai ư?”
“Đúng. Vì bả vẫn nghĩ đó là chai của ổng, còn bả thì không muốn bất kỳ ai biết là ổng đã uống rượu, đặc biệt là những người bạn mới tốt bụng của ổng ở Hội Cai rượu,”
“Chúa ạ.”
“Vậy toàn bộ mọi chuyện hóa ra lại là một mớ hỗn độn lâm li. Mặt khác, anh tìm được chứng cứ của anh rồi đó, đúng là hai vụ án mạng này có liên hệ với nhau.”
Clamm không vui, lòng tràn ngập những cảm xúc trái ngược mà Gurney đã quá quen thuộc – những cảm giác khiến việc trở thành một cảnh sát giỏi thật khó khăn, thật mệt mỏi đến cùng cực.
“Cậu làm tốt lắm, Randy.”
“Anh bảo sao thì tôi làm vậy thôi mà,” Clamm nói bằng cái giọng hối hả và kích động của cậu ta. “Sau khi bảo vệ cái chai, tôi gọi cho đội thu thập chứng cứ quay trở lại khám xét toàn bộ ngôi nhà tìm thư từ, ghi chú, thứ gì cũng tìm. Anh đề cập đến tập séc với tôi sáng nay nên tôi yêu cầu bà Rudden cho xem tập séc. Bả đưa cho tôi mà chẳng biết tí gì về nó – cầm tập séc giống như nó có chất phóng xạ hay sao đó, nói là Albert lo hết mấy chuyện hóa đơn. Nói không thích séc vì séc có số, và cậu phải cẩn thận với mấy con số, số có thể xấu xa – ba thứ nhảm nhí về quỷ Satan, mấy chuyện tôn giáo tào lao khùng điên đó. Sao cũng dược, tôi xem qua tập séc và kết luận phải mất thêm nhiều thời gian nữa mới mày mò ra được gì đó. Albert chắc đã trả hóa đơn rời, nhưng ổng chẳng thạo việc theo dõi sổ sách gì mấy. Trên cuống séc chẳng thấy ghi tên ai là Arybdis, Charybdis, hay Scylla cả – tôi tìm kiếm thông tin đó trước tiên – mà cũng chẳng có ý nghĩa gì nhiều vì đa số các cuống séc đều không có tên, chỉ ghi số tiền, một số cuống cả tiền còn không ghi. Còn bảng sao kê ngân hàng hằng tháng thì bà Rudden chẳng biết trong nhà có không nữa, nhưng chúng tôi sẽ lục soát toàn diện và sẽ xin phép bả lấy bản sao từ ngân hàng. Bây giờ anh và tôi đang cầm hai góc của cùng một tam giác rồi, nên trong thời gian chờ đợi, còn điều gì khác anh muốn chia sẻ với tôi về vụ Mellery không?”
Gurney nghĩ ngợi. “Trước khi bị giết, Mellery có nhận được một loạt lời đe dọa trong đó có nhiều chỗ đề cập mơ hồ đến những chuyện ông ta đã làm trong lúc say xỉn. Còn bây giờ thì hóa ra Rudden cũng có vấn đề về rượu nữa.”
“Anh muốn nói ta đang tìm kiếm một kẻ chạy loanh quanh khắp nơi sát hại mấy gã bợm à?”
“Không hẳn vậy. Nếu hắn chỉ muốn làm vậy thì có nhiều cách dễ dàng hơn.”
“Chẳng hạn như quăng bom vào buổi họp mặt của Hội Cai rượu ư?”
“Cách gì đó đơn giản. Cách gì đó vừa tăng tối đa cơ hội của hắn vừa giảm thiểu rủi ro. Nhưng cách tiến hành của tên này lại phức tạp và bất tiện. Chẳng thấy có gì là dễ dàng hay trực tiếp trong cách thức của hắn. Chỗ nào nhìn vào cũng phát sinh câu hỏi cả.”
“Ví dụ như?”
“Trước tiên, sao hắn lại chọn nạn nhân có khoảng cách địa lý xa nhau đến vậy – và xa cả về những khía cạnh khác nữa?”
“Để ngăn không cho chúng ta nối hai vụ lại với nhau chăng?”
“Nhưng hắn muốn chúng ta nối hai vụ đó lại mà. Mấu chốt của bông hoa mẫu đơn là ở chỗ đó. Hắn muốn được chú ý. Muốn được nhìn nhận. Đây không phải là tên hung thủ thông thường anh đang trốn chạy đâu. Tên này muốn đối đầu – không chỉ với nạn nhân mà còn với cả cảnh sát nữa.”
“Nhắc tới mới nhớ, tôi cần phải cập nhật cho trung úy của tôi nữa. Ổng mà biết tôi gọi cho anh trước thì sẽ không vui đâu.”
“Cậu đang ở đâu?”
“Trên đường về sở cảnh sát.”
“Vậy cậu sẽ đi đại lộ Tremont rồi?”
“Sao anh biết?”
“Tiếng xe cộ rần rần ở Bronx ngoài nền. Có nơi nào giống vậy đâu.”
“Ở nơi khác chắc tốt hơn. Anh có muốn nhắn gì với trung úy Everly không, tôi chuyển cho?”
“Chuyện đó tính sau đi. Anh ấy sẽ hứng thú muốn nghe những gì cậu nói hơn.”