← Quay lại trang sách

Chương 39 Ông Và Tôi Có Hẹn Đấy, Ông 658 Ạ

Khi Gurney cúp máy sau cuộc điện thoại với tay Mike Gowacki giọng đều đều thì đồng hồ đã chỉ 9 giờ 15. Gurney nhận ra Madeleine đã đi ngủ, tựa đầu trên gối, tay cầm một cuốn sách. Chiến tranh và hòa bình. Cô đọc cuốn đó đã 3 năm, luân phiên qua lại giữa cuốn đó với cuốn sách có nội dung trái ngược là Walden của tác giả Thoreau.

“Anh phải đi đến hiện trường một vụ án.”

Madeleine đưa mắt ra khỏi sách, ngước lên nhìn anh – tò mò, lo lắng, cô độc.

Anh cảm thấy chỉ có thể đáp lại sự tò mò của cô. “Thêm một nạn nhân nam nữa. Lại bị cắt cổ, lại có mấy dấu chân trên tuyết.”

“Bao xa vậy?”

“Sao cơ?”

“Anh phải đi bao xa?”

“Sotherton, bang Massachusetts. Chắc ba bốn tiếng gì đó.”

“‘Vậy mai anh mới về rồi.”

“Hy vọng kịp bữa sáng.”

Cô nở nụ cười anh-nghĩ-anh-đang-đùa-với-ai-đây của mình.

Gurney toan đi thì khựng lại rồi ngồi xuống cạnh giường. “Vụ án này lạ lắm,” anh muốn nói cho cô hiểu sự bất định của anh về vụ án. “Càng lúc càng lạ.”

Madeleine gật đầu, không hiểu sao đã dịu lại.” Anh không nghĩ đây là loại hung thủ giết người hàng loạt thông thường ư?”

“Ừ. Không phải hung thủ thông thường.”

“Vì hắn liên lạc quá nhiều với các nạn nhân ư?”

“Đúng. Còn các nạn nhân thì lại quá đa dạng về đặc điểm cá nhân cũng như vị trí địa lý. Thông thường, giết người hàng loạt ai lại đi khắp nơi từ vùng Catskills cho đến vùng Đông Bronx rồi đến Trung Massachusetts để theo đuổi mấy tay tác giả nổi tiếng, mấy tay gác đêm về hưu, và mấy tay đơn độc khó chịu chứ.”

“Họ hẳn có điểm chung nào đó.”

“Họ đều có tiền sử nghiện rượu và bằng chứng cho thấy hung thủ tập trung vào vấn đề này. Nhưng nhất định họ còn có điểm chung nào khác nữa – nếu không tại sao lại chọn nạn nhân cách xa nhau hơn ba trăm cây số cho rắc rối cơ chứ?”

Hai người im bặt. Gurney lơ đãng phủi thẳng tấm ga nệm nằm giữa hai người. Madeleine nhìn anh một chập, tay cô vẫn đặt trên sách.

“Anh nên đi thì hơn,” anh nói.

“Cẩn thận đấy.”

“Ừm.” Anh đứng dậy chầm chậm, uể oải như bị viêm khớp. “Sáng mai gặp em nhé.”

Cô nhìn anh bằng nét mặt mà anh chẳng bao giờ có thể diễn tả được bằng lời hay thậm chí nói được nó tốt hay xấu, nhưng anh hiểu rõ. Anh cảm nhận được nó gần như chạm vào giữa lồng ngực anh.

Khi anh rẽ khỏi đường cao tốc thu phí Massachusetts thì đã quá nửa đêm và khi anh lái qua con đường cái hoang vắng ở Sotherton thì đã một giờ rưỡi sáng. Mười phút sau, trên con đường Quarry có nhiều vết xe lún, anh đến một nơi có một toán xe cảnh sát đậu bừa bãi, một xe trong số đó đang nhấp nháy đèn. Anh tấp xe sát bên chiếc xe nhấp nháy. Khi anh bước ra khỏi xe, một tay cảnh sát cáu kỉnh mặc sắc phục xuất hiện từ trong cỗ máy ánh sáng.

“Gượm đã. Anh nghĩ anh đang đi đâu vậy?” Y có vẻ không chỉ cáu kỉnh mà còn kiệt sức nữa.

“Tôi tên Gurney, đến đây gặp thanh tra Gowacki.”

“Về việc gì?”

“Anh ta đang mong tôi đến.”

“Về việc gì mới được?”

Gurney tự hỏi liệu thái độ cáu kỉnh của gã này xuất phát từ một ngày dài đằng đẵng hay từ thái độ dở hơi vốn thuộc về bản chất. Anh không giỏi chịu đựng những thái độ dở hơi vốn thuộc về bản chất.

“Anh ta yêu cầu tôi đến đây. Anh cần giấy tờ xác minh không?”

Tay cảnh sát bật đèn pin lên chiếu vào mặt Gurney. “Anh nói anh là ai cơ?”

“Gurney, thanh tra đặc biệt, từ phòng công tố quận.”

“Sao hồi nãy không nói mẹ ra như vậy?”

Gurney cười mà mặt không có chút cảm xúc gì gọi là thân thiện.

“Vậy anh có định nói với Gowacki là tôi đến rồi không?”

Sau một hồi do dự đầy thù địch, cuối cùng tay cảnh sát cũng quay lưng đi đến mép ngoài một lối xe chạy dài trên dốc dẫn vào một ngôi nhà mà, dưới những cung sáng di động soi rọi hiện trường để kỹ thuật viên làm việc, dường như chỉ mới hoàn thành phân nửa. Chẳng cần mời, Gurney đi theo y.

Lối đi đến gần căn nhà thì cắt ngang vào bờ dốc bên trái và dẫn xuống một ga ra nhỏ dưới tầng hầm chỉ để được hai xe mà hiện thời đang có sẵn một chiếc. Thoạt đầu Gurney nghĩ cửa ga ra đang mở, nhưng sau đó anh nhận ra ga ra không có cửa. Lớp tuyết dày hơn một phân phủ trên lối ô tô chạy dài vào tận bên trong. Tay cảnh sát dừng chân ở lối vào bị chăng dây vàng xung quanh, rồi hét lớn, “Mike!”

Không có tiếng trả lời. Tay cảnh sát nhún vai như muốn nói y đã nỗ lực hết sức nhưng thất bại và đành phải chấp nhận. Đúng lúc đó, một giọng nói mệt mỏi cất lên từ sân sau. “Ở đằng sau này.”

Không chần chừ, Gurney vòng quanh chu vi dây vàng hướng về phía tiếng nói.

“Nhớ phải luôn đứng ngoài dây vàng đấy nhá.” Lời cảnh báo của tay cảnh sát đập vào tai Gurney như tiếng sủa cuối cùng của một con chó cáu kỉnh.

Vòng quanh góc sau căn nhà, anh nhận thấy khu vực sáng trưng như ban ngày dưới ánh đèn chói chang này không hẳn là ‘cái sân’ mà anh đã mong đợi. Cũng như ngôi nhà, nó phô bày một sự pha trộn lạ lẫm giữa dở dang và tiêu điều. Một người đàn ông vóc dáng nặng nề có mái tóc hói dở đang đứng ở cửa sau, trên một bậc tam cấp thô sơ được làm tạm bợ bằng những tấm gỗ kích thước 2 x10. Cặp mắt người đàn ông lướt qua khoảng đất trống rộng hơn hai nghìn mét vuông tách ngôi nhà ra khỏi một bụi cây sơn.

Mặt đất lồi lõm như chưa từng được san phẳng sau khi móng được lấp đất lại. Những mảnh gỗ làm giàn chất đống chỗ này chỗ kia đã ngả xám do thời tiết. Ngôi nhà chỉ mới được lợp ngoài phân nửa, và lớp nhựa chống ẩm trên lớp gỗ dán bên ngoài đã phai màu vì phơi sương gió. Có cảm giác như đây không phải là một nơi đang thi công mà là một nơi đã bỏ lửng thi công.

Khi ánh mắt người đàn ông chắc mập ấy đến chỗ Gurney, anh ta nhìn anh chăm chú trong vài giây rồi hỏi, “Anh là người đến từ vùng Catskills sao?”

“Đúng vậy.”

“Đi dọc theo dải băng khoảng 3 mét nữa, rồi bước phía dưới dải băng, đi vòng qua đây ra cửa sau nào. Anh nhớ tránh xa chỗ dấu chân đi từ ngôi nhà đến lối xe ra vào đấy.”

Đây có thể là Gowacki, nhưng vốn không thích giả định nên anh hỏi và nhận được một câu khẳng định ậm ừ.

Khi đi ngang qua bãi đất trống mà trước đây lẽ ra là sân sau, Gurney tiến đủ gần đến chỗ dấu chân để có thể nhận ra sự tương đồng giữa chúng với những dấu chân ở chỗ viện.

“Nhìn thấy quen không?” Gowacki hỏi, mắt chăm chú nhìn Gurney một cách tò mò.

Khả năng nắm bắt của tay thám tử tròn trĩnh này không có vẻ gì là ngớ ngẩn cả, Gurney nghĩ. Anh gật gù. Giờ thì đến lượt anh thể hiện khả năng nắm bắt tình huống.

“Mấy dấu chân này khiến anh băn khoăn à?”

“Chút đỉnh,” Gowacki nói. “Cũng không hẳn là do dấu chân đâu. Điều làm tôi băn khoăn hơn là vị trí cái xác so với dấu chân. Anh có biết được thứ gì mà tôi không biết không?”

“Vị trí cái xác có hợp lý hơn không nếu hướng đi của dấu chân được đảo ngược lại?”

“Nếu hướng đi được… Chờ chút đã… Đúng rồi, chết tiệt thật, hợp lý hoàn toàn rồi!” Anh ta nhìn Gurney trân trân. “Chúng ta đang đối phó với vấn đề quái quỷ gì đây?”

“Trước nhất, chúng ta đang đối phó với một kẻ đã giết 3 người trong tuần vừa rồi – 3 chỉ là con số mà chúng ta biết thôi. Hắn là một kẻ mưu mô và cầu toàn. Hắn để lại rất nhiều manh mối nhưng chỉ là những manh mối hắn muốn chúng ta thấy thôi. Hắn cực kỳ thông minh, có lẽ có học thức và chắc hẳn ghét cảnh sát còn nhiều hơn cả ghét các nạn nhân. À, cái xác vẫn còn ở đây chứ?”

Gowacki trông như đang ghi lại từng lời đáp của Gurney trong đầu. Cuối cùng anh ta nói, “Vâng, xác vẫn ở đây. Tôi đã muốn anh xem xác khi nãy rồi vì nghĩ có thể anh sẽ nghĩ ra được thứ gì đó dựa vào những gì anh biết về hai cái xác kia. Sẵn sàng xem chưa?”

Cửa sau dẫn đến một khu vực nhỏ chưa hoàn tất có vị trí các ống nước được lắp đặt sơ sài, cho thấy đây có lẽ sẽ là phòng giặt ủi, nhưng lại chẳng có máy giặt hay máy sấy nào. Cả một tấm thạch cao trên lớp cách nhiệt cũng không có. Hệ thống chiếu sáng chỉ gồm một bóng đèn tròn đặt trong khung đèn màu trắng rẻ tiền gắn chặt vào rầm trần phơi ra.

Dưới ánh sáng sơ sài không mấy hiếu khách, cái xác nằm ngửa ngang chỗ cửa không được sửa sang, nửa này nằm trong khu vực phòng giặt ủi tương lai, nửa nọ nằm trong nhà bếp.

“Cho tôi xem kỹ hơn được không?” Gurney nhăn mặt hỏi.

“Thì anh đến đây là để xem kỹ mà.”

Nhìn sát hơn, anh thấy một vũng máu đã đông từ nhiều vết đâm lan khắp sàn bếp và dưới một chiếc bàn điểm tâm có lẽ mua ở tiệm đồ cũ. Gương mặt nạn nhân đầy vẻ giận dữ, nhưng những đường nét chua chát in hằn trên khuôn mặt lớn và cứng đờ là sản phẩm của một đời người và chẳng tiết lộ điều gì về vụ tấn công cuối cùng dẫn đến cái chết.

“Trông ông ta rất bất mãn,” Gurney nói.

“Một lão chó má khốn kiếp thì có.”

“Tôi đoán trước đây anh gặp rắc rối với ông Kartch phải không?”

“Không gì ngoài rắc rối. Mà toàn là rắc rối không cần thiết mẹ gì.” Gowacki nhìn cái xác trừng trừng như thể cái kết đầy máu me và tàn bạo của nó chưa phải là hình phạt tương xứng. “Thị trấn nào cũng đều có kẻ gây rối – mấy tên say xỉn giận dữ, mấy tên nhếch nhác bẩn thỉu biến nơi ở thành chuồng heo để chọc tức hàng xóm, mấy thằng khốn mà vợ cũ của bọn họ phải xin lệnh bảo vệ, mấy thằng ngu để chó sủa cả đêm, mấy kẻ quái đản mà bà mẹ nào cũng muốn con mình cách xa ba thước. Ở Sotherton này đây, tất cả mấy thằng ngu đó gói gọn lại trong một gã – Richie Kartch.”

“Nghe như một gã lập dị nhỉ.”

“Tò mò một chút, hai nạn nhân kia có giống vậy chút nào không?”

“Nạn nhân đầu tiên thì hoàn toàn trái ngược. Nạn nhân thứ hai thì tôi vẫn chưa có thông tin chi tiết nhưng tôi không nghĩ ông ta giống người này.” Gurney nhìn một lần nữa vào gương mặt đang chằm chằm nhìn từ sàn lên trần, xấu xí lúc chết cũng như cả khi sống.

“Tôi vừa nghĩ có lẽ ta có một tay giết người hàng loạt đang tìm cách loại hết mấy tay dở hơi ra khỏi thế giới. Sao cũng được, trở lại lời nhận xét của anh khi nãy về dấu chân trên tuyết. Sao anh biết dấu chân sẽ hợp lý hơn nếu đi theo hướng ngược lại?”

“Dấu chân đã như vậy trong vụ án đầu tiên.”

Mắt Gowacki thể hiện sự thích thú. “Vị trí cái xác phù hợp với giả thuyết hung thủ vào nhà bằng cửa sau rồi tấn công nạn nhân trước mặt. Nhưng dấu chân lại cho thấy có người vào nhà bằng cửa trước rồi rời nhà bằng cửa sau. Chẳng hợp lý chút nào.”

“Phiền anh cho tôi xem quanh chỗ nhà bếp được không?”

“Tự nhiên đi. Nhân viên nhiếp ảnh, nhân viên pháp y, nhân viên thu thập mẫu máu và sợi vải đều ở đây cả. Chỉ cần đừng dịch chuyển thứ gì là được. Chúng tôi vẫn đang tiếp tục xem xét tài sản cá nhân của lão.”

“Nhân viên pháp y có nói gì về vết bỏng do thuốc súng không?”

“Vết bỏng do thuốc súng ư? Mấy vết đó là vết dao thôi mà.”

“Tôi nghi ngờ có vết đạn đâu đó trên cái xác máu me ấy.”

“Anh thấy được thứ gì mà tôi không thấy ư?”

“Hình như tôi thấy một lỗ tròn nhỏ ở góc trần phía trên tủ lạnh. Có lính nào của anh bình luận gì chỗ đó không?”

Gowacki dõi theo ánh mắt của Gurney. “Anh muốn nói với tôi điều gì?”

“Tôi muốn nói Kartch có thể bị bắn trước, sau đó mới bị đâm.”

“Và dấu chân thật sự là đi theo hướng ngược lại ư?”

“Đúng vậy.”

“Để tôi nói lại xem có hiểu đúng không nhé. Anh nói tên hung thủ vào nhà bằng cửa sau, bắn vào cổ Richie, lão ngã xuống, sau đó hắn đâm vào cổ lão hàng chục nhát như đang dần một miếng bít tết chó chết ư?”

“Vụ án ở Peony cũng giống như vậy.”

“Nhưng dấu chân..”

“Hung thủ có thể tạo dấu chân bằng cách đính vào ủng một chiếc đế thứ hai – theo chiều ngược – để khiến ai nhìn vào cũng tưởng hắn vào nhà bằng cửa trước và rời nhà bằng cửa sau, trong khi thật sự là hắn đi vào bằng cửa sau và đi ra bằng cửa trước.”

“Đúng là lố bịch. Hắn đang chơi trò khỉ gió gì thế này?”

“Chính là cái từ đó.”

“Từ gì?”

“Chơi trò. Một trò chơi quái quỷ, hắn đã chơi 3 lần rồi, và đang tiếp tục chơi. ‘Bọn bay không những sai mà còn sai bỏ mẹ. Tao cho bọn bay hết manh mối này đến manh mối khác mà bọn bay cũng không tóm được tao. Lũ cảnh sát bọn bay vô dụng như vậy đó’. Đó là thông điệp hắn gửi cho chúng ta ở mỗi hiện trường.”

Gowacki nhìn Gurney một cách chậm rãi, dò xét. “Anh tưởng tượng về gã này cũng sinh động lắm.”

Gurney vừa mỉm cười vừa bước quanh cái xác để đến chỗ một chồng giấy trên mặt bếp. “Anh muốn nói tôi hơi cường điệu ư?”

“Tôi không nói chắc được. Ở Sotherton chẳng có bao nhiêu vụ giết người cả. Mấy vụ như vậy 5 năm mới có một, và thường thuộc trường hợp có thể giảm xuống thành ngộ sát. Mấy vụ này thường liên quan đến gậy bóng chày và thanh nạy bánh xe trong bãi xe của mấy quán rượu là nhiều. Chẳng có dự mưu. Hoàn toàn không có gì là bỡn cợt cả.”

Gurney ậm ừ thông cảm. Đã bao giờ anh cảnh sát này thấy vụ án nào nặng hơn cố ý gây thương tích đâu kia chứ.

“Mấy thứ đó phần lớn là nhảm nhí cả,” Gowacki nói, nghiêng đầu về phía chồng thư rác mà Gurney đang cẩn thận lật xem.

Gurney toan đồng ý thì ở dưới cùng đống giấy lộn xộn toàn tạp chí Pennysavers, tờ rơi, tạp chí về súng, giấy thu nợ, ca ta lô vũ khí quân dụng tồn kho, anh thấy một phong bì nhỏ, trống không bị xé nham nhở ở phần nắp, đề địa chỉ gửi đến Richard Kartch. Chữ viết tỉ mỉ, tinh xảo. Mực màu đỏ.

“Anh tìm thấy thứ gì hả?” Gowacki hỏi.

“Anh nên để thứ này vào bao đựng chứng cứ đi,” Gurney nói, tay cầm góc phong bì mang ra một chỗ trống trên mặt bếp. “Hung thủ của chúng ta rất thích liên lạc với các nạn nhân.”

“Trên lầu còn nhiều nữa này.”

Gurney và Gowacki quay người về phía giọng nói mới cất lên – một cậu thanh niên cao to đang đứng ở chỗ cửa phía bên kia nhà bếp.

“Dưới một đống tạp chí khiêu dâm trên bàn cạnh giường ngủ của nạn nhân có 3 phong thư nữa có chữ viết bằng mực đỏ.”

“Chắc tôi phải lên đó xem sao mới được,” Gowacki nói với vẻ lưỡng lự của một người to béo đến nỗi lên bậc thang cũng phải đắn đo. “Bobby, đây là thanh tra Gurney từ Delaware, New York.”

“Tôi là Bob Muffi,” cậu thanh niên vừa đáp lại vừa chìa tay một cách hồi hộp về phía Gurney, mắt tránh nhìn cái xác trên sàn.

Lầu trên cũng có cái bề ngoài nửa hoàn tất, nửa bị bỏ hoang như những chỗ khác trong nhà. Đầu cầu thang dẫn đến 4 cánh cửa. Muffi dẫn đường đi vào cửa bên phải. Ngay cả theo tiêu chuẩn lỏng lẻo đã được thiết lập thì trước mắt anh vẫn là đống đổ nát. Ở những chỗ thảm không vương vãi quần áo dơ hay lon bia đã cạn, Gurney quan sát thấy một vết ố trông như vết mửa đã khô. Không khí phảng phất mùi chua, mùi mồ hôi. Rèm được kéo kín. Ánh sáng trong phòng đến từ chiếc bóng tròn duy nhất còn hoạt động trong bộ đèn chùm 3 bóng ở giữa trần.

Gowacki đi đến chỗ bàn cạnh chiếc giường lộn xộn. Kế bên đống tạp chí khiêu dâm là 3 chiếc phong bì có chữ viết màu mực đỏ, và cạnh chúng là một tờ séc cá nhân. Gowacki không đụng vào thứ gì trực tiếp mà dùng một cuốn tạp chí tên Hot Buns làm khay xúc bốn món đồ.

“Ta đi xuống lầu xem thử trong đây có gì nào,” anh ta nói.

Ba người trở xuống bếp, ở đây Gowacki để những chiếc phong bì và tờ séc lên bàn điểm tâm. Dùng một cây bút và cái nhíp lôi ra từ túi áo, anh ta nhấc lên phần miệng bị xé của mỗi phong bì và rút ra những thứ bên trong. Ba phong thư chứa mấy bài thơ nhìn hệt như những bài thơ mà Mellery nhận được, giống cả đến cách viết gọn gàng như chữ viết của ni cô.

Ánh mắt Gurney rơi vào những dòng thơ “ông sẽ trả lại thứ đã lấy – khi ông nhận được thứ đã cho… Ông và tôi có hẹn đấy – ông 658 ạ.”

Tuy nhiên, món đồ làm anh chú ý lâu nhất lại là tấm séc. Séc đề tên người nhận là ‘X. Arybdis’ và ký tên ở dưới là ‘R. Kartch’. Đây rõ ràng là tấm séc chưa đổi ra tiền mà Gregory Dermott đã trả lại cho Kartch. Trên séc cũng là số tiền như trên séc của Mellery và Rudden – 289,87 đô. Tên và địa chỉ “R. Kartch, số 349 đường Quarry, Sotherton, Mass. 01055” ghi ở góc trên bên trái của séc

R. Kartch. Có cái gì đó về cái tên này làm Gurney băn khoăn.

Có lẽ đó cũng chỉ là cái cảm giác khác thường mà anh luôn trải nghiệm khi nhìn vào tên một người quá cố in trên giấy. Như thể cái tên ấy đã mất đi hơi thở của cuộc sống, trở nên nhỏ bé hơn, trở nên cách ly với thứ đã cho nó chỗ đứng. Thật lạ, anh ngẫm nghĩ, khi ta tin mình đã thỏa hiệp được với cái chết, thậm chí còn tin rằng sự có mặt của nó không tác động nhiều đến ta, rằng nó chỉ là một phần trong công việc. Rồi nó ập vào ta một cách lạ thường – trong cái vai trò teo tóp, gây bất an, của một cái tên người chết. Dù cho người ta có có tảng lờ nó đi như thế nào, thì cái chết vẫn có cách khiến ta phải chú ý. Nó thấm vào cảm xúc của ta như nước thấm qua tường hầm.

Có lẽ đó là lý do tại sao cái tên R. Kartch lại có vẻ kỳ lạ đối với anh. Hay còn có lý do nào khác chăng?