Chương 51 Giờ Kể Chuyện
Phản ứng tức thời của Gurney là họ đã vào nhầm cửa. Nhưng như vậy cũng vô lý. Ngoại trừ cánh cửa đầu cầu thang ra, đây là cánh cửa duy nhất dưới tầng hầm. Nhưng đây lại không đơn giản là nơi lưu trữ.
Họ đang đứng trong góc một phòng ngủ lớn, có ánh sáng dịu và thảm lót sang trọng, đồ đạc được bài trí theo cách truyền thống. Trước mặt họ là một chiếc giường Queen size có khăn trải hoa văn và diềm xếp nếp kéo dài quanh mép. Nhiều chiếc gối phồng quá cỡ khác nhau có diềm xếp nếp giống nhau được dựng lên sát đầu giường. Cuối chân giường là một rương đựng của hồi môn. Trên rương là một con chim nhồi bông lớn làm bằng vải may chắp vá. Một đặc điểm lạ trên tường về phía tay trái Gurney thu hút sự chú ý của anh – một cửa sổ thoạt trông có vẻ nhìn ra quang cảnh một cánh đồng bát ngát, nhưng quang cảnh đó, anh nhanh chóng nhận ra, thật ra là tấm phim dương bản có kích thước bằng áp phích được chiếu sáng từ đằng sau, có lẽ được thiết kế để làm dịu đi bầu không khí tù túng trong phòng. Anh cũng đồng thời nhận ra có tiếng kêu khẽ của một loại hệ thống thông gió nào đó.
“Tôi chẳng hiểu gì cả,” Nardo nói.
Gurney toan đồng ý thì chợt nhận thấy cách chỗ cánh cửa sổ giả một chút, dọc theo cùng một bức tường, là một chiếc bàn nhỏ. Trên bàn là một chiếc đèn ngủ công suất thấp tỏa ánh sáng nâu vàng, quanh vầng sáng là ba cái khung đen đơn giản thuộc loại dùng để lồng bằng cấp. Anh đến gần để quan sát được rõ hơn. Trong mỗi khung là bản sao một tờ séc cá nhân. Toàn bộ số séc đều gửi đến X. Arybdis. Đều ghi số tiền 289,87 đô. Từ trái qua, người gửi lần lượt là Mark Mellery, Albert Rudden và R. Kartch. Đây là những tấm séc mà Gregory Dermott báo cáo đã nhận được, còn séc gốc y không đổi ra tiền mà gửi trả lại người gửi. Nhưng tại sao y lại phô tô séc ra trước khi trả lại? Và, đáng lo ngại hơn, vì lý do khi gió gì mà y lại lồng séc vào khung? Gurney cầm từng tấm khung lên, như thể nếu nhìn gần hơn sẽ có câu trả lời.
Rồi, đột nhiên, trong khi đang săm soi chữ ký trên tấm séc thứ ba – R. Kartch – cảm giác bứt rứt mà anh vẫn luôn có mỗi khi thấy cái tên đó lại ngoi dậy. Có điều lần này không chỉ có cảm giác đó đến với anh, mà cái lý do đằng sau nó cũng đến.
“Khốn kiếp!” anh làu bàu tự trách trước đây đã không thấy sự sai lệch giờ đây đã hiển lộ rõ.
Cùng lúc đó, một tiếng động nhỏ đột nhiên vang lên từ phía Nardo. Gurney nhìn anh ta, rồi theo cái nhìn trân trân hốt hoảng của anh ta hướng về góc đối diện của căn phòng rộng hun hút. Ngay đó – mập mờ trong bóng đêm, ngoài tầm với của vầng sáng yếu ớt từ chiếc đèn bàn rọi lên những tờ séc được lồng khung, khuất một phần sau hai cánh tay một chiếc ghế bành theo phong cách thời Nữ hoàng Anne và ngụy trang trong chiếc đầm ngủ có sắc hồng nâu mờ như màu nệm bọc ghế, một người đàn bà tiều tụy đang ngồi, đầu cúi gằm xuống trước ngực.
Nardo gỡ đèn pin trên thắt lưng ra rồi chiếu tia sáng vào mặt bà ta.
Gurney đoán tuổi bà ta đâu đó trong khoảng từ 50 tới 70. Nước da tái nhạt như xác chết. Mái tóc vàng, cột lên thành nhiều lọn xoăn tít, nhất định là tóc giả. Chớp mắt, bà ta ngẩng đầu lên chậm chạp đến nỗi hầu như không thấy chuyển động của đầu, xoay đầu về phía ánh sáng với một dáng vẻ uyển chuyển lạ lẫm như hoa hướng dương hướng về phía mặt trời.
Nardo nhìn Gurney, rồi lại nhìn người đàn bà trên ghế.
“Ta phải đi dải,” bà ta nói. Giọng bà ta cao, khàn, độc đoán. Cái nghiêng cằm ngạo mạn hướng lên trên để lộ một vết sẹo xấu xí trên cổ.
“Cái bà quái nào đây?” Nardo thì thầm, như thể Gurney phải biết câu trả lời.
Thật ra thì Gurney chắc chắn mình biết chính xác đó là ai.
Anh cũng biết việc mang chìa khóa xuống tầng hầm cho Nardo là một sai lầm khủng khiếp.
Anh quay nhanh người về phía chỗ cửa đang mở. Nhưng Gregory Dermott đã đứng đó tự bao giờ, một tay cầm một chai uýt ki Bốn Hoa Hồng loại gần 1 lít, còn tay kia cầm một khẩu súng lục 0.38 đặc biệt. Không hề có biểu hiện gì của một người đàn ông nóng giận thất thường bị đau nửa đầu cả. Cặp mắt của gã không còn nheo lại giả vờ đau đớn và trách móc như trước mà nay đã trở lại trạng thái mà Gurney cho là bình thường – mắt phải sắc bén và quả quyết, mắt trái u tối và lạnh như tiền.
Nardo cũng xoay người. “Cái…?” anh ta lên tiếng, rồi để câu hỏi chết trong cổ họng. Anh ta đứng sững, nhìn qua nhìn lại giữa bộ mặt của Dermott và khẩu súng.
Dermott bước hẳn vào phòng, khéo léo dùng chân đưa ra phía sau, rồi móc ngón chân quanh mép cửa, đóng sập cửa lại đằng sau lưng. Có một tiếng cách kim loại chát chúa khi chốt khóa khớp vào đúng chỗ. Một nụ cười nhẹ, đáng sợ làm dài hơn lằn ranh mỏng giữa hai môi y.
“Cuối cùng cũng được yên thân,” y nói, nhái giọng một người đàn ông đang trông đợi một cuộc tán gẫu thú vị. “Quá nhiều việc phải làm,” y nói thêm. “Quá ít thời gian.” Y hình như thấy chuyện này rất vui nhộn. Nụ cười lạnh lùng nở rộng ra trong chốc lát như con sâu duỗi rồi lại co. “Tao muốn bọn mày biết trước là tao rất cảm kích bọn mày đã tham gia vào dự án nho nhỏ của tao. Có bọn mày hợp tác, mọi chuyện sẽ tốt hơn rất nhiều. Trước tiên, một chi tiết vụn vặt thôi. Trung úy, cho phép tao yêu cầu mày nằm úp mặt xuống nền nhà được không?” Đây không hẳn là câu hỏi.
Gurney đọc được trong mắt Nardo một khả năng tính toán rất nhanh, nhưng anh không biết anh ta đang xem xét những phương án nào. Thậm chí cũng không chắc là anh ta có biết chuyện gì đang thực sự xảy ra không nữa.
Còn thứ mà anh đọc được trong mắt Dermott lại trông như sự kiên nhẫn của một con mèo đang quan sát một con chuột không còn đường chạy.
“Nè anh,” Nardo nói, giả vờ như rất lo ngại, “bỏ súng xuống là một ý hay đó.”
Dermott lắc đầu. “Không hay như mày tưởng đâu.”
Nardo trông lúng túng. “Bỏ súng xuống nào anh bạn.”
“Đó cũng là một phương án đấy chứ. Nhưng phương án này có chút rắc rối. Sự đời đâu có đơn giản phải không?”
“Rắc rối ư?” Nardo nói với Dermott như thể y là một công dân vô hại chỉ tạm thời quên dùng thuốc men.
“Tao định bắn mày xong sẽ bỏ súng xuống. Nếu mày muốn tao bỏ súng xuống ngay thì tao buộc phải bắn mày ngay. Tao không muốn làm vậy đâu, mà tao chắc mày cũng không muốn vậy. Mày thấy vấn đề chưa?”
Dermott vừa nói vừa giơ khẩu súng nhắm vào họng Nardo. Sự vững vàng của bàn tay Dermott cũng được, hay sự mỉa mai điềm nhiên trong giọng gã cũng được, cái gì đó trong tác phong của gã thuyết phục Nardo rằng mình cần phải sử dụng chiến thuật khác.
“Anh bắn khẩu súng đó rồi,” anh ta nói, “anh nghĩ tiếp theo sẽ xảy ra chuyện gì hả?”
Dermott nhún vai, lằn ranh giữa hai môi lại kéo rộng ra. “Mày chết.”
Nardo gật đầu đồng tình một cách dè dặt, như thể một sinh viên vừa cho anh ta một câu trả lời hiển nhiên nhưng còn dang dở. “Rồi sao nữa? Tiếp theo đó?”
“Có khác gì đâu chứ?” Dermott nhún vai lần nữa, nhắm nòng súng xuống dưới cổ Nardo.
Viên trung úy dường như đang cố gắng rất nhiều để duy trì quyền làm chủ, đối với cơn giận hoặc là nỗi sợ của mình.
“Không khác gì nhiều đối với tôi, nhưng với anh thì khác rất nhiều. Anh mà bóp cò thì chưa đầy một phút sau vài chục cảnh sát sẽ kề ngay đít anh, và xé cái thằng chó chết như anh ra thành từng mảnh.”
Dermott ra vẻ thích thú. “Mày biết được bao nhiêu về quạ hả trung úy?”
Nardo nheo mắt không hiểu câu hỏi chẳng ăn nhập gì vẻ mặt logic của y.
“Quạ ngu đến mức khó tin,” Dermott nói. “Mày bắn xong một con thì con khác bay đến. Mày bắn con đó xong thì con khác lại đến, rồi con khác nữa, con khác nữa. Mày cứ bắn cứ bắn, còn bọn chúng cứ kéo đến kéo đến.”
Đây là chuyện trước đây Gurney đã nghe – quạ không để một con trong đàn chết một mình. Nếu một con đang hấp hối, những con khác sẽ đến đứng cạnh nó để nó không lẻ loi. Lần đầu tiên nghe bà anh kể câu chuyện đó lúc anh mới mười hay 11 tuổi, anh phải rời phòng vì biết mình sẽ khóc. Anh đã đi vào nhà tắm, và tim anh đau nhói.
“Có lần tao thấy một bức tranh về cảnh bắn quạ ở một nông trại bang Nebraska,” Dermott nói bằng một thái độ vừa sửng sốt lẫn khinh bỉ. “Một ông nông dân cầm súng săn đứng cạnh một đống quạ chết cao đến tận vai.” Gã ngừng nói, như cho Nardo thời gian để thấy được thói tự sát buồn cười của quạ và sự liên quan giữa số phận của chúng với tình huống hiện tại.
Nardo lắc đầu. “Anh thực sự nghĩ có thể ngồi trong này bắn hết cảnh sát này đến cảnh sát khác từ cửa xông vào mà không bị bắn nát óc à? Không có chuyện đó đâu.”
“Tất nhiên là không rồi. Có ai nói cho mày biết cái đầu chỉ hiểu được nghĩa đen là cái đầu nhỏ không? Tao thích cái câu chuyện quạ đó lắm trung úy ạ, nhưng còn có cách hiệu quả để diệt sâu mọt hơn là bắn mỗi lần từng con một. Như thả hơi độc chẳng hạn. Thả hơi độc rất hiệu quả, nếu mày có được đúng loại hệ thống thả hơi độc. Chắc mày có để ý là phòng nào trong nhà này cũng có hệ thống chữa cháy tự động cả. Phòng nào cũng có trừ phòng này.” Gã lại ngừng nói, mắt gã sống động hơn, ánh lên vẻ tự đắc. “Thành ra nếu tao bắn mày, rồi toàn bộ lủ quạ bay vào đây thì tao chỉ cần mở hai cái van nho nhỏ trên hai cái ống dẫn nho nhỏ là xong, rồi hai mươi giây sau…” Nụ cười của gã trở nên hiền hậu. “Mày có biết khí clo đậm đặc sẽ làm gì với phổi người không? Và làm nhanh như thế nào mày biết không?”
Gurney quan sát thấy Nardo đang gắng sức đánh giá gã đàn ông điềm nhiên đến đáng sợ này và lời đe dọa thả hơi độc của y. Trong một nỗi sợ thoáng qua, anh nghĩ niềm kiêu hãnh và cơn thịnh nộ của tay cảnh sát này sắp sửa đẩy anh ta vào một bước nhảy chết người về phía trước, nhưng đằng này Nardo lại hít vào vài hơi lặng lẽ, có vẻ để giảm bớt lực nén trong lò xo, rồi nói bằng một giọng nghe tha thiết và âu lo.
‘“Hợp chất clo đôi khi chẳng ngon ăn đâu. Tôi từng tiếp xúc với hợp chất này trong đội chống khủng bố. Có anh kia trong lúc thí nghiệm vô tình tạo ra sản phẩm phụ là NC13 mà không biết. Kết quả là anh ấy mất đi ngón cái. Đưa hóa chất qua hệ thống chữa cháy tự động không có ngon ăn như anh nghĩ đâu. Tôi không chắc anh có làm vậy được không nữa.”
“Đừng phí thời gian tìm cách giở trò với tao nữa, trung úy. Mày nói giống như là đang giở một chiến thuật ghi trong sổ tay cảnh sát vậy. Trong đó ghi gì nhỉ? – ‘Biểu lộ sự hoài nghi liên quan đến kế hoạch của tên tội phạm, nghi vấn những gì hắn nói, khiến hắn cung cấp thêm chi tiết’ đúng chưa? Nếu mày muốn biết thêm thì cần gì phải giở trò chứ, hỏi tao là được rồi. Tao chẳng có bí mật gì để giấu giếm hết. Cho mày biết nhé, thứ mà tao có là hai bình 190 lít áp suất cao, chứa đầy clo và amoniac, điều khiển bằng một máy nén công nghiệp, nối trực tiếp với ống dẫn chính đưa toàn bộ hệ thống chữa cháy đi khắp căn nhà này. Trong phòng này có giấu hai van có nhiệm vụ nối 380 lít lại với nhau, thải ra một lượng khí khổng lồ dưới dạng cực kỳ đậm đặc. Còn vụ vô ý tạo ra NC13 rồi gây ra cháy nổ cũng khó xảy ra lắm. Nếu có thì tao cũng hoan nghênh xem như là một phần thưởng đáng mừng thôi. Thấy Sở Cảnh sát Wycherly bị chết ngạt là tao hả hê rồi. Nếu tụi bay có bị tan xác thành nhiều mảnh nữa thì càng vui, nhưng không nên tham lam quá. Cầu toàn quá đôi khi lại hỏng việc.”
“Anh Dermott, toàn bộ chuyện khỉ gió này là sao hả?”
Dermott nhăn mày như muốn nhại một người ra chiều đang xem xét câu hỏi đó một cách nghiêm túc.
“Sáng nay tao nhận được bức thư này. ‘Coi chừng nắng dữ tuyết dày, đêm ngày cũng thế, coi mày chạy đâu’. Gã dẫn lại dòng thơ của Gurney bằng sự hùng hồn mỉa mai như trên sân khấu, vừa đọc vừa bắn cho anh một ánh mắt tò mồ. “Hù dọa sáo rỗng cả thôi, nhưng tao phải cảm ơn người đã gửi bức thư này. Nó làm tao nhớ rằng đời rất ngắn ngủi nên làm gì được hôm nay thì làm, không nên hoãn đến ngày mai.”
“Tôi không hiểu ý anh lắm,” Nardo nói, vẫn còn trong trạng thái nghiêm túc.
“Tao nói gì thì cứ làm theo là được, rồi cuối cùng mày sẽ hiểu hết.”
“Được thôi, không thành vấn đề. Tôi chỉ không muốn có người bị thương không cần thiết.”
“Ừ, tất nhiên rồi.” Nụ cười rộng mở ấy đến rồi đi, như con sâu co rồi duỗi. “Chẳng ai muốn vậy cả. Thật ra, để tránh thương vong không cần thiết, tao thật sự rất cần mày nằm xuống sàn ngay bây giờ.”
Rốt cuộc họ cũng trở về điểm xuất phát. Câu hỏi đặt ra là, phải làm gì nữa? Gurney đang quan sát gương mặt của Nardo để đọc tìm dấu hiệu. Tay cảnh sát này hiểu chuyện được bao nhiêu? Anh ta có nhận ra người đàn bà trong ghế có thể là ai chưa? Hay cái tên bệnh hoạn miệng cười, tay cầm súng và chai uýt ki kia là ai?
Chí ít có lẽ anh ta cũng đã nhận ra Dermott chính là kẻ sát hại sĩ quan Sissek. Chỉ như vậy mới lý giải được sự căm thù trong đôi mắt mà anh ta không hoàn toàn che đậy được. Đột nhiên lực nén trở lại với cái lò xo trong người Nardo. Trông anh ta đang cuồn cuộn adrenaline, với bản năng mặc kệ hậu quả, mạnh mẽ hơn nhiều so với lý trí. Dermott cũng thấy được điều đó, nhưng thay vì e sợ, y dường như phấn khích hơn, dồi dào sinh lực hơn. Tay y nắm chặt báng súng hơn một chút, và lần đầu tiên nụ cười trơn tru của y để lộ ra hàm răng sáng bóng sinh động.
Sớm hơn một giây trước khi một viên kẹo đồng 0.38 chắc chắn sẽ kết liễu mạng Nardo, và sớm hơn hai giây trước khi viên kẹo thứ hai kết liễu mạng của chính mình, Gurney ngắt mạch điện bằng một tiếng thét mãnh liệt từ cổ họng.
“Làm theo lời hắn đi! Nằm mẹ nó xuống sàn đi! Nằm mẹ nó xuống sàn NGAY đi!”
Nó có hiệu quả gây sốc tức thì. Hai đối thủ đứng như trời trồng, cái xung lực đối đầu âm ỉ bấy lâu đã bị cơn bột phát mạnh mẽ của Gurney đập tan.
Thực tế là chưa ai chết, và điều đó đã thuyết phục anh tin rằng mình đang đi đúng hướng, nhưng anh không chắc hướng đi cụ thể đó là gì. Theo những gì anh đọc được từ vẻ mặt Nardo, anh chàng này đang cảm thấy bị phản bội. Bên dưới cái vẻ ngoài mơ hồ hơn của Dermott, y có vẻ lúng túng, nhưng Gurney nghi ngờ y đang ra sức không để cho sự gián đoạn này làm lung lay quyền kiểm soát của mình.
“Bạn mày khuyên rất khôn ngoan đấy,” Dermott nói với Nardo. “Tao mà là mày thì làm theo ngay. Thanh tra Gurney có đầu óc rất nhạy bén. Một con người rất thú vị. Một người rất nổi tiếng. Chỉ cần tìm trên Internet là mày có thể biết rất nhiều thông tin về người khác. Mày sẽ sửng sốt khi thấy chỉ cần một ít cái tên, một mã bưu điện thôi là có cả khối thông tin nhảy ra.
Thời buổi này ít còn cái gì là riêng tư lắm.” Giọng điệu ranh mãnh của Dermott phát ra luồng sóng nôn nao đi xuyên ngực Gurney. Anh cố nhắc nhở mình rằng chuyên môn của Dermott là thuyết phục người khác tin rằng y biết về họ nhiều hơn thực tế. Nhưng luôn xâm nhập vào tâm trí anh là cái suy nghĩ về dấu bưu điện mà anh đã không liệu trước có thể đặt Madeleine vào tình trạng nguy hiểm. Suy nghĩ đó làm anh day dứt gần như không chịu được.
Nardo miễn cưỡng hạ thấp người xuống sàn, cuối cùng nằm sấp trong tư thế một người sắp hít đất. Dermott chỉ đạo cho anh ta khóa chặt hai tay rồi để sau đầu, “nếu làm vậy không quá đáng lắm.” Trong một phút hoảng sợ, Gurney chợt nghĩ đây có thể là tư thế cho một cuộc hành quyết tại chỗ. Nhưng trái lại, sau khi thỏa thuê nhìn xuống viên trung úy đang nằm úp, Dermott cẩn thận đặt chai uýt ki đang cầm lên rương đựng của hồi môn nằm cạnh con chim nhồi bông lớn – hoặc là, Gurney giờ đã nhận ra, con ngỗng nhồi bông lớn. Rùng mình ghê tởm, anh chợt nhớ lại một chi tiết từ bản báo cáo giám định. Lông ngỗng. Rồi Dermott ngồi xuống ngang tầm mắt cá chân phải của Nardo, rút một khẩu súng lục nhỏ tự động ra khỏi bao súng đeo ở đó, rồi nhét nó vào trong túi mình. Một lần nữa, cái cười khẩy không chút hài hước của y hết tròn lại khuyết.
“Biết nơi cất giấu súng ống,” y giải thích bằng một sự hào hứng làm người ta phải sởn gáy, “là mấu chốt để tránh bi kịch. Nhiều súng quá đấy. Nhiều súng trao nhầm tay quá đấy. Dĩ nhiên, người ta thường tranh luận là súng không giết người mà chỉ có người giết người. Bọn mày phải thừa nhận là câu ấy ít nhiều cũng đúng đấy. Quả thật chỉ có người giết người thôi. Có ai biết điều đó rõ hơn mấy người trong ngành bọn mày chứ?”
Trong cái danh sách ngắn chứa những thứ mình biết là đúng, Gurney thêm vào một mục: những bài diễn văn này được truyền tải một cách tinh quái đến khán giả bị giam cầm của Dermott – điệu bộ nhã nhặn, thái độ mềm mỏng đầy tính đe dọa, chính những yếu tố đặc thù có trong những bức thư y đã gửi cho nạn nhân – để phục vụ một mục đích tối thượng: tiếp thêm năng lượng cho ảo tưởng toàn năng của y.
Như chứng minh Gurney đã đúng, Dermott quay sang anh và thì thầm như một nhân viên nịnh nọt hướng dẫn ghế ngồi, “Cảm phiền mày ngồi sát vách tường đằng kia được không?” Y chỉ một chiếc ghế lưng thang phía bên trái giường cạnh chiếc đèn bàn có 3 tấm séc lồng khung treo ở trên. Gurney đi tói chỗ ghế đó rồi ngồi xuống không chút do dự.
Dermott quay xuống nhìn lại Nardo, cái nhìn lạnh như băng của y trông ngược ngạo so với cái giọng khích lệ. “Mày sẽ được chạy nhảy nhanh thôi. Chúng ta cần bố trí thêm một người tham gia nữa là xong. Rất cảm ơn sự kiên nhẫn của hai người.”
Trên phần mặt của Nardo mà Gurney thấy được, cơ hàm của anh ta đang cứng lại và màu đỏ ửng chuyển từ cô lên má.
Dermott đi nhanh dọc căn phòng đến góc xa rồi cúi xuống cạnh chiếc ghế lưng cao, thầm thì điều gì đó vào tai người đàn bà đang ngồi.
“Ta phải đi đái,” bà ta vừa nói vừa ngẩng đầu lên.
“Bọn bay biết đó, bà ấy thật ra đâu có muốn đi đái,” Dermott vừa nói vừa quay lại nhìn Gurney và Nardo. “Chẳng qua là một bất tiện do ống thông tiểu tạo ra thôi. Bà ấy có ống thông tiểu đã nhiều năm nay rồi. Một mặt thì không thoải mái gì, nhưng mặt khác cũng tiện lọi vô cùng. Đức Chúa ban cho, rồi Đức Chúa lấy đi. Mặt sấp và mặt ngửa. Không thể có cái này mà thiếu cái kia. Chẳng phải có bài hát như vậy sao?” Y ngừng nói như đang có gắng nhớ ra cái gì đó, ngân nga một điệu nhạc quen thuộc bằng giọng du dương hớn hở, rồi, tay phải vẫn cầm súng, đỏ bà già đứng dậy khỏi ghế bằng tay trái. “Nào, mẹ yêu, giờ ngủ đến rồi.”
Vừa dẫn bà ta đi từng bước ngắn, đứt quãng, dọc căn phòng đến chỗ giường và đỡ bà ta ngồi dựa vào chồng gối thẳng đứng, y luôn miệng lặp đi lặp lại bằng giọng của một cậu bé, “Giờ ngủ đến rồi, giờ ngủ đến rồi, giờ ngủ đến rồi, giờ ngủ đến rồi.”
Chĩa súng vào một điểm xấp xỉ giữa Nardo trên sàn và Gurney trong ghế, y chậm rãi nhìn quanh phòng, nhưng không nhìn vào thứ gì riêng biệt. Rất khố biết y đang nhìn những gì thật sự tồn tại hay đang phủ lên cảnh tượng trước mắt mình một cảnh vật khác từ một thời gian và không gian khác. Rồi y nhìn người đàn bà trên giường cũng bằng cách đó và nói bằng sự quả quyết của Peter Pan thần tiên, “Mọi chuyện sẽ hoàn mỹ cả. Mọi chuyện sẽ theo cái cách vốn dĩ của nó.” Y bắt đầu ngân nga thảm trong miệng một vài nốt nhạc rời rạc. Y tiếp tục ngân nga thì Gurney nhận ra đó là điệu nhạc bài đồng dao, ‘Here We Go Round the Mulberry Bush’. Có lẽ do phản ứng khó chịu vốn có của anh trước sự phản logic của những bài đồng dao; có lẽ do hình tượng trong bài đồng dao này làm người ta chóng mặt; có lẽ do nhạc điệu ấy hoàn toàn không phù hợp với thời khắc hiện tại; lý do là gì cũng được, nghe cái giai điệu đó trong căn phòng, anh muốn nôn mửa.
Rồi Dermott thêm lời vào, nhưng không phải lồi đúng. Y hát như trẻ con, “Chúng ta lên giường lại nào, lên giường lại nào, lên giường lại nào. Chúng ta lên giường lại nào, trời còn sớm mà.”
“Ta phải đi đái,” người đàn bà nói.
Dermott tiếp tục hát ca khúc kỳ quái của y như thể nó là bài hát ru. Gurney tự hỏi tên này thực sự bị phân tâm đến mức nào – có đủ để anh nhảy qua giường khống chế y không? Anh nghĩ là không đủ. Một thời khắc hớ hênh hơn sẽ đến chăng? Nếu câu chuyện khí clo của Dermott là một kế hoạch hành động chứ không chỉ là chuyện viễn vông gây hoang mang, thì họ cồn lại bao nhiêu thời gian nữa? Anh đoán không còn nhiều.
Nhà trên im ắng vô cùng. Không một biểu hiện nào cho thấy có viên cảnh sát Wycherly nào phát hiện ra trung úy của họ đã mất tích hay nếu có phát hiện ra thì cũng chưa chắc nhận thấy được tầm quan trọng của sự mất tích này. Không có giọng nói nào cất lên, không có bàn chân nào sột soạt, không có chút dấu vết nào cho thấy có hoạt động bên ngoài – điều đó có nghĩa việc cứu được mạng của Nardo và của anh hay không có lẽ tùy thuộc việc anh nghĩ ra được gì trong năm mười phút tói để ngăn chặn tên bệnh hoạn lúc này đang làm phồng gối trên giường.
Dermott ngừng hát. Rồi y bước sang một bên, đi dọc mép giường đến một vị trí cho phép y nhắm súng vào Nardo hay Gurney đều dễ dàng như nhau. Y bắt đầu đưa súng qua lại như đang chĩa cây dùi cui, một cách nhịp nhàng, nhắm hết người này sang người kia và ngược lại. Có lẽ từ chuyển động môi của tên này mà Gurney biết y đang vơ vẫy khẩu súng theo nhịp câu hát eeny meeny miney mo, tóm lấy ngón chân chú hổ. Cái khả năng sự ê a thì thầm này kéo dài được vài giây thì một viên đạn xen ngang và ghim vào đầu một trong hai người dường như có thật đến rọn ngọp – đủ thật để khiến Gurney chộp ngay thời cơ này mà tung ra một đòn tấn công cầu may bằng lời nói.
Bằng giọng nhẹ nhàng nhất, thân mật nhất của mình, anh hỏi, “Bà ấy có bao giờ mang dép hồng ngọc không thế?”
Môi Dermott ngừng chuyển động, và mặt của y trở lại vẻ trống rỗng sâu thẳm, hiểm độc. Khẩu súng của y đã mất nhịp. Nòng súng hướng chầm chậm vào Gurney như vòng quay rulét ngừng vào một con số thua.
Đây không phải lần đầu anh đứng trước họng súng, nhưng chưa bao giờ trong suốt 47 năm cuộc đời của mình anh lại cảm thấy gần kề với cái chết đến thế. Cơ thể anh có một cảm giác kiệt quệ, như thể máu đang rút vào một nơi nào đó an toàn hơn.
Rồi, quái lạ thay, anh định tâm trở lại. Tình huống này làm anh nghĩ đến những câu chuyện mình đã đọc nói về những người rớt xuống đại dương lạnh giá, nói về ảo giác an bình mà họ cảm nhận được trước khi bất tỉnh. Anh phóng tầm mắt qua chiếc giường nhìn Dermott, nhìn vào cặp mắt không cân xứng nhau về mặt cảm xúc của y – một mắt như xác chết từ một chiến trận cách đây đã lâu, mắt kia sinh động đầy hận thù. Trong con mắt thứ hai, có mục đích hơn ấy, anh cảm nhận được một phép tính nhanh đang được thực hiện. Có lẽ việc Gurney đề cập đến đôi dép bị lấy cắp từ khu trọ The Laurels đã phục vụ đúng mục đích – đặt ra những câu hỏi đòi hỏi phải được phân giải. Có lẽ Dermott đang tự hỏi anh biết được bao nhiêu và điều đó sẽ ảnh hưởng đến cách y kết thúc thế tàn cuộc như thế nào.
Nếu vậy, Dermott sẽ phân giải những vấn đề này theo ý mình bằng một tiến độ khiến người ta phải từ bỏ hy vọng. Y cười toe toét, lần thứ hai thoáng để lộ hàm răng nhỏ màu ngọc.
“Mày có hiểu được thông điệp của tao không?” y hỏi một cách tinh nghịch.
Cái không khí yên bình vây quanh Gurney đang tan biến. Anh biết rằng trả lời câu hỏi không khéo sẽ tạo ra vấn đề lớn. Không trả lời cũng sẽ như vậy. Anh hy vọng Dermott chỉ đang đề cập đến hai thứ gọi là ‘thông điệp’ tìm thấy ở khu trọ The Laurels.
“Anh muốn nói đến cái chữ nho nhỏ của anh trích từ phim The Shining ư?”
“Đó là một,” Dermott nói.
“Tất nhiên là việc đăng ký phòng bằng tên ‘ông bà Scylla’ rồi.” Gurney nghe có vẻ chán chường.
“Đó là hai. Còn thông điệp thứ ba mới là hay nhất, mày có thấy vậy không?”
“Tôi nghĩ thông điệp thứ ba rất ngu ngốc,” Gurney vừa nói vừa tránh né một cách vô vọng, tìm nhanh trong ký ức hình ảnh căn nhà trọ lập dị và người chủ đồng sở hữu của nó, Bruce Wellstone.
Lời nhận xét của anh làm phát sinh một tia lửa giận dữ trong Dermott, theo sau là một thái độ sành sỏi. “Tao tự hỏi có thực là mày biết tao đang nói chuyện gì hay không, thanh tra?”
Gurney kìm nén cái thôi thúc muốn phản đối trong người. Anh đã khám phá ra rằng thường thì im lặng là cách hù dọa tốt nhất. Và khi không nói chuyện, ta sẽ dễ suy nghĩ hơn.
Chuyện kỳ lạ duy nhất mà anh nhớ Wellstone nói hình như có liên quan đến chim chóc hay ngắm chim gì đó, đại loại mấy thứ đó vào thời điểm này trong năm là không hợp lý. Lũ chim đó là loại chim khỉ gió gì nhỉ? Và cái gì liên quan đến con số ấy? Cái gì đó liên quan đến số chim…
Dermott càng lúc càng bứt rứt không yên. Đã đến lúc cầu may một lần nữa.
“Lũ chim chứ gì,” Gurney nói một cách ranh ma. Ít ra anh hy vọng mình nói có vẻ ranh ma chứ không vô nghĩa. Cái gì đó trong mắt Dermott mách bảo anh rằng cú cầu may đó có lẽ có liên quan. Nhưng liên quan như thế nào? Rồi sao nữa? Lũ chim thì có gì quan trọng? Thông điệp đó là gì? Không phải thời điểm trong năm để làm gì? Chim mỏ to ức hồng! Chính là chúng! Nhưng vậy thì sao? Chim mỏ to ức hồng thì liên quan đến thứ gì?
Anh quyết định thúc đẩy lời hù dọa và xem thử nó dẫn đến đâu. “Chim mỏ to ức hồng,” anh nói kèm một cái nháy mắt bí hiểm.
Dermott ra sức che đậy ánh mắt ngạc nhiên bên dưới một nụ cười kẻ cả. Gurney ước với Chúa cho anh hiểu ra chuyện này, cho anh biết được những gì mình đang giả vờ biết. Cái con số chết tiệt mà Wellstone đề cập đến là gì nhỉ? Anh không biết phải nói gì tiếp theo, không biết phải lảng tránh một câu hỏi trực tiếp như thế nào nếu nó đến. Nhưng không có câu hỏi.
“Tao không nhìn lầm mày,” Dermott nói một cách tự mãn. “Từ cuộc nói chuyện đầu tiên giữa tao và mày thì tao đã biết mày thông minh hơn hầu hết các thành viên khác trong bộ lạc khỉ đầu chó của mày rồi.”
Y ngừng một chập, gật gù với chính mình một cách hưng phấn thấy rõ.
“Tốt lắm,” y nói. “Một con dã nhân thông minh. Vậy mày biết thưởng thức những gì mày sắp sửa thấy rồi. Thật ra thì, tao nghĩ tao sẽ làm theo lời khuyên của mày. Dù gì thì đêm nay cũng là một đêm rất đặc biệt mà – một đêm hoàn hảo cho đôi dép thần.” Vừa nói, y vừa lùi lại về phía một chiếc tủ đựng quần áo nằm sát vách tường bên kia phòng. Mắt vẫn không rời Gurney, y mở ngăn tủ trên cùng và lôi ra, thận trọng thấy rõ, một đôi giày. Kiểu giày này làm Gurney nhớ lại đôi giày lễ phục không dây, kích cỡ gót trung bình mà mẹ anh từng mang đi lễ nhà thờ – có khác chăng là đôi này được làm bằng thủy tinh màu hồng ngọc, loại thủy tinh lấp lánh như màu máu trong mờ dưới ánh sáng dịu.
Dermott hích khuỷu tay đóng ngăn tủ lại rồi trở lại giường cùng đôi giày trong một tay, khẩu súng trong tay kia vẫn chĩa vào Gurney.
“Cảm ơn mày đã góp ý nhé, thanh tra. Mày mà không đề cập đến đôi dép thì tao đã quên béng mất rồi. Phần lớn những người trong tình cảnh như mày đâu có được việc đến thế.” Thái độ giễu cợt ra mặt trong câu nói đó, theo Gurney, là muốn truyền tải cái thông điệp rằng Dermott đang hoàn toàn làm chủ tình thế nên ai nói gì hay làm gì y cũng có thể dễ dàng khai thác theo hướng có lợi cho mình. Y cúi người xuống giường tháo đôi dép phòng ngủ bằng nhung kẻ đã sờn mà bà già đang mang ra, rồi xỏ vào đôi dép đỏ lấp lánh. Chân bà ta nhỏ và đôi giày đi vào dễ dàng.
“Vịt Dickie sắp đi ngủ chưa?” bà già hỏi, như một cô bé đang lặp lại đoạn cô tích yêu thích nhất.
“Nó sẽ giết con rắn và cắt đầu con rắn ra. Rồi vịt Dickie sẽ đi ngủ,” y đáp lại bằng một giọng ê a.
“Dickie bé bỏng của ta ở đâu nãy giờ thế?”
“Giết con gà trống để cứu con gà mái.”
“Tại sao Dickie lại làm vậy chứ?”
“Vì màu máu đỏ không phai / như ai tô điểm một bông hoa hồng. / Để ai cũng phải nằm lòng / gieo gì gặt nấy, đừng hòng cậy ai.”
Dermott nhìn bà già một cách trông đợi, như thể cuộc trao đổi mang tính nghi thức này vẫn chưa xong. Y cúi người về phía bà ta, nhắc vở cho bà ta bằng một giọng thì thầm rõ to, “Tối nay Dickie sẽ làm gì?.”
“Tối nay Dickie sẽ làm gì?” bà ta hỏi cũng bằng cái giọng thầm thì ấy.
“Nó sẽ gọi lũ quạ tới cho đến khi bọn chúng chết sạch. / Rồi vịt Dickie sẽ đi ngủ.”
Bà ta mơ màng đưa đầu ngón tay lên bộ tóc giả kiểu Goldilocks[25], như thể đang tưởng tượng mình đang sắp xếp tóc theo một phong cách thanh thoát nào đó. Nụ cười trên mặt bà ta làm Gurney nhớ tới con nghiện đang lên cơn.
Dermott cũng đang quan sát bà ta. Ánh mắt ghê tởm của y không giống ánh mắt một người con, đầu lưỡi đưa ra thụt vào giữa hai môi như một con ký sinh trùng lươn lẹo. Rồi y chớp mắt nhìn quanh phòng.
“Tao nghĩ mình bắt đầu được rồi,” y nói rạng rỡ. Y leo lên giường và bò ngang qua chân bà già đến bên kia giường, tiện tay lấy con ngỗng từ cái rương đựng của hồi môn. Y yên vị sát đống gối bên cạnh bà ta rồi đặt con ngỗng lên đùi. “Sắp xong rồi.” Niềm hân hoan trong lời cam đoan này rất hợp với một người đang đặt một ngọn nến lên ổ bánh sinh nhật. Tuy nhiên, những gì y đang làm lại là nhét khẩu súng vào một cái lỗ khoét sâu trên lưng con ngỗng, ngón tay vẫn yên vị trên cò súng.
Trời ạ, Gurney nghĩ. Hắn bắn Mark Mellery bằng cách này sao? Phần lông nhồi sót lại trong vết thương ở cổ và trong vũng máu dưới đất là như vậy sao? Lẽ nào trong giây phút tử thần Mellery lại nhìn chằm chằm vào một con ngỗng chết giẫm ư? Bức tranh gớm ghiếc đến nỗi anh phải nuốt cái thôi thúc không thể cưỡng lại vào để khỏi bật cười. Hay đó là một cơn co thắt của sự hoảng sợ? Cảm xúc đó là gì thì nó cũng đến bất ngờ và mạnh mẽ. Bản thân anh đã đối mặt với nhiều kẻ điên – những kẻ bạo dâm, những kẻ giết người vì đủ loại động cơ tình dục, những kẻ bệnh hoạn gây án bằng gậy dùi đục, kể cả những kẻ ăn thịt người – nhưng chưa bao giờ anh buộc phải tìm ra giải pháp cho một cơn ác mộng phức tạp đến thế trong khi đang cách một viên đạn ngay óc chỉ một cái bóp cò.
“Trung úy Nardo, xin đứng dậy. Đến giờ mày vào rồi.” Giọng Dermott nghe kịch, gở và đầy mỉa mai.
Bằng một giọng thì thầm nhỏ đến nỗi thoạt đầu Gurney không rõ mình đang nghe hay đang tưởng tượng, bà già bắt đầu làu bàu, “Vịt Dickie-Dickie-Dickie. Vịt Dickie-Dickie-Dickie. Vịt Dickie-Dickie-Dickie.” Nghe giống tiếng đồng hồ đang tích tắc hơn là giọng con người.
Gurney nhìn Nardo mở hai tay ra, duỗi rồi nắm chặt các ngón tay lại với nhau. Anh ta đứng dậy từ vị trí đang ngồi trên sàn dưới chân giường bằng sức bật của một người đàn ông đang trong trạng thái thể chất tốt nhất. Cái liếc lạnh băng của anh ta chuyển qua lại giữa cặp đôi lạ lẫm trên giường và Gurney. Anh ta có ngạc nhiên trước cảnh tượng trước mắt hay không thì bộ mặt chai lì vẫn không biểu lộ. Rõ một điều duy nhất là, từ cách anh ta nhìn con ngỗng và cánh tay của Dermott đằng sau nó, anh ta đã thấy được súng đang nằm ở đâu.
Đáp lại, Dermott bắt đầu vuốt lưng con ngỗng bằng bàn tay còn trống. “Câu hỏi cuối cùng, trung úy, liên quan đến ý định của mày trước khi ta bắt đầu. Mày có định làm theo những gì tao nói không?”
“Nhất định rồi.”
“Tao xem câu trả lời đó có giá trị bề ngoài thôi. Tao sẽ cho mày một loạt các chỉ thị. Mày phải làm theo y như vậy. Rõ chưa?”
“Rõ.”
“Nếu tao là người ít có lòng tin hơn thì đã nghi ngờ thái độ nghiêm túc của mày đấy. Nhưng tao hy vọng mày nhận thức được tình hình. Để tao đặt hết chỗ bài của tao lên bàn để tránh phát sinh thêm hiểu lầm nào khác nhé. Tao đã quyết định giết mày. Chuyện đó không còn phải bàn cãi gì nữa rồi. Câu hỏi duy nhất còn lại là khi nào tao sẽ giết mày. Về mặt này thì tùy vào mày vậy. Tao nói nãy giờ mày có hiểu không?”
“Mày giết tao. Còn tao quyết định khi nào bị giết.” Nardo nói bằng giọng khinh bỉ chán chường dường như làm Dermott rất khoái chí.
“Đúng rồi, trung úy. Bị giết khi nào là do mày quyết định.
Nhưng dĩ nhiên chỉ đến chừng mực nào đó thôi vì, sau cùng thì chuyện gì cũng sẽ có kết cục thích hợp. Chưa đến lúc đó thì mày vẫn có thể sống nhăn mà nói những gì tao kêu mày nói và làm những gì tao kêu mày làm. Vẫn theo kịp chứ?”
“Ừ.”
“Xin nhớ cho, bất cứ lúc nào mày cũng có quyền lựa chọn được chết ngay tại chỗ nếu mày giở thủ đoạn không nghe theo chỉ thị của tao. Phục tùng sẽ thêm nhiều khoảnh khắc quý báu vào mạng sống của mày. Chống cự sẽ rút ngắn nó lại. Dễ hiểu quá rồi phải không?”
Nardo nhìn y không chớp mắt.
Liệu chừng cái xung động cảm xúc giữa hai người sẽ bùng nổ trong vài giây nữa, Gurney trượt hai bàn chân lùi về sau chân ghế một vài phân để đặt mình vào tư thế tốt nhất để có thể đẩy người về phía giường bất cứ lúc nào.
Dermott thôi vuốt ve con ngỗng. “Làm ơn để chân lại chỗ cũ,” y nói mà mắt vẫn không rời Nardo. Gurney làm theo mà nể phục tầm nhìn ngoại biên của Dermott. “Nếu mày nhúc nhích lần nữa, tao sẽ giết hai đứa bay mà không nói năng gì nữa. Nào, trung úy,” Dermott điềm nhiên nói tiếp, “nghe cho kỹ nhiệm vụ của mày đây. Mày sẽ đóng một vở kịch. Tên của mày là Jim. Vở kịch này nói về Jim cùng vợ và con trai lão. Vở kịch này ngắn và đơn giản lắm, nhưng nó có một kết cục với sức ảnh hưởng rất mạnh mẽ đấy.”
“Ta phải đi đái,” người đàn bà nói bằng giọng nhừa nhựa, đầu ngón tay lại lướt bâng quơ trên những lọn tóc vàng xoăn tít.
“ổn thôi mẹ ạ,” y trả lời mà không nhìn bà ta. “Mọi chuyện sẽ ổn cả. Mọi chuyện sẽ diễn ra theo cách vốn dĩ của nó.” Dermott chỉnh vị trí con ngỗng trên đùi gã một chút để,
Gurney nghĩ, tinh chỉnh chỗ ngắm của khẩu súng bên trong vào Nardo. “Tất cả sẵn sàng chưa?”
Nếu cái nhìn vững vàng của Nardo là nọc độc, thì Dermott đã chết đến ba lần. Nhưng đằng này chỉ thấy một vẻ chập chờn quanh miệng anh ta, có thể là một nụ cười, một cái giật nảy, hoặc là một chút hào hứng.
“Tao xem sự im lặng của mày lần này nghĩa là đồng ý. Nhưng chỗ bạn bè tao cảnh cáo trước. Từ giờ trở đi nếu còn phản ứng mơ hồ nữa thì vở kịch lẫn mạng mày sẽ kết thúc ngay. Mày hiểu tao không?”
“Hiểu.”
“Tốt. Mở màn. Bắt đầu vở kịch. Thời gian trong năm là cuối thu. Thời gian trong ngày là lúc xế chiều, trời đã tối. Thời tiết khá lạnh, ngoài trời có tuyết dưới đất, có băng nữa. Thật sự thì cái đêm đó rất giống với đêm nay. Hôm nay được nghỉ nên cả ngày mày ở trong quán rượu gần nhà bù khú với đám bợm nhậu bạn mày. Hễ được nghỉ là mày lại như vậy. Vở kịch bắt đầu khi mày về nhà. Mày đi lảo đảo vào phòng ngủ của vợ. Mặt mày đỏ bừng giận dữ. Mắt mày lờ đờ nhìn rất ngu. Mày đang cầm một chai uýt ki trong tay.” Dermott chỉ chai Bốn Hoa Hồng trên chiếc rương. “Mày dùng cái chai đằng kia kìa. Cầm lên ngay đi.”
Nardo bước về phía trước cầm chai lên. Dermott gật đầu ưng ý. “Theo bản năng, mày xem cái chai là một vũ khí tiềm tàng. Diễn tốt lắm, rất nhập vai. Mày rất có năng khiếu đồng cảm với suy nghĩ của nhân vật đấy. Bây giờ, cầm chai trong tay, mày đứng dậy, quơ qua quơ lại, dưới chân giường của vợ. Mày nổi khùng, sừng sộ nhìn vợ và đứa con trai bé bỏng của bà ấy cùng con ngỗng nhồi bông của nó trên giường. Mày nhe răng ra như một con chó dại đần độn.” Dermott ngừng lại quan sát mặt Nardo. “Cho tao xem mày nhe răng nào.”
Môi Nardo mím lại rồi hé ra. Gurney có thể thấy cơn thịnh nộ trong vẻ mặt đó hoàn toàn không giả tạo chút nào.
“Đúng rồi!” Dermott hớn hở. “Tuyệt lắm! Mày thực sự có khiếu đấy. Bây giờ mày đứng đó, mắt đỏ ngầu, mồm đầy nước dãi, rồi mày quát vợ mày trên giường, ‘Nó làm cái [bad word] gì trong này?’ Mày chỉ vào mặt tao. Mẹ tao nói, ‘Bình tĩnh nào Jim, con cho em và vịt Dickie xem cuốn truyện tranh của nó thôi mà’. Mày nói, ‘Tao có thấy cuốn sách chó chết nào đâu’. Mẹ tao nói với mày, ‘Nhìn đi, nằm ngay trên bàn cạnh giường kìa’. Nhưng mày có một cái đầu rất bẩn thỉu, và nó hiện rõ trên bản mặt bẩn thỉu của mày. Mấy ý nghĩ bẩn thỉu của mày rỉ qua bộ da hôi hám của mày như mồ hôi nhớp nhúa. Mẹ tao nói với mày là mày say rồi, vào phòng kia ngủ đi nào. Nhưng mày lại cởi đồ ra. Tao hét lên đuổi mày ra ngoài. Nhưng mày lại cởi hết quần áo ra đứng đó tồng ngồng, lườm mẹ con tao. ‘Anh làm tôi buồn nôn’. Mẹ tao hét vào mặt mày, quát lên bảo mày đừng có tởm lợm như vậy nữa, ra khỏi phòng đi. Mày nói, ‘Mày nói thằng chó nào tởm lợm hả, con đĩ chó kia?’ Rồi mày đập bể chai uýt ki vào chân giường, rồi mày nhảy lên giường như một con dã nhân trần truồng tay cầm cái chai bể. Cái mùi uýt ki hôi hám muốn buồn nôn nồng nặc khắp phòng. Mình mẩy mày hôi hám. Mày gọi mẹ tao là đĩ. Mày…”
“Bà ấy tên gì?” Nardo xen vào.
Dermott chớp mắt hai lần. “Không quan trọng.”
“Quan trọng chứ.”
“Tao nói không quan trọng.”
“Sao lại không?”
Dermott có vẻ sửng sốt trước câu hỏi này, tuy không nhiều. “Tên bà ấy là gì không quan trọng bởi vì mày chưa bao giờ sử dụng tên của bà ấy cả. Mày gọi bà ấy bằng thứ này thứ nọ, những thứ xấu xa, chứ chưa bao giờ dùng tên bà ấy. Mày chẳng bao giờ xem trọng bà ấy. Chắc đã lâu lắm rồi mày chưa nói tên bà ấy nên tên bà ấy là gì mày cũng không còn nhớ nữa.”
“Nhưng mày biết tên của bà ấy mà, đúng không?”
“Tất nhiên là biết. Bà ấy là mẹ tao mà. Tất nhiên tao biết tên mẹ tao.”
“Vậy là tên gì?”
“Không quan trọng với mày. Mày không cần biết.”
“Nhưng tao vẫn muốn biết.”
“Tao không muốn tên bà ấy có trong cái đầu bẩn thỉu của mày.”
“Nếu muốn tao giả làm chồng bà ấy thì tao phải biết tên bà ấy.”
“Mày chỉ cần biết những gì tao muốn mày biết thôi.”
“Tao không làm được nếu chưa biết tên người phụ nữ đó. Tao không cần biết mày nói gì – vợ của tao mà tao còn không biết tên thì còn ý nghĩa khỉ gió gì nữa.”
Gurney không rõ Nardo đang định bày trò gì.
Phải chăng anh ta cuối cùng đã nhận ra mình đang được chỉ đạo dựng lại vụ say rượu hành hung của Jimmy Spinks đối với Felicity Spinks đã xảy ra 24 năm trước trong ngôi nhà này? Phải chăng anh ta đã nhận ra tên Gregory Dermott này, người đã mua căn nhà này một năm trước, rất có thể là đứa con của Jimmy và Felicity – đứa bé tám tuổi mang họ Spinks mà Sở An sinh Xã hội đã cưu mang sau hậu quả để lại từ thảm họa gia đình ấy? Phải chăng anh ta đã hiểu ra bà già trên giường có vết sẹo trên cổ gần như chắc chắn là Felicity Spinks – người đã được đứa con trai trưởng thành nhận lại từ một cơ sở điều dưỡng lâu dài nào đó mà bà ta buộc phải vào sau chấn thương do bị hành hung?
Phải chăng Nardo đang hy vọng có thể thay đổi được cách vận hành chết người của vở ‘tiểu phẩm’ đang diễn ra bằng cách làm hé lộ nội dung của nó? Anh ta đang tìm cách tạo ra một sự phân tâm về mặt tâm lý chăng, với hy vọng tìm ra được lối thoát nào đó? Hay anh ta chỉ đang mò mẫm trong màn đêm – tìm cách kéo dài thời gian càng lâu càng tốt, bằng mọi cách có thể, bất luận Dermott đang nghĩ gì?
Dĩ nhiên, còn một khả năng khác. Việc Nardo đang làm gì, và Dermott đang phản ứng lại như thế nào, cũng có thể chẳng có ý nghĩa về mặt lý trí. Đây có thể là kiểu tranh chấp ngoài lề vụn vặt đến nực cười khiến mấy đứa con trai phải đánh nhau bằng xẻng nhựa trong khu vực chơi cát và khiến mấy gã đàn ông giận dữ phải ẩu đã nhau đến chết trong quán rượu. Với tâm trạng đang bất an, Gurney nghi ngờ suy đoán cuối cùng này cũng có khả năng như bất kỳ suy đoán nào.
“Mày nghĩ nó có ý nghĩa gì hay không thì cũng không quan trọng,” Dermott vừa nói vừa chỉnh góc nhìn của con ngỗng thêm một đoạn khoảng 6 mi li mét, mắt ngắm cố định vào cổ họng Nardo. “Mày nghĩ gì cũng không quan trọng. Đến lúc mày cởi quần áo ra rồi.”
“Cho tao biết tên bà ấy đã.”
“Đến lúc mày cởi quần áo ra rồi, xong đập vỡ cái chai rồi nhảy lên giường như một con dã nhân trần truồng. Như một con quái vật đần độn, nhỏ dãi, gớm ghiếc.”
“Bà ấy tên gì?”
“Đến lúc rồi.”
Gurney thấy một cử động nhẹ ở phần cơ trên cẳng tay Dermott – điều đó có nghĩa ngón tay của y đang ghì chặt hơn vào cò súng.
“Cứ cho tao biết tên bà ấy đi nào.”
Tất cả sự nghi ngờ của Gurney trước đó giờ đây đã biến mất. Nardo đã vạch rõ giới hạn, và toàn bộ khí phách đàn ông của mình – thật ra là cả sinh mạng – được đầu tư hết vào việc buộc đối thủ phải trả lời câu hỏi của anh ta. Dermott, tương tự như vậy, cũng đầu tư 100 phần trăm vào việc duy trì quyền kiểm soát. Gurney tự hỏi liệu Nardo có hiểu được tầm quan trọng của vấn đề giành quyền kiểm soát đối với gã đàn ông mà anh ta muốn đối mặt hiên ngang lúc này hay không? Theo Rebecca Holdenfield – thật ra là, theo những ai biết chút ít về những tay giết người hàng loạt – quyền kiểm soát là một mục tiêu đáng đánh đổi bằng bất kỳ cái giá nào, bằng bất kỳ rủi ro nào. Quyền kiểm soát tuyệt đối – cùng với cảm giác toàn trí và toàn năng nó tạo ra – là cảm giác phấn chấn tối hậu. Hiên ngang đe dọa mục tiêu đó trong khi không có súng trong tay là tự sát.
Dường như không thấy được chi tiết này nên Nardo một lần nữa lại đặt mình vào vị trí cách cái chết chỉ vài gang tấc, và lần này Gurney không thể cứu anh ta bằng cách quát anh ta phải phục tùng mệnh lệnh một lần nữa. Chiến thuật đó sẽ không có tác dụng lần thứ hai.
Sát khí lúc này như đám mây báo bão đang hối hả di chuyển vào mắt Dermott. Gurney chưa bao giờ cảm thấy bất lực đến thế. Anh không nghĩ ra được cách nào để chặn ngón tay đặt trên cò súng kia.
Đúng lúc đó anh nghe được tiếng nói ấy, trong trẻo và mát rượi như bạc ròng. Tiếng nói đó, không còn nghi ngờ gì nữa, là giọng nói của Madeleine, nói lên một thứ nhiều năm trước cô đã nói với anh vào dịp anh cảm thấy bế tắc trước một vụ án tưởng chừng vô vọng.
“Chỉ có một cách duy nhất để thoát ra khỏi ngõ cụt.”
Dĩ nhiên rồi, anh nghĩ. Hiển nhiên đến mức nực cười. Chỉ cần đi theo hướng ngược lại.
Ngăn chặn một tên đang tràn trề nhu cầu giành quyền kiểm soát tuyệt đối – tràn trề nhu cầu phải giết chóc để đạt được quyền kiểm soát đó – đòi hỏi ta phải làm ngược lại hoàn toàn những gì bản năng mách bảo. Và với câu nói của Madeleine trong vắt như nước suối trong đầu, anh đã thấy được cần phải làm gì. Cách này quái gở, vô trách nhiệm rành rành, và khó có thể biện hộ được vẻ mặt luật pháp nếu thất bại. Nhưng anh biết nó sẽ có tác dụng.
“Luôn đi! Luôn đi, Gregory!” anh xuýt xoa. “Bắn hắn đi nào!”
Hai người đàn ông trước mắt anh có chung một giây phút ngỡ ngàng. Họ dường như đang cố gắng tiếp thu những gì vừa nghe, như đang cố hiểu tại sao lại có tiếng sét giữa trời quang. Tầm ngắm chết người của Dermott vào Nardo dao động, và hướng khẩu-súng-trong-con-ngỗng di chuyển một chút về phía Gurney đang ngồi ở chỗ ghế sát tường.
Dermott nhếch mép theo cái kiểu bệnh hoạn giả vờ cười của y. “Mày nói gì cơ?” Trong thái độ lạnh nhạt giả tạo ấy, Gurney cảm nhận được một sự run rẩy khó chịu.
“Mày nghe tao nói rồi đấy, Gregory,” anh nói. “Tao bảo mày bắn hắn đi.”
“Mày… bảo… tao ư?”
Gurney thở dài giả vờ nôn nóng. “Mày làm phí thời gian của tao đấy.”
“Phí…? Mày nghĩ mày đang làm cái khỉ gió gì hả?” Khẩu- súng-trong-con-ngỗng di chuyển tiếp về hướng Gurney. Thái độ lạnh nhạt đã biến mất.
Mắt Nardo đang mở to ra. Gurney cảm thấy rất khó đánh giá cái cảm xúc lẫn lộn đằng sau vẻ mặt ngơ ngác đó. Như thể Nardo mới chính là người yêu cầu được biết chuyện, Gurney quay sang nói với anh ta bằng tất cả khả năng ứng khẩu của mình, “Gregory thích giết ai làm hắn nhớ đến người bố của hắn.” Có một âm thanh nghẹn ngào trong cổ họng Dermott, như lời nói hay tiếng khóc muốn bật ra thì bị kẹt ngay đó. Gurney vẫn cương quyết tập trung vào Nardo và nói tiếp cũng bằng cái giọng hờ hững ấy. “Có điều, lâu lâu hắn lại cần người ta động viên một chút. Vì lâu lâu lại sa lầy trong quá trình đó mà. Và khổ nỗi, hắn thường phạm sai lầm. Hắn không khôn lanh như hắn tưởng đâu. Ôi trời ạ!” Anh ngừng lại nhìn Dermott và cười dò xét. Cơ hàm của y lúc này đã lộ rõ. “Câu này nghe có được không? Gregory Spinks bé bỏng dễ thương – vốn chẳng khôn lanh như hắn tưởng. Sao hả, Gregory? Mày có nghĩ đây có thể là một bài thơ mới không?” Suýt nữa anh đã nháy mắt với tên giết người lươn lẹo nhưng lại nhận thấy làm vậy có lẽ là đi hơi xa.
Dermott nhìn anh chằm chằm bằng một vẻ căm hận, bối rối, kèm theo một thứ khác. Gurney đã hy vọng đó là một loạt các câu hỏi mà một tay thích kiểm soát rất muốn theo đuổi trước khi giết người đàn ông duy nhất có khả năng trả lời những câu hỏi đó. Lời tiếp theo của Dermott, với ngữ điệu căng thẳng, cho anh hy vọng.
“Sai lầm ư?”
Gurney gật đầu vẻ tiếc nuối. “Tao e là khá nhiều sai lầm đấy.”
“Mày nói láo, thanh tra. Tao không bao giờ phạm sai lầm cả.”
“Không ư? Vậy thì mày gọi mấy thứ đó là gì, nếu không phải là sai lầm? Gọi là những vụ be bét của Vịt Dickie Bé Bỏng ư?”
Vừa nói, anh vừa tự hỏi liệu có phải mình đã đi bước đi chết người ấy không. Nếu vậy, tùy viên đạn bắn vào anh ở chỗ nào, anh có lẽ sẽ không bao giờ biết được. Dù sao thì cũng không còn lối rút an toàn nào nữa. Một luồng sóng tạo thành bởi những dao động cực nhỏ làm xáo trộn khóe miệng của Dermott. Ngả người ngược ngạo ra sau trên chiếc giường đó, y dường như đang nhìn Gurney chòng chọc từ một tầm cao ở địa ngục.
Thực ra Gurney chỉ biết một sai lầm mà Dermott đã phạm phải – một sai lầm liên quan đến tấm séc của Kartch, mà anh cuối cùng đã nhận ra cách đó chỉ mới mười lăm phút khi nhìn khung hình chứa bản sao tờ séc đặt trên chiếc bàn đỡ đèn ngủ. Nhưng giả dụ anh nói đã nhận ra sai lầm đó và tầm quan trọng của nó ngay từ đầu rồi thì sao? Làm vậy sẽ tạo ra hiệu ứng gì đối với kẻ luôn khao khát muốn tin mình đang hoàn toàn kiểm soát tình thế?
Một lần nữa châm ngôn của Madeleine bừng lên trong tâm trí anh, nhưng với ý nghĩa ngược lại. Nếu anh không thề lùi lại, thì hãy chạy hết tốc lực về phía trước. Anh quay sang Nardo, như thể tên giết người hàng loạt trong phòng có thể bị lờ đi như không.
“Một trong những vụ be bét ngớ ngẩn nhất của hắn là đưa cho tôi tên những người đã gửi séc cho hắn. Trong số đó có một tên là Richard Kartch. Có điều, Kartch gửi séc trong phong bì trơn không kèm thư ghi chú, nên chỉ có thể xác định được người nhận qua tên in trên séc thôi. Tên trên séc là R. Kartch, và chữ ký cũng như vậy. Chữ R có thể viết tắt cho Robert, Ralph, Randolph, Rupert, hay một chục tên khác đều được. Nhưng Gregory lại biết nó là chữ viết tắt của Richard – đồng thời lại khai mình không quen biết hay có thông tin gì của người gửi ngoài tên và địa chỉ trên séc – chính là tờ séc tôi tìm thấy trong mớ thư từ nhà Kartch ở Sotherton. Từ sự không nhất quán đó, tôi biết ngay hắn nói dối. Còn lý do thì quá hiển nhiên rồi.”
Nardo không chịu đựng nổi sự thật này. “Anh biết hả? Vậy thì tại sao lại không nói mẹ với chúng tôi để chúng tôi còn tóm hắn?”
“Bởi vì tôi biết chuyện hắn đang làm và lý do hắn làm vậy, nhưng tôi thì lại không có hứng thú chặn hắn lại.”
Nardo trông như anh ta vừa bước vào một vũ trụ khác mà ở đó ruồi lại đi đập người.
Một tiếng lạch cạch đột ngột kéo sự chú ý của Gurney trở lại chỗ giường. Bà già đang va đôi giày thủy tinh màu đỏ vào nhau như Dorothy đang rời khỏi Oz trên đường về nhà ở Kansas. Khẩu-súng-trong-con-ngỗng trên đùi Dermott giờ đây chĩa trực tiếp vào Gurney. Dermott đang gắng sức – hoặc như Gurney hy vọng thì y ít ra cũng buộc phải gắng sức – tỏ ra không hề nao núng trước câu chuyện về Kartch đã bị tiết lộ. Y nói rõ từng lời của mình bằng một sự tỉ mỉ rất riêng.
“Mày chơi trò gì cũng được, thanh tra ạ, tao là người kết thúc nó.”
Gurney, với toàn bộ kinh nghiệm diễn xuất trong vai trò nằm vùng có thể mang ra sử dụng trong giây phút này, cố gắng nói bằng sự tự tin của một người đàn ông đang nhắm một khẩu Uzi ngầm vào ngực kẻ thù. “Trước khi muốn dọa ai,” anh nói nhẹ nhàng, “mày phải hiểu rõ tình hình đã chứ.”
“Tình hình ư? Tao bắn, mày chết. Tao bắn lần nữa, nó chết. Lũ khỉ đầu chó từ cửa xông vào, chúng chết. Tình hình là vậy.”
Gurney nhắm mắt lại rồi ngả đầu vào tường, miệng buông tiếng thở dài. “Mày có biết… có khi nào biết…?” anh toan nói, rồi lắc đầu chán nản. “Không. Không, dĩ nhiên là không rồi. Làm sao mày biết được chứ?”
“Biết gì hả, thanh tra?” Dermott sử dụng danh hiệu đó một cách mỉa mai khoa trương.
Gurney cười phá lên. Đó là một cái cười thuộc kiểu loạn trí, mục đích để tạo ra nhiều câu hỏi mới trong đầu Dermott, nhưng thật ra cái cười đó lại được tiếp sức bởi một ngọn thủy triều của bao cảm xúc hỗn loạn đang dâng cao trong anh.
“Đoán xem tao đã giết bao nhiêu tên nào,” anh thầm thì, mắt trừng trộ nhìn Dermott bằng một cảm xúc ngây dại mãnh liệt – thầm nguyện tên này không nhận ra được mục đích đằng sau việc anh ứng khẩu dông dài trong vô vọng như vậy, thầm nguyện toán cảnh sát Wycherly sẽ sớm phát hiện ra Nardo đã mất tích. Vì lý do khỉ gió gì mà họ vẫn chưa phát hiện ra cơ chứ? Hay họ đã phát hiện rồi? Đôi giày thủy tinh tiếp tục va vào nhau lách cách.
“Bọn cớm ngu si lúc nào mà chả giết người,” Dermott nói. “Tao chả quan tâm gì sất.”
“Tao không nói đến người bình thường.