Chương 7
Tại nhà thương nhân Amylej, ông Maćko và Zbyszko đang bàn nhau xem bây giờ nên hành động thế nào. Vị hiệp sĩ già nghĩ là chẳng mấy chốc mình sẽ về chầu Chúa, bởi chính cha Cybek - một thầy tu dòng Franciskan am tường về các loại vết thương - đã bảo ông thế. Vì vậy, ông muốn được trở về trang Bogdaniec ngay, để được chôn cất bên tổ tiên trong nghĩa địa Ostrów.
Ông Maćko và Zbyszko bàn nhau xem bây giờ nên hành động thế nào
Bởi lẽ trong khi đàn ông trai tráng của Bogdaniec bị ngã gục dưới những mũi tên giặc Đức, thì bọn hiệp sĩ đạo tặc ở xứ Sląsk gần đó đã tấn công tổ ấm gia đình họ, đốt trụi trang ấp, xua tứ tán và bắt làm tù binh tất cả cư dân, đem đi bán ở những vùng xa xôi bên xứ Đức. Ông Wojciech còn mỗi một mình trong ngôi nhà xưa không rõ nhờ phép thần kỳ nào mà thoát khỏi ngọn lửa hung tàn, ông trở thành người thừa kế một vùng đất mênh mông nhưng hoàn toàn trơ trụi, trước kia vốn thuộc về cả một dòng tộc giàu có. Năm năm sau ông lấy vợ, nhưng sau khi sinh được hai người con trai - Jaśko và Maćko - chẳng may ông bị một con bò rừng húc chết trong lúc đi săn.
Hai cậu con trai lớn lên trong sự chăm nom của mẹ, bà Kachna xứ Spalenica. Bản thân bà cũng đã từng tham gia hai cuộc tiễu phạt tiến đánh bọn Đức xứ Sląsk để rửa những mối oán cừu ngày trước, nhưng đến cuộc tiễu phạt thứ ba thì bà ngã xuống. Đến tuổi trưởng thành, người anh là Jaśko cưới cô Jagienka xứ Mocarzewo, sinh được Zbyszko. Còn ông Maćko thì sống độc thân, chăm lo gia tự điền sản cùng đứa cháu trai côi cút trong các đợt tạm yên giữa những cuộc đánh đấm và chinh chiến triền miên.
Nhưng rồi trong cuộc nội chiến giữa hai phái Grzymalit và Nałęcz, khi một lần nữa những ngôi nhà của trang Bogdaniec lại bị thiêu rụi và đám nông nô bị đuổi xua tứ tán, thì ông Maćko đơn độc không sao gây dựng lại nổi. Nhọc nhằn vất vả suốt bao năm trường, rốt cuộc ông đành nhượng đất đai lại cho một đức cha tu viện trưởng cũng vốn là chỗ họ hàng, rồi mang cả đứa cháu là Zbyszko lúc ấy hãy còn trứng nước, lên đường sang đất Litva đánh nhau với quân Đức.
Song thực ra chưa khi nào ông không để mắt tới Bogdaniec. Ông sang Litva chỉ vì mong muốn làm giàu thật nhanh bằng những thứ chiến lợi phẩm đoạt được, để có thể quay về chuộc lại đất đai, định cư tù binh nô lệ, xây lại thành lũy, cùng Zbyszko dựng lại tổ ấm cha ông. Giờ đây, sau khi đã may mắn cứu thoát cháu trai, ông chỉ nghĩ đến một điều duy nhất đó, cũng chính là việc mà ông đã bàn bạc cùng chàng tại nhà thương nhân Amylej.
Đã có cái để thế chuộc lại đất đai. Họ đã kiếm được món sản nghiệp khá lớn gồm những đồ chiến lợi phẩm thu được, tiền chuộc mạng mà các hiệp sĩ bị họ bắt làm tù binh phải nộp, và những món quà được đại quận công Witold ban tặng. Nhưng món lợi sộp nhất mà họ thu được chính là nhờ cuộc tử đấu với hai hiệp sĩ xứ Fryzja. Thời bấy giờ, chỉ nguyên những giáp phục mà họ thu được cũng đã là cả một gia tài lớn, ấy thế mà ngoài giáp phục, họ còn lấy được cả ngựa xe, gia nhân, áo quần, tiền bạc và bao nhiêu chiến cụ quý báu khác. Bấy giờ, chính thương gia Amylej mua lại của họ nhiều thứ trong số chiến lợi phẩm ấy, kể cả hai súc dạ tuyệt vời xứ Handria [129] mà các hiệp sĩ Fryzja giàu có vốn lo xa đã chở theo. Ông Maćko còn bán bớt một bộ giáp chiến lợi phẩm quý giá, bởi nghĩ rằng trước mặt thần chết đang tiến đến, giáp phục chẳng còn ích gì cho ông nữa. Người lái buôn giáp phục mua bộ giáp ấy, ngay hôm sau đã bán nó lại cho hiệp sĩ Marcin xứ Wrocimowice, kiếm được món hời đáng kể, bởi thời bấy giờ người ta chuộng giáp phục xứ Mediolan hơn mọi loại giáp khác trên đời.
Zbyszko tiếc bộ giáp quá chừng.
- Nếu Chúa cho chú được khỏe lại, - chàng bảo chú, - biết kiếm đâu được bộ giáp như thế kia chứ?
- Lại kiếm ở chính nơi tao đã kiếm được ấy, nghĩa là trên người một thằng Đức khác! - Ông Maćko đáp. - Nhưng chắc là tao chẳng trốn được thần chết nữa rồi. Mũi tên sắt xuyên sâu giữa xương sườn, các mảnh vụn còn găm lại trong đó. Hễ tao sờ đến mảnh nào, định lấy móng tay lôi ra là nó lại càng tụt vào sâu hơn. Giờ thì chẳng còn cách gì lôi chúng nó ra được nữa!
- Chú cứ thử uống một vài nồi mỡ gấu xem sao.
- Hà! Cha Cybek cũng khuyên thế, biết đâu lại chẳng có mảnh trồi ra. Nhưng ở đây biết kiếm đâu được mỡ gấu? Giá ở Bogdaniec thì đã đành! Chỉ cần vớ lấy rìu, ban đêm phục ngay cạnh đõ ong là kiếm được tốt!
- Thế thì phải về Bogdaniec ngay thôi! Có điều chú đừng tắt nghỉ đâu đó trên đường đấy nhé!
Ông Maćko cảm động nhìn đứa cháu trai:
- Tao biết bây giờ mày đang muốn đi đâu: đến với cung đình của quận công Janusz hoặc đến với ông Jurand trang Spychow, tấn công bọn Đức ở vùng Chelm.
- Cháu không chối. Cháu rất sướng nếu được cùng với triều thần của quận công đi đến Warszawa [130] hay đến Ciechanow, cốt là để được gần Danusia lâu nhất. Thiếu nàng, cháu chẳng là gì cả, bởi nàng không chỉ là nữ chúa mà còn là tình yêu của cháu. Cháu muốn được nhìn nàng, đến nỗi chỉ nghĩ đến nàng thôi là cháu đã thấy bị cuốn hút rồi. Cháu sẵn sàng đi theo nàng đến cùng trời cuối đất, nhưng bây giờ chú là ưu tiên lớn nhất của cháu. Chú đã không bỏ rơi cháu, thì làm sao cháu có thể bỏ chú được! Về Bogdaniec thì về!
- Cháu là chàng trai tốt - Ông Maćko thốt lên.
- Chúa sẽ trừng phạt cháu, nếu cháu cư xử khác với chú. Chú sẽ thấy là đã chất đồ đạc lên xe rồi, cháu ra lệnh dành riêng một xe trải rơm lên cho chú nằm. Bà vợ ông Amylej tặng cả đệm lông, nhưng cháu chỉ sợ chú nằm bị nóng. Ta sẽ đi từ từ cùng với quận chúa và quần thần, để không bị thiếu trợ giúp. Rồi sau đó họ về Mazowsze, còn ta đi tiếp đường của mình và cầu Chúa giúp cho!
- Cầu sao tao dựng được một tòa thành nho nhỏ, - ông Maćko nói, - bởi tao biết là sau khi tao chết đi, mày chẳng nghĩ gì nhiều về Bogdaniec nữa đâu.
- Sao cháu lại không nghĩ?
- Bởi đầu mày chỉ nghĩ đến đánh đấm và yêu đương thôi.
- Thế trong đầu chú không chứa đầy chuyện chinh chiến đó sao? Cháu đã toan tính mọi chuyện đâu đấy cả rồi. Trước hết phải dựng một thành lũy vững chắc bằng cọc gỗ sồi, sẽ đào một hào sâu…
- Mày mà cũng nghĩ chuyện đó ư? - Ông Maćko tò mò và thích thú hỏi lại. - Nào, thế sau khi dựng lũy xong rồi?… Nói tiếp xem nào!
- Khi lũy đã dựng xong, cháu sẽ lên đường đến Warszawa hoặc Ciechanow, đến với triều đình quận công.
- Sau khi tao chết chứ?
- Nếu nhỡ chú qua đời sớm, thì sau khi chú chết cháu sẽ lên đường, nhưng trước hết phải lo chôn cất chú cho tử tế đã. Còn nếu Đức Chúa Giêsu cho chú khỏe lại, chú sẽ ở nhà trông nom trang Bogdaniec. Quận chúa đã hứa là cháu sẽ được nhận đai hiệp sĩ từ chính tay quận công. Nếu không, gã Lichtenstein chẳng chịu đánh nhau tay đôi với cháu đâu.
- Rồi mày sẽ tới tận thành Malborg?
- Tới thành Malborg hay đến chỗ cuối đất cùng trời, miễn là tìm bằng được thằng Lichtenstein.
- Việc ấy thì tao chẳng phản đối. Hoặc mày hoặc nó phải chết!
- Chú đừng lo! Thế nào cháu cũng mang được đôi găng tay với đai hiệp sĩ của nó về Bogdaniec cho chú xem!
- Có điều phải đề phòng phục binh. Ở bên đất chúng nó dễ bị đánh úp lắm.
- Cháu sẽ tới chào và xin quận công Janusz gửi thư thiết khoán [131] cho viên đại thống lĩnh. Bây giờ đang là thời bình. Cháu sẽ mang theo thư thiết khoán tới thành Malborg, ở đó bao giờ cũng là nơi đông hiệp khách nhất. Chú biết không? Trước hết cháu phải xử thằng Lichtenstein, rồi sau đó tìm xem thằng nào mang ngù lông công nữa, cháu sẽ lần lượt thách đấu với từng thằng. Lạy Chúa! Nếu Chúa Giêsu cho cháu thắng, cháu có thể thực hiện luôn lời thề nữa!
Nói đoạn, Zbyszko mỉm cười với những ý nghĩ của chính mình, và khi ấy mặt chàng trai nom giống như một đứa trẻ đang hào hứng tuyên bố những chiến công hào hùng mà nó sẽ thực hiện khi lớn lên.
- Hey!- Ông Maćko vừa nói vừa gục gặc đầu. - Nếu mày chinh phục được cả ba tay hiệp sĩ dòng dõi cao sang, thì không những mày thực hiện được lời thề, mà còn kiếm được khối của nữa đấy! Lạy Chúa lòng lành!
- Sao lại ba? - Zbyszko thốt lên. - Dưới hầm giam, cháu đã từng thề sẽ không tiếc Danusia điều gì. Số thằng giặc bị hạ sẽ đúng bằng số ngón tay của cháu đây, chẳng phải chỉ ba mống đâu!
Ông Maćko nhún vai.
- Chú ngạc nhiên và không tin cháu chứ gì? “ Zbyszko nói tiếp. - Cháu sẽ đến thành Malborg cùng với hiệp sĩ Jurand trang Spychow kia mà. Đâu thể không đến chào ông ấy được, một khi ông ấy chính là thân phụ Danusia. Cháu sẽ cùng ông ấy tấn công bọn Đức xứ Chelm. Chính chú chẳng đã từng bảo rằng trên toàn cõi Mazowsze, không thể tìm đâu ra một người muốn ăn gan uống máu [132] bọn Đức như ông ấy đấy thôi.
- Thế nếu ông ấy không ưng gả Danusia cho mày?
- Sao lại không? Ông ấy muốn báo thù, cháu cũng báo thù! Ông ấy còn nhắm ai hơn cháu nữa? Vả lại, khi quận chúa đã cho phép đính ước, ông ấy cũng chẳng cưỡng đâu.
- Tao hiểu rồi, - ông Maćko thốt lên, - mày rồi sẽ mang hết đàn ông đàn ang trang Bogdaniec theo cho có đoàn tùy tùng, cho ra dáng hiệp sĩ, còn đất đai thì chẳng có lấy một bàn tay làm lụng. Nếu tao còn sống, tao chẳng để thế đâu, nhưng một khi tao chết đi rồi thì tao biết mày sẽ mang người đi hết ráo cho coi.
- Chúa sẽ ban cho cháu đoàn tùy tùng, vả lại cha Janko xứ Tulcza cũng là chỗ họ hàng với ta, cha chẳng tiếc đâu.
Đúng lúc ấy, cửa mở, và như để chứng minh rằng Chúa sẵn sàng ban đoàn tùy tùng cho Zbyszko, trên ngưỡng cửa hiện ra hai gã đàn ông. Da họ đen ngăm ngăm, rắn chắc, họ mặc áo kaftan màu vàng như dân Do Thái, đội mũ kiểu Krym đỏ và mặc quần ống rộng lùng thùng. Hai người đó dừng chân ở cửa, chụm mấy đầu ngón tay lại đặt lên trán, lên miệng, lên ngực, rồi cúi khom cả người xuống sát đất để chào.
- Các ngươi là loại người gì mà kỳ quặc thế? - Ông Maćko hỏi. - Các ngươi là ai?
- Là những kẻ nô lệ của ngài. - Hai người đáp lại bằng thứ tiếng Ba Lan ngọng nghịu.
- Sao lại nô lệ? Từ đâu đến? Ai phái các ngươi tới đây?
- Ông chủ Zawisza phái chúng con đến đây làm quà tặng ngài hiệp sĩ trẻ tuổi, để chúng con được làm nô lệ của ngài.
- Ơn Chúa! Thế là được hai người! - Ông Maćko vui sướng thốt lên. - Các ngươi thuộc dân tộc nào?
- Chúng con người Thổ ạ.
- Thổ? - Zbyszko hỏi lại. - Thế nghĩa là cháu sẽ có hai tên Thổ tùy tùng. Chú đã gặp người Thổ bao giờ chưa?
Rồi nhảy phắt tới chỗ hai tù binh, chàng dùng tay xoay người họ, ngắm tứ phía như ngắm những sinh linh lạ lẫm từ bên kia dại dương tới. Ông Maćko bảo:
- Gặp thì tao chưa gặp, nhưng tao có nghe nói ngài hiệp sĩ xứ Garbów có mấy gia nhân người Thổ mà ngài bắt được khi chiến đấu ở mạn sông Dunai dưới trướng hoàng đế Thánh chế La Mã Zygmunt. Sao, đồ chó đẻ, chúng mày đích là dân ngoại đạo à?
- Ông chủ đã bắt chúng con cải đạo rồi đấy ạ. - Một trong hai tù binh thưa.
- Chúng bay không có gì để chuộc mình sao?
- Quê chúng con ở tận vùng xa lắm, tận Brussa [133] trên bờ biển Á châu kia ạ.
Vốn luôn háo hức nghe chuyện chiến chinh, nhất là chuyện vị tướng công hiệp sĩ lừng danh Zawisza xứ Garbów, Zbyszko liền hỏi xem chúng đã trở thành nô lệ như thế nào. Nhưng chuyện của hai gã tù binh chẳng có gì phi thường: hiệp sĩ Zawisza hồi ba năm trước đây đã tấn công một toán mười mấy người bọn chúng trong một khe núi, số thì ông giết, số bị rơi vào tay ông, sau đó khá nhiều người được ông tặng cho kẻ khác.
Lòng Zbyszko và ông Maćko rộn lên vui sướng trước món quà tuyệt vời ấy, vì thời bấy giờ rất khó kiếm người, có được gia nhân là có được cả một tài sản thực sự.
Lát sau, đích thân hiệp sĩ Zawisza cùng các hiệp sĩ Powała và Paszko Đạo Chích xứ Biskupice đến thăm. Cả ba người đã lo lắng tìm cách cứu Zbyszko và rất sung sướng khi thực hiện được việc đó, nên mỗi người đều mang tặng chàng một thứ gì làm kỷ niệm trước lúc chia tay. Vị hiệp sĩ hào phóng xứ Taczew tặng chàng một tấm giáp phủ lưng ngựa chiến rất quý, rất rộng, phía trước ngực đính tua rua vàng. Hiệp sĩ Paszko tặng chàng một thanh gươm Hung trị giá tới mười đồng vàng. Rồi sau đó, lại tiếp đến hiệp sĩ Lis xứ Targowisko, hiệp sĩ Farurej và Krzon xứ Kozieglowy, hiệp sĩ Marcin xứ Wrocimowice, và cuối cùng là hiệp sĩ Zyndram xứ Maszkowice cùng kéo tới thăm, ai cũng mang theo quà tặng.
Zbyszko tiếp đón họ với trái tim tràn ngập sung sướng, vì những món quà tặng và còn vì chàng được những trang hiệp sĩ dũng kiệt anh tuấn nhất vương quốc tỏ tình hữu nghị. Họ hỏi thăm việc chàng ra đi, hỏi thăm sức khỏe ông Maćko, và vốn là những người dạn dày kinh nghiệm, tuy tuổi đời còn khá trẻ, họ bày cho ông những môn thuốc thần diệu có thể làm lành vết thương.
Tất thảy những quà tặng đó, ông Maćko đều dành cho Zbyszko, phần ông thì đã sửa soạn để sang thế giới bên kia. Khó lòng sống nổi khi phải mang những mảnh sắt đang lạo xạo giữa xương sườn.
Ông phàn nàn về việc thường thổ huyết và không thể ăn uống được gì. Một ít hạt dẻ, vài mẩu xúc xích, một đĩa trứng tráng - đó là toàn bộ khẩu phần hằng ngày của ông. Cha Cybek đã mấy lần trích huyết cho ông, nghĩ rằng cách ấy có thể làm tâm hạ nhiệt, mang đến sự ngon miệng, nhưng cũng chẳng ích gì.
Tuy vậy, sung sướng trước những món quà tặng dành cho đứa cháu trai, lúc này ông cũng cảm thấy khỏe hơn, và khi thương gia Amylej sai người nhà mang ra một thùng rượu nho để chiêu đãi các vị hiệp khách quý, thì ông cũng ngồi vào bàn và nâng cốc với họ. Họ trò chuyện về việc đã cứu sống Zbyszko và việc chàng đính hôn với Danusia. Các hiệp sĩ không nghĩ là ông Jurand trang Spychow sẽ cưỡng lại ý quận chúa, nhất là khi Zbyszko đã thề sẽ trả thù cho mẹ cô gái và cướp được ba ngù lông công cho nàng.
- Về thằng cha Lichtenstein, - hiệp sĩ Zawisza bảo, - tôi không rõ liệu hắn có muốn đấu với anh hay không, bởi hắn là tu sĩ, lại là một trong những vị đầu lĩnh của Giáo đoàn. Hà! Người trong dám tùy tùng của hắn còn nói rằng chỉ cần chờ ít lâu nữa, hắn có thể sẽ được lãnh chức đại thống lĩnh như chơi.
- Nếu không nhận lời thách đấu, hắn sẽ bị mất thanh danh. - Hiệp sĩ Lis xứ Targowisko nói.
- Không phải thế đâu, - hiệp sĩ Zawisza nói, - bởi lẽ hắn không phải là hiệp sĩ thế tục, mà đã là tu sĩ thì không có quyền được nhận lời thách đấu tay đôi.
- Nhưng bọn chúng vẫn thường nhận lời thách đấu đấy thôi!
- Bởi giới luật Giáo đoàn bị băng hoại nhiều rồi. Bây giờ bọn chúng luôn mồm thề nguyền đủ điều, và khét tiếng là không giữ lời hết lần này đến lần khác, làm bại hoại thanh danh Ki-tô giáo. Nhưng một hiệp sĩ Thánh chiến, nhất là một tên lãnh binh, có thể không cần nhận lời thách đấu.
- Ha! Thế thì anh phải tìm cách gặp hắn trong chiến trận thôi!
- Nhưng người ta đang đồn sẽ không có chiến tranh kia mà, - Zbyszko nói, - nghe nói bọn hiệp sĩ Thánh chiến sợ dân ta rồi.
Nghe chàng nói, hiệp sĩ Zyndram xứ Maszkowice thốt lên:
- Hòa chẳng được lâu đâu. Không thể sống hòa thuận với chó sói, bởi thế nào chúng cũng phải sống bằng sinh mạng kẻ khác.
- Chúng ta sẽ đánh nhau với Tymur Thọt - Hiệp sĩ Powała lên tiếng. - Đại quận công Witold thua tướng Edyga [134] là tin chắc chắn.
- Chắc chắn rồi! Với cả hiệp sĩ Spytko cũng chưa thấy quay trở về. - Hiệp sĩ xứ Biskupice nói theo.
- Các quận công Litva vẫn còn ở trên chiến trường mà.
- Thì sinh thời, thánh hậu đã chẳng tiên báo thế là gì. - Vị hiệp sĩ xứ Taczew nói.
- Ha! Vậy rất có thể chúng ta sẽ có dịp lên đường đi đánh gã Tymur!
Đến đây, câu chuyện chuyển sang cuộc hành binh của Litva chống quân rợ Tatar. Không còn nghi ngờ gì nữa, đại quận công Witold - vị thủ lĩnh hăng máu nhiều hơn khôn ngoan - đã phải gánh chịu trận đại bại thảm hại ở Worskla, nơi biết bao hiệp sĩ Litva, Nga, cùng với nhóm hiệp sĩ phụ trợ người Ba Lan, thậm chí cả một số hiệp sĩ Thánh chiến nữa, đã ngã xuống. Các vị hiệp khách tụ tập tại nhà thương nhân Amylej đặc biệt thương xót cho số phận của hiệp sĩ trẻ tuổi Spytko xứ Melsztyn, vị tướng lớn nhất của vương quốc, đã tình nguyện tham gia cuộc hành binh và bị mất tích không chút hồi âm sau trận thảm bại. Họ hết lời ca ngợi một hành động hiệp sĩ chân chính của chàng: được một tên tướng giặc thù tặng cho chiếc mũ khôi giáp bảo mạng [135] , chàng đã không thèm đội lên đầu khi giáp chiến, vì thà nhận cái chết vinh hiển còn hơn phải sống nhờ ân tứ của một thủ lĩnh ngoại đạo. Đến giờ vẫn chưa biết chắc chàng đã chết hay bị bắt làm tù binh. Nếu bị bắt, chàng vẫn có thể tự chuộc mạng, bởi chàng rất giàu có, hơn nữa lại được đức vua Władysław ban cho cả vùng đất Podhale để hưởng lộc.
Trận thảm bại của quân Litva có thể đe dọa toàn vương quốc của đức vua Jagiełło, bởi lẽ được cổ vũ bởi thắng lợi trước đại quận công Witold, chưa chừng bọn Tatar có thể tràn sang chiếm đất đai và thành quách thuộc đại công quốc. Nếu thế, toàn vương quốc sẽ bị lôi kéo vào cuộc chiến. Nhiều trang hiệp sĩ từng quen với chinh chiến phiêu lưu ở các triều đình ngoại quốc như các ông Zawisza, Farurej, Dobko và ngay cả hiệp sĩ Powała, cố ý chưa rời Kraków trước khi biết chắc tương lai sẽ mang lại điều gì. Nếu Tamerlan, vị chúa tể của hai mươi bảy vương quốc, động quân toàn khối Nguyên Mông thì hiểm họa có thể sẽ rất khủng khiếp. Họ cảm thấy điều đó có thể sẽ xảy đến.
- Nếu cần, chúng ta sẽ đánh nhau với chính gã Thọt. Hắn sẽ chẳng ăn gỏi nổi dân ta như đã từng thắng các dân tộc khác đâu. Các quận công Ki-tô giáo khác cũng sẽ kéo quân đến tiếp ứng ta chứ.
Nghe nói thế, hiệp sĩ Zyndram xứ Maszkowice - người luôn luôn sôi sục mối căm hờn đặc biệt đối với Giáo đoàn Thánh chiến - liền cay đắng thốt lên:
- Tôi chẳng biết các quận công khác thế nào, chứ bọn hiệp sĩ Thánh chiến thì sẵn sàng liên minh với lũ rợ Tatar để thọc dao vào lưng ta lắm!
- Vậy thì nhất định chiến tranh sẽ nổ ra! - Zbyszko kêu lên. - Tôi sẽ đi đánh nhau với bọn Thánh chiến!
Nhưng các vị hiệp sĩ khác đều lên tiếng phản bác. Tuy bọn hiệp sĩ Thánh chiến không biết sợ Chúa, chỉ chăm chăm lo lợi lộc riêng, song lẽ đâu chúng lại đi giúp lũ người ngoại đạo chống lại một dân tộc Ki-tô giáo? Vả lại, gã Thọt Tymur còn đang đánh nhau ở đâu đó mãi tít tận Á châu, còn tướng Edyga của bọn Tatar thì vừa thiệt hại mất bao nhiêu quân binh trong cuộc chiến, có lẽ chính hắn cũng đang nguyền rủa chiến thắng vừa rồi. Đại quận công Witold lại là người quyền biến, chắc hẳn ông đã chăm lo đầy đủ cho các thành trì. Vả lại, nói cho cùng, tuy lần vừa rồi dân Litva không thành công, nhưng đâu phải họ chưa từng thắng lũ rợ Tatar bao giờ?
- Chúng ta không nên đánh nhau với bọn Tatar, mà phải sống mái với tụi Đức mới đúng. - Hiệp sĩ Zyndram xứ Maszkowice vẫn khăng khăng. - Nếu ta không diệt chúng thì chúng sẽ diệt ta.
Rồi hiệp sĩ quay sang bảo Zbyszko:
- Mà trước tiên, vùng Mazowsze sẽ là nơi gánh chịu chuyện ấy. Anh sẽ tìm được khối dịp để ra tay ở đó! Đừng lo!
- Hey! Giá chú tôi khỏe lại, tôi sẽ lên đường đi ngay đến đó!
- Cầu Chúa giúp anh! - Hiệp sĩ Powała nâng cốc chúc.
- Chúc sức khỏe anh và Danusia!
- Cầu bọn Đức bị tiêu vong! - Hiệp sĩ Zyndram xứ Maszkowice nói thêm.
Rồi họ từ biệt nhau. Đúng lúc đó, một viên thuộc hạ của quận chúa mang chim ưng trên tay bước vào. Sau khi cúi chào các vị hiệp sĩ, ông ta quay sang nhìn Zbyszko và nở một nụ cười lạ lùng:
- Quận chúa truyền báo cho hiệp sĩ biết rằng đêm nay lệnh bà còn trú lại Kraków, sáng sớm mai mới lên đường. - Ông bảo.
- Vậy càng hay! - Zbyszko thốt lên. - Nhưng sao vậy? Có ai bị ốm chẳng?
- Không. Nhưng quận chúa vừa có khách từ Mazowsze tới.
- Đích thân quận công chăng?
- Thưa, không phải quận công. Hiệp sĩ Jurand trang Spychow vừa đến. - Viên thuộc hạ đáp.
Nghe vây, Zbyszko rất đỗi bối rối. Tim chàng đập dồn trong ngực, hệt như khi bị người ta tuyên án tử hình.