Chương 35
Tin tức về cuộc đụng độ tại Szczytno truyền đến Warszawa trước khi đồng đạo Rotgier đến đó, đã khiến cho người ta bàng hoàng và kinh ngạc. Không một ai trong triều, kể cả quận công, hiểu được chuyện gì đã xảy ra. Thì mới cách đây chưa lâu, trước khi hiệp sĩ Mikołaj xứ Dlugolas lĩnh mệnh quận công mang thư đến thành Malborg kịch liệt lên án bọn lãnh binh vô luân vùng biên ải bắt cóc Danusia và đòi phải thả ngay người bị bắt cóc, thì chợt có một bức thư của trang chủ Spychow gửi tới báo tin rằng con gái ông không phải bị bọn Thánh chiến mà là bọn đạo tặc ở vùng biên ải bắt cóc, và sẽ được tự do sau khi ông nộp tiền chuộc. Chính vì thế, sứ giả không phải đi nữa, bởi lẽ không ai nghĩ bọn Thánh chiến có thể buộc ông Jurand phải viết bức thư kia bằng cách dọa giết con gái ông. Tuy nhiên cũng khó mà hiểu sự tình, bởi thông thường những kẻ gây loạn ở vùng biên ải, dù thuộc sự cai quản của Giáo đoàn hay thuộc hạ của quận công, đều chỉ tấn công vào mùa hè chứ không phải về mùa đông, khi mặt tuyết có thể để lộ ra dấu vết. Mà thường khi chúng cũng chỉ tấn công các đoàn thương nhân hoặc cướp bóc các làng mạc vùng biên, bắt người, lùa gia súc mà thôi, chứ còn dám công nhiên động đến chính quận công để bắt cóc một thiếu nữ được ngài nuôi nấng, đồng thời lại là ái nữ của một trang hiệp sĩ hùng cường khiến người ta nể sợ - thì quả là điều vượt quá trí tưởng tượng của mọi người. Nhưng bức thư của ông Jurand, có áp triện của ông, lại do một người mà người ta biết chắc là xuất thân từ trang Spychow mang đến, là câu trả lời cho điều nghi ngờ ấy cũng như những ngờ vực khác. Vì thế, mọi ngờ vực đều vô căn cứ. Riêng quận công nổi trận lôi đình ghê gớm mà lâu nay thuộc hạ ít thấy ở ngài, rồi ra lệnh mở cuộc săn đuổi bọn cường đạo trên khắp vùng biên giới của công quốc, đồng thời kêu gọi quận công vùng Plock cũng hành động như vậy, và trừng trị không thương tiếc bọn táo tợn, dám cả gan kia.
Đúng lúc ấy, tin tức về sự kiện thành Szczytno lại đến.
Truyền khẩu từ người này sang người khác, tin ấy đã được phóng đại gấp mười. Người ta đồn rằng hiệp sĩ Jurand một mình một ngựa lao thẳng vào cổng thành đang mở và tàn sát thẳng tay khiến quân binh trấn giữ ít kẻ còn sống sót, bọn chúng phải cử người đi cầu viện các thành trì gần đấy, kêu gọi rất đông giới hiệp sĩ và dân chân đất có vũ trang đến ứng cứu, nhưng cũng phải mất hai ngày ròng rã bao vây họ mới đoạt lại được thành Szczytno, tiêu diệt ông Jurand và quân lính của ông. Người ta còn đồn rằng hình như những đội quân ấy lúc này đã xâm phạm biên giới và chẳng bao lâu nữa đại chiến nhất định sẽ xảy ra. Quận công không tin những lời đồn đại ấy, bởi ngài biết rõ đại thống lĩnh Giáo đoàn đang hết sức gìn giữ sao cho binh lực của cả hai vị quận công xứ Mazowsze sẽ án binh bất động trong trường hợp quân Thánh chiến có chiến tranh với đức vua Ba Lan. Ngài thừa hiểu rằng nếu bọn Thánh chiến dám gây chiến với ngài hoặc quận công Ziemowit xứ Plock thì không sức mạnh nào có thể kìm chân dân Ba Lan ở khắp vương quốc không tham chiến, mà đại thống lĩnh lại rất sợ một cuộc chiến như vậy. Đại thống lĩnh hiểu rằng cuộc chiến ấy sẽ nổ ra ngày một ngày hai, nhưng vẫn muốn đẩy lùi nó càng xa càng tốt, trước hết bởi lẽ ông ta là kẻ chủ hòa, và hai nữa, muốn đương đầu với thế lực hùng mạnh của đức vua Jagiełło cần phải chuẩn bị lực lượng - lực lượng mà cho đến nay Giáo đoàn chưa có - đồng thời phải vận động để được các quận công và giới hiệp sĩ ủng hộ, không riêng ở nước Đức mà khắp Tây phương.
Quận công không ngại chiến tranh, ngài chỉ muốn biết rõ sự việc đã xảy ra, muốn biết phải nghĩ thế nào cho đúng về cuộc đụng độ tại thành Szczytno, về việc Danusia mất tích, và về tất cả những tin đồn từ biên giới truyền về. Vì vậy, mặc dù không chút ưa bọn hiệp sĩ Thánh chiến, nhưng quận công vẫn mừng khi một buổi chiều nọ nghe viên chỉ huy toán cung thủ báo tin một hiệp sĩ của Giáo đoàn vừa đến và xin quận công cho yết kiến.
Quận công tiếp hắn với vẻ kiêu ngạo, và mặc dù nhận ngay ra rằng đó là một trong các đồng đạo của Giáo đoàn đã từng có mặt tại lâm cung, quận công vờ như không nhớ mặt hắn, hỏi hắn là ai, từ đâu đến, và có chuyện gì đã khiến hắn phải đến thành Warszawa.
- Thưa, tôi là đồng đạo Rotgier, - gã hiệp sĩ Thánh chiến đáp, - cách đây không lâu tôi đã có vinh hạnh được kính cẩn cúi chào quận công.
- Nếu là hiệp sĩ của Giáo đoàn, sao ngươi không mang trên mình dấu thánh giá?
Gã hiệp sĩ biện bạch rằng hắn không dám khoác lên người tấm áo choàng trắng có hình thập giá, bởi lẽ nếu làm thế, ắt hắn sẽ bị giới hiệp sĩ xứ Mazowsze này bắt hoặc giết tức khắc. Trên khắp thế gian, ở mọi vương quốc và công quốc khác, dấu thập giá trên áo choàng đều bảo vệ, đều thu hút được lòng ái mộ và mến khách của mọi người, chỉ duy nhất tại công quốc Mazowsze này, dấu thập giá mang tới cho kẻ nào khoác áo có hình nó một cái chết mười mươi.
Quận công giận dữ ngắt lời hắn.
- Không phải dấu thập giá, - ngài nói, - bởi thập giá thì chúng ta đều hôn hàng ngày, mà chính sự vô luân của các ngươi… Còn nếu ở nơi khác người ta đón tiếp các ngươi tử tế hơn, thì chỉ vì người ta chưa hiểu rõ bụng dạ các ngươi đó thôi.
Rồi khi thấy gã hiệp sĩ tỏ ra sợ sệt trước những lời ấy, quận công hỏi:
- Có mặt tại thành Szczytno, ngươi có biết chuyện xảy ra ở đó không?
- Dạ thưa, tôi đã có mặt tại thành Szczytno và biết tường tận chuyện đã xảy ra nơi ấy. - Rotgier đáp. - Tôi đến đây không với tư cách sứ giả của ai, mà chỉ vì vị lãnh binh thánh thiện và mẫn cán của thành Insburk bảo tôi rằng: “Đức đại thống lĩnh của chúng ta rất yêu mến ngài quận công sùng tín, và rất tin vào sự công minh của quận công; vì vậy trong khi ta phải lập tức trở về thành Malborg để cấp cáo, ngươi hãy đến ngay Mazowsze trình cho quận công rõ tất thảy những gì chúng ta bị xúc phạm, bị nhục mạ, bị gây họa. Cúi xin quận công công minh đừng ca tụng kẻ đã chà đạp lên hòa hiếu, tên kẻ cướp kinh hoàng đã làm đổ ra ngần kia dòng máu Ki-tô, như thể hắn không phải là tôi tớ của Đức Chúa Ki-tô mà là thuộc hạ của quỷ Sa-tăng!”
Nói đoạn, hắn bắt đầu thuật lại những gì đã xảy ra ở thành Szczytno: chuyện ông Jurand được chúng mời đến để xem có phải cô gái mà chúng đoạt được từ tay bọn cướp là con gái của ông không, thế rồi thay vì trả ơn ông ta đã nổi điên đánh lại chúng, giết chết tươi hiệp sĩ Danveld, đồng đạo Gotfryd, hiệp sĩ người Anh Hugues, von Bracht và hai hộ vệ quý tộc, chưa kể binh lính. Nhớ những lời răn của Chúa, bọn chúng đã không nỡ giết chết ông, mà vất vả lắm mới trói được vị hiệp sĩ khủng khiếp kia trong một tấm lưới thép; bị bắt rồi, ông Jurand mới dùng vũ khí để tự hoại thân xác mình một cách kinh khủng. Hắn nói thêm rằng không chỉ riêng trong thành, mà ngoài phố cũng có những người đã nghe thấy giữa những cơn bão tuyết băng giá rú gào, có tiếng cười sằng sặc kinh rợn và những tiếng kêu gào khủng khiếp: “Jurand của chúng ta! Kẻ đã lăng nhục thánh giá! Đã làm đổ máu vô tội! Jurand của chúng ta!”
Toàn bộ câu chuyện, nhất là những lời cuối cùng của gã hiệp sĩ Thánh chiến, đã gây ấn tượng mạnh cho mọi người có mặt. Họ kinh hoàng khi chợt nghĩ không biết có đúng là ông Jurand đã cầu viện những thế lực ma quỷ ô uế để có thể trả thù hay chăng, và mọi người đều nín lặng. Nhưng quận chúa, cũng có mặt khi gã Thánh chiến kể chuyện, lại là người thương yêu Danusia hết lòng và mang trong tim nỗi đau không an ủi nổi sau khi nàng bị bắt cóc, đã hỏi lại gã hiệp sĩ Rotgier một câu hỏi bất ngờ.
- Hỡi hiệp sĩ, - bà hỏi, - ngươi nói rằng khi cứu được cô gái điên từ tay bọn cướp, các ngươi nghĩ rằng đó là con gái của ông Jurand và vì thế đã mời ông ấy đến thành Szczytno, có phải thế không?
- Đúng thế, tâu lệnh bà. - Rotgier đáp.
- Nhưng sao các ngươi lại có thể nghĩ như vậy, một khi hồi ở lâm cung chính mắt các ngươi đã nhìn thấy con gái của hiệp sĩ Jurand bên cạnh ta?
Hiệp sĩ Rotgier bối rối, bởi hắn không chuẩn bị để đối đáp với câu hỏi ấy. Quận công đứng phắt dậy, dán chặt đôi mắt nghiêm khắc vào mặt gã hiệp sĩ Thánh chiến, còn các hiệp sĩ Mikołaj xứ Dlugolas, Mrokota xứ Mocarzewo, Jaśko xứ Jagielnica cùng những trang hiệp sĩ Mazowsze khác nữa đều nhảy xổ đến gần gã thầy tu, thay nhau ném vào mặt hắn những câu hỏi dữ dội:
- Sao các ngươi lại có thể tưởng lầm? Nói mau, thằng Đức! Tại sao lại có thể thế được?
Gã đồng đạo Rotgier lấy lại bình tĩnh, đáp:
- Tu sĩ chúng tôi không bao giờ nhìn mặt phụ nữ. Ở lâm cung, tháp tùng quận chúa lệnh bà có nhiều thị nữ, nhưng ai trong số họ là Jurandówna thì chúng tôi không được biết.
- Danveld biết quá rõ. - Hiệp sĩ Mikołaj xứ Dlugolas lên tiếng. - Thậm chí hắn đã từng trò chuyện với cô gái trong cuộc săn.
- Đồng đạo Danveld giờ đang đứng trước mặt Chúa, - Rotgier nói, - và tôi chỉ có thể nói về ông ấy mỗi một điều này: hôm sau, trên quan tài của ông, người ta đã trông thấy những đóa hoa hồng tươi thắm, những đóa hoa mà không một bàn tay trần thế nào có thể đặt lên đó vào giữa mùa đông băng giá này.
Im lặng lại bao trùm.
- Sao các ngươi biết Jurandówna bị bắt cóc? - Quận công hỏi.
- Chính sự vô đạo và tính ngược ngạo của hành động đó đã khiến nó được đồn đại rất nhiều, cả ở đây lẫn bên chúng tôi. Sau khi biết tin đó chính chúng tôi đã hiến tiền cho một lễ misa cảm tạ ơn trên rằng người bị bắt cóc ngay tại lâm cung chỉ là một thị nữ thường tình, chứ không phải con đẻ của lệnh bà quận chúa.
- Ta vẫn thấy kỳ lạ, tại sao các ngươi có thể nghĩ một đứa điên dở là ái nữ của ông Jurand kia chứ?
Đồng đạo Rotgier đáp:
- Ngài Danveld bảo rằng: “Quỷ vương Sa-tăng thường trừng trị tôi tớ của hắn, rất có thể hắn đã thay hình đổi dạng của Jurandówna.”
- Là những kẻ vô học, bọn cướp đường thông thường đâu thể giả mạo tự dạng của ông Kaleb và làm giả dấu ấn của hiệp sĩ Jurand. Vậy kẻ nào có thể làm việc đó?
- Chắc là quỷ dữ!
Lại một lần nữa, mọi người không biết nói sao.
Gã Rotgier bắt đầu bạo dạn nhìn thẳng vào mắt quận công mà bảo:
- Quả thực các câu hỏi ấy như những lưỡi gươm cắm vào ngực tôi đây, bởi chúng chứa đựng những nỗi ngờ vực ghê gớm. Nhưng vốn hằng tin vào công lý của Chúa Trời và sức mạnh của chân lý, tôi xin hỏi quận công: phải chăng hiệp sĩ Jurand nghi ngờ chúng tôi làm việc đó, và nếu thế tại sao trước khi được chúng tôi mời đến thành Szczytno, ông ấy lại sục sạo khắp miền biên ải tìm bọn đạo tặc để chuộc lại con?
- A… phải! - Quận công thốt lên. - Dù có thể che giấu được điều gì trước mắt người trần, ngươi cũng chẳng thể che đậy được mắt Chúa. Đầu tiên, ông ấy đã nghi ngờ các ngươi, nhưng sau đó… sau đó ông ấy nghĩ khác.
- Thế là chớp sáng chân lý đã thắng bóng tối! - Rotgier thốt lên.
Rồi hắn đưa ánh mắt thắng thế dõi nhìn một lượt khắp phòng, nghĩ thầm rằng sự nhanh nhạy và trí thông minh trong đầu óc các hiệp sĩ Thánh chiến bao giờ cũng vẫn nhiều hơn trong trí óc dân Ba Lan, và dân tộc này bao giờ cũng sẽ chỉ là miếng mồi ngon nuôi dưỡng Giáo đoàn mà thôi, giống như loài ruồi bao giờ cũng chỉ là món mồi làm thức ăn cho loài nhện.
Vì thế trút bỏ dáng diệu khúm núm ban nãy, hắn táo tợn bước đến gần quận công, cất cao giọng nói ngạo ngược:
- Tâu quận công, xin ngài hãy đền bù lại những tổn thất, những sự xúc phạm, những giọt nước mắt và máu của chúng tôi! Gã hiệp sĩ của địa ngục ghê gớm đó là bề tôi của ngài, vậy thì nhân danh Chúa, người điều khiển quyền hành của mọi triều vua và quận công, nhân danh công lý và thánh giá, ngài hãy đền bù cho những thiệt hại và dòng máu mà chúng tôi đã phải đổ ra!
Quận công bàng hoàng nhìn hắn.
- Lạy Chúa lòng lành! - Ngài thốt lên. - Ngươi muốn gì? Nếu như trong cơn điên giận, Jurand làm đổ máu các ngươi, thì chẳng lẽ chính ta phải chịu trách nhiệm thay ông ấy sao?
- Hắn là kẻ bề tôi của ngài, - gã hiệp sĩ Thánh chiến nói, - đất đai của hắn nằm trong công quốc của ngài, làng quê và gia trang của hắn - nơi từng giam cầm những tôi tớ của Giáo đoàn - thuộc đất đai của ngài; vì vậy, chí ít cái tài sản đó cái mảnh đất đó, vùng thổ cư vô đạo đó cũng nên thuộc về Giáo đoàn, là vật sở hữu của Giáo đoàn mới phải. Tuy đó chẳng phải là món đền bù xứng đáng với dòng máu cao quý đã phải đổ ra, tuy miếng đất đó chẳng hề làm sống lại những người đã quá cố, nhưng ít nhất nó cũng có thể làm nguôi bớt phần nào cơn giận của Chúa Trời và xóa bớt đôi chút nỗi nhục sẽ giáng xuống cả công quốc nếu không chịu đền bù! Ồ, thưa ngài! Khắp mọi nơi, đâu đâu Giáo đoàn cũng có đất đai và thành trì do các vị quận công Ki-tô giáo giàu lòng ưu ái và mộ đạo dâng hiến, chỉ riêng ở mảnh đất này Giáo đoàn không hề có một mảy may. Vậy thì hãy để cho nỗi đau của chúng tôi - nỗi đau đang đòi Chúa Trời phải trả thù kia - được đền bù, để chúng tôi có thể nói rằng mảnh đất này vẫn là nơi cư ngụ của những người mang trong lòng niềm kính sợ Chúa.
Nghe những lời đó quận công càng kinh ngạc hơn, và sau khi im lặng hồi lâu, ngài mới nói:
- Trời ơi là trời!… Này, thế Giáo đoàn của các ngươi được ở đây là nhờ ân huệ của ai, nếu không phải là ân huệ của tổ tiên ta? Các ngươi còn thấy ít lắm sao những vùng đất, những miền quê và thành quách, xưa kia từng thuộc về chúng ta, thuộc về dân tộc ta, mà nay là của các ngươi? Con gái của hiệp sĩ Jurand vẫn đang còn sống, chưa ai báo cho chúng ta biết là nó đã chết, mà các ngươi đã muốn vơ sạch sành sanh điền sản của một đứa trẻ mồ côi, các ngươi muốn đền bù cho bản thân bằng miếng bánh của trẻ mồ côi hay sao?
- Thưa ngài, ngài đã thừa nhận chúng tôi bị xúc phạm, - Rotgier nói, - vậy thì xin ngài hãy đền bù cho chúng tôi theo lương tâm của một quận công và theo linh hồn chuộng công lý của ngài chỉ bảo.
Và một phen nữa hắn khấp khởi trong lòng, nghĩ thầm: “Giờ thì chúng nó không những không lên án bọn ta, mà sẽ phải bàn tính làm sao rửa sạch tội và thoát khỏi chuyện rắc rối phiền nhiễu này. Sẽ không còn kẻ nào chỉ trích bọn ta, vinh dự của chúng ta sẽ được giữ trắng tinh như tấm áo choàng của Giáo đoàn, không chút hoen ố!”
Đúng lúc đó, giọng của vị hiệp sĩ cao tuổi xứ Dlugolas chợt vang lên:
- Người đời vẫn đồn đại về lòng tham lam của các ngươi, và hẳn Chúa biết rõ điều đó bởi ngay trong chuyện này ngươi cũng chỉ lo đến lợi lộc hơn là lo cho danh giá của Giáo đoàn.
- Đúng thế! - Các hiệp sĩ Mazowsze đồng thanh nói.
Gã hiệp sĩ Thánh chiến bước lên mấy bước, kiêu hãnh ngẩng cao đầu, nhìn mọi người bằng ánh mắt kênh kiệu, rồi lớn tiếng:
- Ta không đến đây với tư cách sứ giả, ta chỉ là một nhân chứng của việc này và là một hiệp sĩ của Giáo đoàn, sẵn sàng bảo vệ danh dự của Giáo đoàn đến hơi thở cuối cùng bằng chính máu của mình!… Vậy, hỡi kẻ nào dám nói ngược lại những điều Jurand đã nói, dám nghi ngờ Giáo đoàn dính líu vào việc bắt cóc đứa con gái của y - hãy nhặt vật thách đấu hiệp sĩ này lên và ra ứng chiến cùng ta trước sự phán xét của Chúa!
Nói đoạn, hắn ném chiếc găng hiệp sĩ của mình ra trước mặt; chiếc găng rơi mạnh xuống sàn, trong khi các hiệp sĩ đứng sững trong một bầu không khí im lặng nặng nề, bởi dẫu không ít người trong bọn họ sẽ rất lấy làm sung sướng được vung gươm chém đầu gã Thánh chiến kia, nhưng họ vẫn e sợ sự phán xử của Chúa. Không ai không biết rằng chính ông Jurand đã tuyên bố không phải bọn hiệp sĩ của Giáo đoàn bắt cóc con ông, vì vậy trong thâm tâm ai cũng nghĩ rằng lẽ phải và chiến thắng sẽ ở về phía Rotgier.
Điều đó càng khiến hắn trở nến táo tợn hơn, khuỳnh hai tay chống nạnh, hắn hỏi lần nữa:
- Liệu có kẻ nào dám cả gan nhặt chiếc găng không?
Đúng lúc đó, một hiệp sĩ mà không ai biết đã có mặt từ bao giờ, đã đứng bên cửa ra vào lắng nghe câu chuyện hồi lâu, chợt bước ra giữa phòng, nhặt chiếc găng tay lên và tuyên bố:
- Có ta đây!
Nói đoạn, chàng ném thẳng chiếc găng của chàng vào mặt Rotgier, rồi tuyên bố bằng giọng vang động như sấm khắp phòng, giữa bầu không khí im lặng của mọi người:
- Trước Đức Chúa, trước mặt quận công tôn kính và tất thảy giới hiệp sĩ của đất nước này, ta nói cho ngươi hay, hỡi gã Thánh chiến kia, rằng ngươi đã sủa như một con chó chống lại công lý và sự thật, ta thách ngươi đánh nhau trên đấu trường, trên bộ hay trên ngựa, bằng giáo hay bằng rìu, đoản đao hay trường kiếm, đến hơi thở cuối cùng, đến chết chứ không chịu sống làm nô lệ!
Trong phòng nghe rõ cả tiếng một con ruồi bay qua. Mọi ánh mắt đều đổ dồn vào gã Rotgier và chàng hiệp sĩ vừa thách thức - người mà không ai biết là ai vì chàng đang đội mũ sắt, tuy không có tấm che mặt nhưng lại có tấm che thái dương hình tròn dài xuống phía dưới tai, che mất hoàn toàn phần trên và rủ bóng xuống phần dưới khuôn mặt. Gã hiệp sĩ Thánh chiến cũng ngạc nhiên không kém. Vẻ bối rối, sự nhợt nhạt và một cơn điên giận lướt nhanh qua trên mặt hắn như tia chớp nhằng lên bầu trời đêm. Lấy tay bóp chặt chiếc găng da hươu vừa va vào mặt hắn rồi móc vào chiếc gai trên tấm giáp che vai, hắn hỏi:
- Ngươi là ai, hỡi kẻ vừa kêu cầu công lý của Chúa Trời?
Vị hiệp sĩ ấy liền tháo đây dưới cằm, bỏ mũ sắt ra, để lộ một mái đầu trẻ trai tóc sáng màu, đáp:
- Zbyszko trang Bogdaniec, chồng của con gái hiệp sĩ Jurand.
Mọi người thảy đều kinh ngạc, cả Rotgier cũng thế, bởi không một ai ngoài ông bà quận công, cha Wyszoniek và hiệp sĩ de Lorche biết đến đám cưới của Danusia; còn bọn hiệp sĩ Thánh chiến thì chắc mẩm rằng ngoài cha đẻ ra, Jurandówna không còn một ai thân thích để bảo vệ nàng. Đúng lúc ấy, hiệp sĩ de Lorche bước ra và nói:
- Tôi xin làm chứng cho sự thật những lời hiệp sĩ vừa tuyên bố, thề trên danh dự hiệp sĩ của tôi; còn nếu kẻ nào dám nghi ngờ, thì đây là găng tay bảo chứng của tôi!
Vốn là kẻ không hề biết sợ, lại đang sôi sục cơn cuồng nộ, Rotgier những muốn nhặt chiếc găng tay mà chàng hiệp sĩ vừa ném ra, nhưng hắn chợt nhớ rằng người vừa quăng găng ra là một trang hiệp sĩ hùng mạnh, thêm nữa lại là họ hàng của bá tước Geldria, nên hắn đành kìm lòng. Nhất là khi chính quận công cũng đứng lên, nhíu mày tuyên bố:
- Không được phép nhặt chiếc găng tay này lên, bởi chính ta cũng tuyên bố rằng chàng hiệp sĩ kia nói đúng sự thực.
Nghe thấy thế, gã hiệp sĩ Thánh chiến cúi mình xuống, rồi bảo Zbyszko:
- Nếu ngươi muốn, thì sẽ đấu trên bộ, trong trường đấu kín, bằng rìu.
- Chính ta đã thách ngươi trước kia mà! - Zbyszko nói.
- Lạy Chúa, xin hãy cho công lý được chiến thắng! - Các hiệp sĩ Mazowsze đồng thanh thốt lên.