Chương 73
Lẽ ra họ ở lại Kraków không lâu, thậm chí còn rút ngắn hơn, nếu không vì Jaśko muốn thỏa chí thăm thú thành đô và nhìn ngắm mọi người, bởi với cậu mọi thứ như một giấc mơ quá đẹp. Tuy nhiên, lão hiệp sĩ đang vội về nhà thu hoạch mùa màng, nên sự cầu xin của chàng trai không mấy kết quả, và thế là, đến lễ Đức Mẹ Lên Trời [249] , họ đã trở về - một người về Bogdaniec, người kia về Zgorzelice với chị.
Và kể từ đó, cuộc sống của họ khá đơn điệu, đầy ắp việc đồng áng và những chuyện thôn quê thường nhật. Mùa màng bội thu ở vùng đất thấp Zgorzelice, đặc biệt là trang Moczydoły của Jagienka, nhưng ở trang Bogdaniec, do năm ấy hạn hán, nên mùa màng rất kém và không mất mấy công để thu hoạch. Nói chung, ở đó rất ít đất màu mỡ, vì ruộng nương nằm kề với rừng, chủ nhân lại đi vắng lâu ngày, thiếu người làm nên ngay cả khoảnh đất tốt đã được cha tu viện trưởng cho người cày hộ xong cũng bị bỏ hoang. Vị hiệp sĩ già tuy rất nhạy với mọi khoản mất mát, nhưng không quá coi trọng việc đó bởi ông biết khi đã có tiền sẽ dễ dàng đưa mọi chuyện vào trật tự và nền nếp, chỉ cần biết mình vất vả làm việc là vì ai. Nhưng chính nỗi băn khoăn ấy đã đầu độc công việc và những ngày tháng của ông. Ông làm việc luôn tay, thức dậy từ mờ sáng, theo đàn gia súc, coi sóc công việc ngoài đồng và trong rừng, thậm chí ngắm sẵn chỗ và chuẩn bị vật liệu để xây tòa thành nhỏ, nhưng sau cả một ngày mệt nhoài, khi mặt trời đã lặn trong ráng chiều vàng óng và đỏ rực, nhiều lúc ông thấy lòng buồn nặng nề khôn tả, đầy lo lắng mà trước đây ông chưa từng trải qua. “Mình gắng sức vất vả ở đây,” ông thầm nhủ, “mà biết đâu nơi kia, thằng bé đang nằm trên đồng với một ngọn giáo xiên vào ngực và lũ sói đang nhe nanh.” Tim ông thắt lại bởi ý nghĩ đó, bởi một tình yêu và nỗi đau lớn như nhau. Vào những lúc đó, ông thường lắng tai xem có tiếng vó ngựa báo hiệu Jagienka sắp đến hay không, vì khi có cô, ông thường vờ vui vẻ, để động viên cô và động viên chính mình đôi chút trong lúc tâm hồn đang đau khổ.
Cô gái đến hằng ngày, thường là vào buổi chiều, với một cây nỏ mắc ở yên ngựa và một ngọn lao, để phòng tai nạn trên đường về. Khó có thể bất ngờ gặp Zbyszko, vì ông Maćko bảo phải một năm hay năm rưỡi nữa chàng mới về, nhưng chắc hẳn niềm hy vọng ấy vẫn le lói ấp ủ trong cô, vì không còn như ngày xưa với áo sơ mi xoàng xĩnh buộc dải ruy băng hay áo khoác da cừu xù lông, với những chiếc lá vương tron mái tóc rối, giờ cô đến đây với bím tóc được bện thật đẹp và bộ ngực căng tròn trong lớp vải Sieradz đầy màu sắc. Ông Maćko bước ra đón cô, câu đầu tiên cô hỏi luôn là: “Thế sao ạ?” - còn câu trả lời đầu tiên của ông: “Chưa có gì!” - rồi ông đưa cô vào nhà, họ ngồi bên bếp lửa trò chuyện về Zbyszko, về Litva, về bọn Thánh chiến và về cuộc chiến - lần nào cũng chỉ là những chuyện đó, nhưng không thấy chán và chưa bao giờ là đủ.
Và cứ thế suốt nhiều tháng trời ròng rã. Thỉnh thoảng ông cũng có tới Zgorzelice, nhưng thường là cô gái đến Bogdaniec. Đôi lần, ông Maćko cũng hộ tống cô gái về đến tận nhà, khi trong vùng có chuyện xáo trộn, hoặc trong mùa gấu giao phối, khi những con đực già cáu kỉnh đi tìm con cái, dễ tấn công người. Có vũ trang, ông không sợ bất kỳ loài vật hoang dã nào, ông nguy hiểm với chúng hơn chúng đối với ông. Những lần như vậy, họ cưỡi ngựa cạnh nhau, từ rừng sâu thi thoảng vẳng ra những thanh âm đầy hăm dọa, nhưng họ quên đi mọi chuyện, chỉ nói về Zbyszko: Chàng đang ở đâu? Làm gì? Đã đánh giết được nhiều hiệp sĩ Thánh chiến như đã hứa với Danusia và người mẹ quá cố của nàng chưa? Và bao lâu nữa chàng sẽ về? Jagienka hỏi ông Maćko những câu mà cô đã hỏi cả trăm lần, còn ông vẫn trả lời đầy nghiêm cẩn và thận trọng như thể lần đầu tiên được hỏi.
- Bác bảo là, - cô hỏi, - với hiệp sĩ, đánh nhau ngoài cánh đồng dễ hơn lúc công thành ạ?
- Cháu nhớ chuyện xảy ra với gã Wilk không? Không áo giáp nào đỡ được súc gỗ lao từ trên thành xuống, còn ngoài cánh đồng, một hiệp sĩ tinh nhuệ có thể địch nổi cả mười người.
- Thế còn anh Zbyszko? Áo giáp của anh ấy có tốt không?
- Nó có vài bộ giáp tốt, bộ quý nhất đoạt được từ tay hiệp sĩ người Fryzja, được rèn ở thành Mediolan. Một năm trước Zbyszko mặc còn hơi rộng, nhưng giờ thì vừa như in.
- Không có vũ khí nào chọc thủng được nó chứ bác?
- Những gì do bàn tay con người làm ra, thì bàn tay con người cũng biết chế ngự. Với áo giáp Mediolan thì đã có kiếm Mediolan hoặc tên nỏ của người Anh.
- Tên nỏ người Anh á? - Jagienka lo lắng hỏi.
- Thế bác chưa kể với cháu à? Trên đời không có cung thủ nào giỏi bằng họ… họa chăng chỉ có thổ dân vùng Mazury, nhưng họ lại không có cung tốt. Cây nỏ Anh có thể xuyên thủng bộ giáp tốt nhất cách xa một trăm bước. Bác đã thấy ở thành Wilno. Không ai trong họ bắn trượt, có tay thiện xạ bắn hạ được cả diều hâu đang bay.
- Bọn ngoại giáo! Vậy làm thế nào đối phó được chúng?
- Không có cách nào khác, chỉ xông tới thật sát! Bọn chúng múa đao bản rộng cán dài cũng giỏi, nhưng ở gần thì ta vẫn hạ thủ tốt.
- Chúa đã che chở cho bác, bây giờ Người cũng sẽ che chở anh Zbyszko.
- Bác cũng thường cầu nguyện: “Lạy Chúa, Ngài đã tạo ra chúng con, cho chúng con ở Bogdaniec, xin đừng để chúng con phải chết!” Ha! Đó là việc của Chúa. Chăm lo cả thế giới, không quên điều gì quả là chuyện không nhỏ, nhưng chúng ta luôn được Người nhớ đến bởi không bao giờ dè sẻn với nhà thờ thiêng, và hai nữa, Chúa là thánh nhân chứ đâu phải người thường.
Họ thường trò chuyện với nhau như thế, để cổ vũ nhau và mang lại cho nhau niềm hy vọng. Trong khi đó, những ngày, rồi những tuần và nhiều tháng trôi qua. Vào tiết thu, ông Maćko có chuyện với lão Wilk ở trang Brzozowa. Cuộc tranh chấp địa giới giữa nhà Wilk và cha tu viện trưởng về vùng đất lâm phần mới khai khẩn kéo dài đã lâu, vì giữ cam kết với Bogdaniec, cha tu viện trưởng đã độc chiếm nó. Hồi trước, cha đã thách hai cha con nhà Wilk ra cánh đồng, đấu với nhau bằng giáo dài hoặc trường kiếm, nhưng họ không muốn đấu với giáo sĩ, mà ra tòa thì cũng chẳng thể làm gì được. Bây giờ, lão Wilk trở mặt đòi lại vùng đất ấy. Ông Maćko, vốn tham đất hơn mọi thứ trên đời, nên thoạt đầu, theo bản tính, lại phấn khích nghĩ đến mùa màng sắp bội thu trên vùng đất mới, nên ông không muốn nhượng bô. Chắc họ sẽ ra tòa, nếu không tình cờ gặp mặt nhau tại nhà linh mục giáo xứ Krześnia. Ở đó, sau một hồi tranh cãi dữ dội, khi nghe lão Wilk bật ra: “Trước khi để nhân gian phân xử, tôi cầu Chúa sẽ báo thù dòng họ nhà ông vì tai họa của tôi”, đang hăng máu tự nhiên ông Maćko mềm đi, tái mặt, im lặng hồi lâu, rồi nói với người láng giềng đang gây gổ:
- Ông biết đấy, khởi đầu không phải tôi, mà là cha tu viện trưởng. Chúa biết rõ ai đúng ai sai, nhưng thay vì nguyền rủa Zbyszko, thì ông hãy nhận lấy vùng đất ấy đi, cầu Chúa ban sức lực và may mắn cho Zbyszko, một khi tôi đã chân thành trao trả đất cho ông.
Rồi ông chìa tay ra, còn lão Wilk, vốn đã biết nhau từ thời trước, vô cùng kinh ngạc, vì không ngờ trong trái tim dường như rắn chắc này lại chứa đựng một tình thương sâu nặng dành cho đứa cháu trai và lo lắng cho số phận của nó đến thế.
Suốt một hồi lâu ông ta không nói lời nào, cho đến lúc cha linh mục làm dấu thánh cho họ, vui mừng vì câu chuyện lại xoay theo chiều ấy, ông ta mới nói:
- Nếu thế thì lại khác! Tôi đâu có nghĩ đến lợi lộc, tôi già rồi, của cải cũng chẳng biết để lại cho ai, mà chỉ cần lẽ phải. Ai đối tốt với tôi, tôi nhường cả của mình cho nữa. Cầu Chúa phù hộ cho cháu trai của ông, để khi tuổi già ông không phải khóc cho nó, như tôi đã khóc cho đứa con trai duy nhất của tôi…
Họ ôm nhau, rồi còn tranh luận hồi lâu, không ai chịu nhận mảnh đất. Rốt cuộc, ông Maćko đành chịu nhận, vì lão Wilk còn mỗi một thân một mình trên đời, và quả thực ông ta không còn biết để tài sản lại cho ai.
Sau đó ông mời lão Wilk về trang Bogdaniec, thết đãi ông ta vô số đồ ăn thức uống, vì lòng ông quá vui mừng. Ông hy vọng lúa mạch sẽ bội thu trên vùng đất mới, còn Chúa sẽ thôi trừng phạt Zbyszko.
“Chỉ cần nó trở về, sẽ không thiếu đất đai và sản nghiệp!” Ông thầm nghĩ.
Jagienka cũng rất vui mừng với việc thỏa thuận.
- Bây giờ, khi Đức Chúa Giêsu lòng lành đã chứng tỏ rằng Người muốn hòa hiếu hơn tranh chấp, anh Zbyszko nhất định sẽ may mắn trở về với bác! - Cô nói khi nghe mọi chuyện.
Mặt ông Maćko bừng sáng như thể được ánh nắng chiếu rọi.
- Bác cũng tin thế! - Ông nói. - Lạy Đức Chúa! Người là đấng toàn năng, nhưng quyền năng của thiên đường cũng có cách thức, phải có trí tuệ để hiểu…
- Bác thì chưa bao giờ thiếu tinh khôn. - Cô gái nói, mắt ngước lên trời.
Và sau một lúc, như thể đang suy ngẫm gì đó cô lại nói tiếp:
- Mà bác cũng yêu anh Zbyszko! Bác yêu lắm! Hey!
- Ai không yêu nó! - Lão hiệp sĩ nói. - Thế còn cháu? Cháu ghét nó ư?
Jagienka không đáp; đang ngồi trên băng ghế cạnh ông Maćko, cô xích lại gần hơn, và ngoảnh mặt đi, cô thúc nhẹ khuỷu tay vào người ông:
- Thôi nào, bác! Cháu xin bác đấy!