← Quay lại trang sách

CHÚ THÍCH TÊN RIÊNG

Aleksandra Olgierdówna/ Ziemowitowa (khoảng 1370 - 1434) - quận chúa, con gái cựu đại quận công Litva Olgierd, em ruột vua Władysław II Jagiełło, từ năm 1387 là vợ quận công Mazowsze Ziemowit IV (1357 - 1426, lên ngôi 1370).

Andegaweński (tức Anjou) - dòng họ vua chúa đạt đỉnh cao quyền lực hồi thế kỷ XIV. Các vua chúa thuộc dòng họ này trị vì ở miền nam Italia, Hungary, Croatia. Ở Ba Lan, sau khi Kazimierz Vĩ Đại qua đời, vua Ludwik kế vị cũng là người của dòng họ này. Hoàng hậu Jadwiga là con gái của vua Ludwik I (hay Ludwik Hungary).

Anna Cylejska (khoảng 1380 - 1416) - cháu gái Kazimierz Vĩ Đại, vợ kế của vua Władysław Jagiełło.

Anna Danuta (1360 - 1448) - quận chúa, con gái cựu đại quận công Kiejstut, em gái đại quận công Witold, em họ vua Jagiełło, vợ quận công Janusz I Mazowiecki.

Attyla (mất năm 453) - vua Hung Nô (từ 434), chúa tể một đế quốc rộng lớn ở châu Âu, từng kéo dài từ Biển Đen đến sông Rhine, trung tâm là vùng Panonia (tức Hungary ngày nay).

Benedykt xứ Nursja (480 - 543) - người lập đan viện đầu tiên tại Monte Casino vào năm 529, sáng lập dòng tu Benedyktyn.

Besarabia - vùng đất lịch sử nằm giữa các sông Dniestr và Prut, ngày nay là vùng biên giới giữa Moldawia và Ukraina.

Brygida (1303 - 1373)- thánh nữ, nhà tiên tri, nguyên là quận chúa Thụy Điển, sáng lập giáo đoàn nữ mang tên bà, có ảnh hưởng lớn đến việc vận động Giáo hoàng Avignon về Roma. Bà đã báo trước cuộc chiến tranh Ba Lan - Thánh chiến.

Burgundia - vùng ở miền Trung nước Pháp.

Chrzan - kẻ đã hạ sát quận công Przemysław Oświęcimski, bị hành hình công khai.

Dobrzyn - vùng đất ở phía đông Toruń, bị Giáo đoàn Thánh chiến chiếm đóng theo hiệp ước phi pháp với quận công Władysław Opolczyk.

Filip Uy Dũng (1342 - 1404) - hoàng tử con trai vua Pháp, quận công Burgundia, nổi tiếng là người tài trí thông minh.

Handria - vùng đất dọc Biển Bắc, nằm trên lãnh thổ của Bỉ, Pháp và Hà Lan ngày nay.

Fryzja - miền đất giáp Biển Bắc, nay là vùng biên giới giữa Đức, Đan Mạch và Hà Lan.

Geldria - tỉnh của Hà Lan, nằm giữa các sông IJssel, Moza và Ren.

Giáo đoàn Thánh chiến (tên La-tinh chính thức: Ordo domus Sanctae Maria Theutonicorum Hierosolymitanorum) - giáo đoàn quân sự gốc Đức, được thành lập vào cuối thế kỷ XII ở Acre, vùng Levant với mục đích trợ giúp các Ki-tô hữu hành hương tới Đất Thánh và thiết lập các bệnh xá. Thời Trung cổ, đây là Giáo đoàn Thập tự chinh, gồm những hiệp sĩ mặc áo choàng trắng với chữ thập đen, được gọi là các Hiệp sĩ Thánh chiến. Sau khi lực lượng Ki-tô giáo bị đánh bại ở Trung Đông, Giáo đoàn dời về Transylvania năm 1211 để hợp binh với quân Hungary chống lại dân Cuman, sau đó bị trục xuất năm 1225 do được cho là đã cố tình đặt mình dưới quyền của Giáo hoàng thay vì của Hungary. Sau khi chiếu thư Rimini được hoàng đế Friedrich II ban hành, vị hoàng đế Thánh chế La Mã này cùng với đại thống lĩnh Hermann von Salza và quận công Konrad của Mazowsze phát động cuộc xâm lược vào năm 1226 để buộc người dân Cựu Phổ vùng Baltic phải theo đạo Ki-tô. Giáo đoàn bị tố cáo là vi phạm luật lệ Ba Lan vì cố tình tạo ra một giáo binh đoàn độc lập. Giáo đoàn đã có một nền kinh tế đô thị mạnh, thuê nhiều thương nhân từ khắp châu Âu, và trở thành thế lực hải quân mạnh nhất ở biển Baltic lúc bấy giờ. Sau khi đứng vững ở Phổ, Giáo đoàn bắt đầu chống lại các nước láng giềng theo đạo Ki-tô: vương quốc Ba Lan, đại công quốc Litva và cộng hòa Novgorod. Vào năm 1410, liên quân Ba Lan - Litva đã đánh bại Giáo đoàn trong trận đại chiến tại Grunwald. Giáo đoàn dần dần suy yếu cho đến năm 1525, khi đại thống lĩnh Albert xứ Brandenburg thoái vị và cải đạo. Các đại thống lĩnh khác tiếp tục nắm chủ quyền trên những vùng đất quan trọng của Giáo đoàn ở Đức và nhiều nơi khác, cho đến năm 1809, bị hoàng đế Napoléon Bonaparte ra lệnh giải tán. Giáo đoàn do vương triều Habsburg hậu thuẫn vẫn tồn tại trong Chiến tranh Thế giới I. Ngày nay, Giáo đoàn là một dòng tu Công giáo thuần túy, trụ sở đặt tại thành Viên, Áo. Hoạt động chủ yếu với những mục tiêu từ thiện ở Trung Âu.

Giáo đoàn Đền thánh - giáo đoàn hiệp sĩ, tên đầy đủ: Giáo đoàn Hiệp sĩ Bần hàn của Chúa Ki-tô và Đền thờ Solomon, được thành lập khoảng năm 1120 tại Jerusalem, bị sụp đổ chủ yếu do lời buộc tội của vua Philip IV của Pháp (1268 - 1314), liên quan đến tội phạm thánh, dị giáo, phù thủy và âm mưu với dân ngoại đạo. Chi nhánh của giáo đoàn tại Pháp đã bị giải thể vào năm 1311, nhiều thành viên, bao gồm cả đại thống lĩnh Jacob de Mollay và năm mươi bốn chức sắc tối cao, đã bị thiêu sống. Giáo đoàn đã bị Giáo hoàng cấm chỉ vào năm 1317.

Giáo đoàn Thánh kiếm - giáo đoàn hiệp sĩ Đức được thành lập tại Riga bởi đức cha Albert von Buxhӧvden năm 1202. Năm 1237, giáo đoàn này nhập với Giáo đoàn Thánh chiến, song vẫn duy trì một sự tách biệt nhất định về hành chính.

Gierdawy - nay là thành phố thuộc tỉnh Kaliningrad, cách biên giới Ba Lan 3 km.

Gilgenburg - nay là thành phố Dąbrowno của Ba Lan.

Jadwiga Andegaweńska , thường được gọi là nữ hoàng Jadwiga (sinh trong khoảng giữa ngày 3/10/1373 đến 18/2/1374 ở Buda, mất ngày 17/7/1399 tại Kraków) - con gái của vua Ludwik Hungary; đăng quang nữ hoàng Ba Lan năm 1384. Năm 1386, bà lấy đại quận công Litva là Władysław Jagiełło. Năm 1387, bà sáp nhập vùng đất của công quốc Haliski vào vương quốc Ba Lan. Bà có uy tín rất cao trong dân chúng. Một phần tài sản riêng bà đã dành để mở mang Viện đại học Kraków. Bà được Đức Giáo hoàng Jan Paul II phong là nữ thánh tông đồ của Litva, nữ thánh của Giáo hội Công giáo và là người bảo trợ của Ba Lan ngày 8/6/1997, trong buổi lễ được cử hành tại Kraków trước sự chứng kiến của hơn một triệu người.

Jakub xứ Koniecpol (mất năm 1430) - thống đốc Sieradz, tham gia hội đồng hoàng gia của vua Władysław Jagiełło.

Jan Farurej xứ Garbów (mất năm 1453) - hiệp sĩ mang gia huy Sulima, con trai viên trấn thành Sieradz Mikołaj, em trai hiệp sĩ Zawisza Đen xứ Garbów. Ông được nhà sử học Jan Długosz coi là một trong những hiệp sĩ can trường nhất chiến đấu trong đại chiến Grunwald.

Jan II Raciborski , biệt danh Sắt Thép (khoảng 1365 - 1424) - quận công Racibórz từ năm 1380.

Jan Luksemburski (1296 - 1346) - vua Séc từ 1310, bị chết trong trận Crécy.

Jan xứ Tarnów (1367 - 1433) - trấn thành Kraków từ năm 1409.

Janusz I Mazowiecki (1340 - 1429) - quận công dòng họ Piast, cai quản một phần Mazowsze, nhiệt thành ủng hộ kế hoạch của cha (Ziemowit III, mất năm 1381) nhằm cải đạo Ki-tô cho Litva. Dưới thời trị vì của ông, Warszawa bắt đầu có ý nghĩa kinh tế và chính trị trong đời sống quốc gia. Cuộc hôn nhân giữa ông với Anna Danuta đã thắt chặt quan hệ hữu hảo Ba Lan - Litva.

Joannici (hay Hiệp sĩ Malta) - một giáo đoàn hiệp sĩ bắt nguồn từ các đồng đạo có liên quan đến bệnh viện Thánh Jan Người Rửa Tội ở Amalfi (Ý), thành lập không chính thức từ thế kỷ XII, hoạt động đặc biệt ở khu vực Địa Trung Hải, nổi tiếng với đội tàu tốt. Lãnh thổ tại Malta bị mất trong cuộc chiến tranh Napoléon.

Karol Młot (686 - 741) - tiết độ sứ, trên thực tế là người cai trị dân Frank. Ông đã chiến thắng dân Saracen trong trận Poitiers (732), ngăn cản sự bành trướng của họ đến vùng Galia.

Kazimierz III Vĩ Đại (1310 - 1370) - con của vua Władysław I Lokietek, nhà vua cuối cùng của dòng họ Piast lên ngôi năm 1333, có nhiều công với đất nước Ba Lan.

Konrad von Jungingen (khoảng 1355 - 1407) - đại thống lĩnh Giáo đoàn Thánh chiến những năm 1393 - 1407, gia nhập Giáo đoàn cùng với em trai Ulryk khoảng năm 1380, lúc đầu là chỉ huy thành Ostróda, được bầu làm đại thống lĩnh ngày 30/11/1393 sau cái chết của Konrad von Wallenrode. Ủng hộ việc tiếp tục chính sách của những người tiền nhiệm, nhưng khác với họ, ông không chọn con đường chiến tranh mà là ngoại giao. Ông đã cố gắng tranh thủ các đại quận công Litva như Witold và Skirgiełło để làm suy yếu liên minh Ba Lan - Litva dưới quyền của vua Jagiełło. Nhờ chính sách khéo léo của mình, ông đã chiếm được Żmudź. Năm 1402, tận dụng các vấn đề tài chính của Zygmunt Luksemburski, ông đã mua được Nowa Marchia, tuy nhiên, giới hiệp sĩ địa phương đã vũ trang chống lại quyền lực độc tài của Giáo đoàn, trong khi ở Żmudź dân chúng đã nổi dậy, được Litva ủng hộ. Ở vùng Baltic, ông buộc phải cạnh tranh với liên minh Kalmar mới thành lập. Xung đột lợi ích, gây ra do các hiệp sĩ Thánh chiến bắt giữ Gotland năm 1398, đã gây căng thẳng với Đan Mạch, Thụy Điển và Na Uy. Tình huống mối đe dọa chiến tranh tứ phía buộc Konrad von Jungingen phải tìm kiếm thỏa thuận với một trong những đối thủ của mình, trước hết là với vua Władysław II. Từ năm 1401, ông đã cố gắng tìm mọi biện pháp giữ hòa hiếu với liên minh Ba Lan - Litva. Qua đời ngày 30/3/1407 tại Malborg sau thời gian dài bị bệnh, ông được chôn trong hầm mộ của các đại thống lĩnh dưới nhà nguyện Thánh Anna.

Kuno (Konrad) von Lichtenstein (1360- 1410) - tổng lãnh binh của Giáo đoàn Thánh chiến từ năm 1404, xuất thân từ dòng họ Lichtenstein ở Frank. Ngày ông gia nhập Giáo đoàn Thánh chiến vẫn chưa được xác định, nhưng chắc là trước năm 1389, vì Lichtenstein xuất hiện trong các tư liệu của Giáo đoàn những năm 1389 - 1392. Những năm 1392 - 1396, ông là lãnh binh của Ragneta, sau đó là Gniew. Năm 1404, ông được đại thống lĩnh Konrad von Jungingen bổ nhiệm làm tổng lãnh binh. Trong trận Grunwald, ông chỉ huy cánh phải của quân đội Thánh chiến, có lẽ ông đã chết khi chiến đấu trong chiến đoàn của bộ tư lệnh. Theo nhà sử học Jan Dlugosz, ông được coi là một trong những kiếm sĩ giỏi nhất châu Âu thời bấy giờ.

Ludwik I hay Ludwik Hungary (1326 - 1382) - vua Hungary (từ 1342) và vua Ba Lan (từ 1370), con hoàng đế Carl Robert (1288 - 1342), thuộc dòng họ Andegaweński nước Pháp và hoàng hậu Ekbieta Lokietkówna (1305 - 1380), thuộc đồng họ Piast Ba Lan. Ông có công phát triển kinh tế và văn hóa Hungary.

Marcin (Marcisz) xứ Wrocimowice (mất năm 1442) - hiệp sĩ Ba Lan gốc Đức.

Markwart von Sakbach - lãnh binh quân Thánh chiến, bị đại quận công Witold chặt đầu sau trận Grunwald. Trong thực tế, ông đã từng là cố vấn lâu năm và là chiến hữu của Witold trong trận chiến Worskla.

Nowa Marchia (tên Đức: Neumark) – tỉnh duyên hải phía tây của Marchia Brandenbursk, thuộc quyền cai trị của quân Thánh chiến trong những năm 1402 - 1454.

Piotr Wysz (khoảng 1354 - 1414) - nhà tu hành thông thái và chính trực, người đã cùng với tướng công Jan xứ Tyniec thực hiện di chúc của hoàng hậu Jadwiga; về sau ông bị Wojciech Jastrzębiec hãm hại.

Połock - thành cổ của người Slav, nay là thành phố ở Belarus.

Powała (Mikołaj) xứ Taczew (khoảng 1380 - khoảng 1415) - hiệp sĩ và nhà ngoại giao, quý tộc Ba Lan, được bổ nhiệm vào hội đồng quân sự trước trận Grunwald. Ông là một trong những hiệp sĩ Ba Lan nổi tiếng nhất thời Trung cổ, với sức mạnh phi thường và kiến thức quân sự xuất sắc. Ông tham gia trận chiến Grunwald và Koronow. Ông bị thương trong trận chiến Koronow. Bằng các chiến lợi phẩm thu được, ông đã mở rộng điền trang gia đình ở Taczew.

Przemyślaw I Noszak (khoảng 1336 - 1410) - quận công Cieszyó, Bytom và Siewiersk.

Przemyślaw (Przemko) Oáwięcimski (khoảng 1365 - 1406) - quận công Cieszyn, bị giết chết trong một cuộc hành trình.

Ragneta - quân Thánh chiến đã xây thành tại đó năm 1289; ngày nay là Nieman thuộc tỉnh Kaliningrad (Nga).

Saladyn , tên đầy đủ là Dzalal ad-Din (1380 - 1412) - chư hầu của đại quận công Witold, tham gia trận Grunwald, cuối đời trở thành quốc vương của vương quốc Trại Vàng.

Sędziwój xứ Ostroróg (1375 - 1441) - thống đốc Poznań trong những năm 1406 - 1441, tham gia bộ tham mưu của vua Jagiełło trong thời kỳ chiến tranh Ba Lan - Thánh chiến.

Skirgiełło Olgierdowicz (khoảng 1354/1355, mất trước ngày 24/12/1394 hoặc 23/12/1396 tại Kiev) - đại quận công của đại công quốc Litva trong những năm 1386 - 1392/1394, quận công Kiev 1392 - 1394, con trai của cựu đại quận công Litva Olgierd từ cuộc hôn nhân thứ hai với Julianna, em trai của đức vua Władysław Jagiełło.

Spytko xứ Melsztyn (1364 - 1399) - hiệp sĩ Ba Lan, là quý tộc lớn, hùng mạnh, thống lĩnh Kraków và Podole, được Władysław Jagiełło nhận làm chư hầu. Ông hy sinh trong trận đánh quân Tatar ở Worskla.

Swabia - vùng đất ở phía nam nước Đức.

Świdrygiełło (1370 - 1452) - em trai út vua Jagiełło, đại quận công Litva những năm 1430 - 1432, gần như cả đời chống lại anh và đại quận công Witold vì lợi ích cá nhân.

Tannenberg - làng ở gần Grunwald, nay là Stębark, Ba Lan.

Tymur Kutluk - quốc vương của vương quốc Trại Vàng (1395 - 1399), được Tymur Thọt đưa lên ngôi sau khi đánh đuổi Tochtamysz.

Tymur Thọt hay Tamerlan (1336 - 1405) - vị chúa tể hùng mạnh (lên ngôi năm 1370) của đế chế Mông Cổ - Tatar rất rộng lớn (bao gồm Mông Cổ, Ba Tư, Trung Á, Đông Ấn, Thổ…), khét tiếng tàn bạo, đã từng tàn phá những thành đô cổ kính nhất như Damaszk, Bagdad…

Ulryk von Jungingen (1360 - 15/7/1410) - em trai của đại thống lĩnh Konrad von Jungingen, sau khi anh chết được bầu làm đại thống lĩnh Giáo đoàn Thánh chiến trong thời gian 1407 - 1410, tử trận trong trận Grunwald. Vua Władysław Jagiełło đã cho mang thi hài của ông về kinh đô của Giáo đoàn và được an táng trong hầm mộ tại nhà nguyện Thánh Anna ở lâu đài Thánh chiến tại Malborg.

Wacław IV Luksemburski (1361 - 1419) - quân vương La Mã và vua Séc, quận công Luksemburg.

Werner von Tettingen (1350 - 1413) - đại thống chế của Giáo đoàn Thánh chiến, đã chạy trốn khỏi trận Grunwald.

Witold Kiejstutowicz (1354/55 - 1430) - đại quận công Litva, con trai Kiejstut, thuộc gia tộc Giedyminowicz, anh em thúc bá với vua Władysław II Jagiełło. Trong những năm 1392 - 1430, ông là đại quận công Litva thay mặt cho vua Ba Lan Jagiełło. Ông tham gia các trận chiến với Moskva, Trại Vàng và Giáo đoàn Hiệp sĩ Thánh chiến. Chính sách của ông củng cố Litva thành một quốc gia độc lập, mâu thuẫn với chính sách của vua Ba Lan Władysław Jagiełło, dự định biến Litva thành một tỉnh của Ba Lan. Trong biên niên sử của Jan Dlugosz, hình ảnh của Witold rất tích cực, được mệnh danh là pater patriae (người cha của tổ quốc) Litva.

Władysław I Lokietek (1260 - 1333) - vua Ba Lan, lên ngôi năm 1320. Ông đã chiến đấu lâu dài cho sự thống nhất của đất nước sau một thời gian bị chia cắt.

Władysław II Jagiełło (sinh khoảng 1352/1362 - mất ngày 01/6/1434) - con trai của đại quận công Litva Olgierd. Ông là đại quận công Litva trong những năm 1377 - 1381 và 1382 - 1401. Năm 1385, ông liên minh với Ba Lan, cam kết chịu lễ rửa tội, Ki-tô giáo hóa Litva. Một năm sau, ông kết hôn với nữ hoàng Ba Lan Jadwiga Andegaweńska để trở thành chủ ngai vàng Ba Lan, người sáng lập vương triều Jagiełło. Năm 1401, ông trao quyền lãnh đạo Litva cho người em họ là đại quận công Witold. Ông đã tiến hành cuộc đại chiến với Giáo đoàn Thánh chiến (1409 - 1411) và chỉ huy liên quân Ba Lan - Litva giành chiến thắng trong trận Grunwald. Ông đã ký các hiệp ước hòa bình Toruń và Melno giữa Ba Lan và Litva với Giáo đoàn Thánh chiến. Bằng cách nhượng bộ nhiều đặc quyền quý tộc, ông đã giành được quyền kế vị ngai vàng Ba Lan cho con trai là Władysław III.

Władysław Opolczyk (khoảng 1330 - 1401) - quận công Opole, chư hầu của Séc, người ủng hộ vương triều Andegaweński, đã nhường cho các hiệp sĩ Thánh chiến lâu đài ở Zlotoryja, là căn cứ cho họ chiếm lãnh thổ Ba Lan.

Wojciech Jastrzębiec (1363 - 1436) - một người thông tuệ, nhiều năng lực và mưu lược, được vua Jagiełło sử dụng vào nhiều sứ vụ ngoại giao quan trọng.

Wołoszczyzna - vùng đất cổ ở bình nguyên Wołoska, phía nam của Rumani ngày nay.

Zawisza Đen xứ Garbów (1370 - 1428) - hiệp sĩ Ba Lan, có thời phục vụ dưới trướng vua Hungary Zygmunt Luksemburski. Ông được coi là tấm gương phẩm hạnh cho toàn giới hiệp sĩ châu Âu.

Zygmunt Luksemburski (1368 - 1437) - con trai vua Karol IV, chồng bà Maria chị gái của Jadwiga, được người Hungary tôn làm vua năm 1386, năm 1410 được tôn làm quốc vương La Mã. Năm 1433 được tôn làm hoàng đế Thánh chế La Mã.

Żmudź - tên gọi cũ của vùng Hạ Litva.