← Quay lại trang sách

PHẦN KẾT

THÁNG SÁU NĂM 1945

Vô số quân nhân và người dân nô nức chen chúc trong nhà ga Farringdon. Nhìn những bộ quần áo xúng xính mà mọi người lựa chọn, ít ai nghĩ rằng họ vừa trải qua nhiều năm chiến tranh túng thiếu. Grace cũng vậy. Cô mặc chiếc váy màu xanh lam, với những bông hoa màu trắng nhỏ xinh chạy dọc theo đường viền áo đã bắt đầu phôi pha.

Hiệu sách thường ngày vẫn đông khách nên Grace hiếm khi có dịp rời khỏi. Mặc dù cái tên “Hiệu sách cuối cùng ở London” ẩn chứa nhiều cảm xúc nhưng cô quyết định chính thức đổi tên thành hiệu sách Evans & Bennett. Bây giờ, tấm biển đã được sơn màu xanh lục lam treo trên ngưỡng cửa. Suốt những năm tháng bom đạn, cửa hàng vẫn thu hút độc giả ghé vào tấp nập. Đối với Grace, họ không chỉ là khách hàng mà còn là bạn bè thân thiết. Nhưng hôm nay là một ngày rất đặc biệt nên cô để Jimmy một mình trông nom hiệu sách.

Cậu bé đã trở thành một nhân viên xuất sắc, nhiệt tình, tháo vát và cũng là mọt sách giống hệt như Grace. Không có gì lạ nếu ta bắt gặp Jimmy nép mình giữa những kệ sách và chìm đắm trong một câu chuyện nào đó. Mỗi khi thấy vậy, Grace lại bồi hồi nhớ đến ông Evans nên không nỡ lòng quở trách cậu.

Grace nhìn chiếc đồng hồ từng gắn bó với cô suốt thời gian trực không kích. Dưới ánh sáng ban ngày, lớp sơn phản quang loang lổ trên mấy cây kim nhỏ xíu, phát ra màu xanh trắng nhợt nhạt. Nhưng vào ban đêm, chúng đã hỗ trợ đắc lực cho cô trong rất nhiều cuộc tấn công dữ dội.

Bây giờ là 3 giờ kém 5 phút.

Cái đêm định mệnh mà hiệu sách Đồi Primrose bị đánh sập và hiệu sách Evans & Bennett vươn lên từ đống đổ nát đó cũng chính là trận oanh tạc cuối cùng vào London. Suốt bốn năm sau đó, các vụ đánh bom vẫn liên tục xảy ra và chỉ vừa chấm dứt vào tháng trước - ngày 8 tháng Năm năm 1945, khi cuộc chiến thật sự kết thúc.

Khắp nơi tràn ngập không khí tưng bừng hân hoan. Những cặp đôi say sưa nhảy múa trên đường phố. Người người xắn quần, vén váy lội bì bõm qua đài phun nước. Những người bán tạp hóa mở hết số đường và thịt xông khói dự trữ, bà con hàng xóm chung tay tổ chức bữa tiệc ăn mừng thịnh soạn mà nhiều năm qua họ chưa từng thấy. Ánh đèn rực rỡ của các máy bay phòng không từng dùng để săn đuổi kẻ thù trên bầu trời nay đang chiếu rọi những đám mây bằng ánh sáng của niềm vui chiến thắng.

Grace và bác Weatherford dẫn Jimmy và Sarah đến con đường Whitehall, hòa mình vào đám đông đang háo hức lắng nghe bài phát biểu của Thủ tướng Churchill ca ngợi chiến thắng của họ trước quân Đức. Nhà vua và Nữ hoàng xuất hiện trên ban công, đẹp lộng lẫy và sang trọng. Họ bày tỏ lòng cảm kích đối với toàn thể người dân và niềm tự hào trước chiến công vang dội. Khi nhìn thấy công chúa mặc đồng phục của đội giám sát không kích, Grace càng ra sức hoan hô nhiệt tình.

Bước ra từ chiến tranh, nước Anh đã trở thành một anh hùng.

Ở ga tàu điện ngầm, Grace sốt ruột xem đồng hồ lần nữa. Đúng như dự đoán, càng gần đến 3 giờ, nhà ga càng chật như nêm khiến không gian xung quanh trở nên ồn ào huyên náo.

Các quân nhân trở về nhà mỗi ngày một đông. Những người đầu tiên giải ngũ hầu hết đều là phụ nữ. Chiến thắng ngày hôm nay không thể thiếu công sức đóng góp của họ, nhưng khi cuộc chiến kết thúc thì những nữ quân nhân không cần ở lại nữa. Quyết định này khiến cho tất cả mọi người, nhất là các cô gái đã dốc hết tâm huyết vào nhiệm vụ như Viv cảm thấy vô cùng hụt hẫng.

Suốt bốn năm qua, Viv là thành viên của đơn vị đầu tiên gồm cả nam và nữ chịu trách nhiệm điều khiển súng phòng không, đóng quân ở khu East End của London. Tại đây cô sống chung với vài nữ đồng đội khác.

Khi cuộc chiến chấm dứt, Viv nhận được thông báo rằng cô không cần phục vụ trong quân đội nữa. Cô gửi một bức điện ngắn gọn cho Grace, trong đó chỉ nói thời gian về đến ga Farringdon và nhờ bạn mình ra đón.

Viv sẽ trở về nhà.

Chỉ cần đọc qua bức điện, Grace có thể cảm nhận được Viv không vui khi phải đột ngột rời khỏi ATS. Trong các kì nghỉ phép của Viv mấy năm qua, họ đã gặp nhau vài lần nhưng chưa lần nào bạn cô nhờ cô ra đón.

Cuối cùng đoàn tàu cũng tiến vào sân ga. Khi các cánh cửa xì hơi rồi mở ra, vô số quân nhân náo nức tràn xuống và ùa vào vòng tay của những người thân thương. Giữa biết bao người mặc đồng phục, Viv vẫn nổi bật với mái tóc đỏ rực và nụ cười rạng rỡ. Có những điều chẳng bao giờ thay đổi, cho dù đã sáu năm bom đạn khói lửa trôi qua.

Grace gọi lớn tên cô bạn thân đang chạy nhanh về phía mình và ôm chặt Viv như thể hai người không hề gặp mặt nhau suốt nhiều năm đằng đẵng.

“Cậu ổn chứ?” Grace hỏi.

Viv hít sâu một hơi và gật đầu, đôi môi đỏ thắm mím chặt lại. Tuy cô cố gắng giữ tinh thần lạc quan nhưng không giấu được nỗi thất vọng tràn ra khóe miệng.

Xung quanh họ, người người chen chúc xô đẩy nhau, say sưa trong niềm hạnh phúc đoàn tụ hoặc hối hả trở về nhà.

“Tớ thật sự đã làm rất tốt,” Viv nói.

Grace ôm chặt bạn lần nữa, “Phải, cậu đã làm rất tốt.”

“Cả hai chúng ta đều như vậy.” Viv khoác ba lô lên vai và nắm tay Grace. “Cậu có nhớ công việc giám sát không kích không?”

“Tớ nhớ sự kích động của nó,” Grace đáp. Và đúng như thế thật. Được sống trong hòa bình tất nhiên là hạnh phúc. Nhưng suốt mấy năm qua, họ đã quen với cảm giác hồi hộp lơ lửng trong không trung, niềm biết ơn vô bờ khi thức dậy mỗi sáng và biết mình còn sống. Đó là cảm xúc của những người phải chịu đựng sức ép triền miên của sự nguy hiểm. Grace chưa từng nhận ra điều đó nhưng bây giờ cô mới thấy thiếu thiếu.

“Bác Stokes vẫn thường ghé cửa hàng nên tớ chẳng có cơ hội nào để nhớ,” Grace mỉm cười trìu mến. “Nhưng tớ rất biết ơn vì có thời gian thoải mái để ngủ mỗi đêm.”

“Dù sao đi nữa cũng sẽ có những chuyến phiêu lưu hay ho khác đang chờ chúng ta.” Mỗi khi xuống tinh thần, Viv thường có thói quen tìm kiếm những chân trời mới mẻ. Và cô bạn của Grace ngay lập tức chú ý đến một anh lính có bờ vai rộng đang sải bước xuyên qua đám đông đến trước mặt họ. Trên ngực anh lấp lánh một dãy huy hiệu. “Có lẽ là với một anh chồng đẹp trai nhỉ?”

“Còn có những cửa hàng nữa.” Grace siết nhẹ tay bạn và Viv bật cười.

“Hiệu sách tuyệt vời của cậu thế nào rồi?”

Grace nghĩ đến cửa hiệu sạch sẽ, bóng loáng và sách vở được sắp xếp ngăn nắp theo chủ đề, về những kệ sách hơi xô lệch vì được chắp vá lại từ các mảnh gỗ vụn, về những giờ đọc mà cô vẫn kiên cường duy trì giữa chiến tranh và tất cả những người đã trở thành bạn thân thiết của cô. Tại Hiệu sách cuối cùng ở London còn có nhiều chiếc kệ dành cho các cửa hàng bị bom đạn tàn phá. Những người chủ hiệu sách ấy vô cùng cảm kích khi nhận tấm lòng giúp đỡ chân thành của Grace.

Grace yêu quý mỗi một ngóc ngách của hiệu sách Evans & Bennett.

“Còn gì nữa không?” Viv mỉm cười. “Vậy là đủ để cậu vui mừng mãn nguyện rồi hả?”

Grace dùng khuỷu tay huých bạn bước lên thang cuốn, “Còn cái này nè.”

Khi hai cô gái đặt chân lên thang cuốn, kí ức cách đây nhiều năm lại ùa về. Lúc đó, cả hai khăn gói rời quê nhà Drayton ngay trước lúc cuộc chiến châm ngòi và họ cũng xuống tàu ở ga Farringdon. Có nằm mơ họ cũng không thể ngờ mình sẽ sống giữa bom đạn hoặc có một ngày biết cách điều khiển súng phòng không. Khi ấy, Grace chưa hề yêu thích sách.

Thật khó lòng tưởng tượng rằng họ từng sống một quãng đời vô vị, nhạt nhẽo như trước kia.

Sau khi chiến tranh kết thúc, Grace đã liên lạc lại với chú Horace để chắc chắn gia đình chú vẫn an toàn và bày tỏ tình yêu thương với chú. Trước đây cô từng nghĩ làm vậy chỉ tự chuốc thêm tổn thương, nhưng bây giờ Grace hiểu rằng đó là lòng trắc ẩn.

Chú Horace hồi âm bằng giọng điệu cộc cằn, cáu kỉnh như thường lệ. Ông thông báo cả nhà vẫn an toàn và còn mời Grace đến chơi nếu có dịp về thăm quê. Thật lòng mà nói thì phản ứng này đã tốt đẹp hơn nhiều so với kì vọng của cô.

Grace đã chữa lành mối quan hệ mong manh này chính là vì ông Evans. Và còn rất nhiều việc khác nữa.

Hai cô gái chuyện trò rôm rả suốt đường về nhà bác Weatherford. Bây giờ Viv sẽ ở trong căn phòng chung trước đây của họ. Grace đã chuyển đến sống ở căn hộ phía trên hiệu sách Evans & Bennett. Nơi đó quá nhỏ nên không thể kê đủ hai chiếc giường. Khi họ về gần tới phố Britton, Viv nắm chặt tay cô bạn và nở nụ cười tươi rói.

Họ vòng qua góc phố rồi chợt ù té chạy như những đứa trẻ. Hai cô gái thi nhau leo lên mấy bậc thang để đến với cánh cửa màu xanh lá cây có tay nắm bằng đồng. Viv đẩy cửa lao vào trong. Bác Weatherford và bé Sarah đã đứng đợi sẵn để nồng nhiệt chào đón cô bằng những băng giấy báo màu rực rỡ và chiếc bánh kem ngon lành mà bác đã tiết kiệm đường với bột để làm.

Trong những tuần tiếp theo, đôi bạn trẻ tiếp tục thực hiện những dự định còn dang dở. Khi được giải phóng khỏi những ca trực đêm trong đội giám sát không kích và nhiệm vụ ở ATS, họ có thêm nhiều thời gian rảnh rỗi để đi xem kịch, la cà các quán cà phê, xem phim vào buổi tối và dĩ nhiên, không thể thiếu những vũ trường sôi động.

Quan trọng hơn hết, Grace còn có một hiệu sách cần chăm sóc. Chiến tranh kết thúc, trẻ em được đưa về nước và các quân nhân giải ngũ về nhà. Nhiều vị khách thân thuộc nay trở thành bạn của Grace bắt đầu đưa người thân đến cửa hàng. Thế là cô gặp được cả vợ chồng lẫn con cái của họ.

Jimmy rất thích hoạt động đọc sách cho mọi người nên đã tự sắp xếp giờ đọc sách cho các bạn nhỏ vào mỗi chiều thứ Bảy. Một buổi chiều nọ, chị Kittering dắt con gái đến, đó là một cô bé tóc nâu dễ thương, lễ phép và có đôi mắt bồ câu to tròn giống mẹ. Chưa bao giờ Grace thấy chị mỉm cười hạnh phúc như khi ở bên con mình. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói của chị đều đong đầy tình thương yêu vô bờ của một người mẹ. Chị đang sốt ruột mong chồng trở về, chắc chắn không bao lâu nữa anh ấy sẽ được giải ngũ.

Vào một buổi chiều thứ Bảy của tháng Tám tràn đầy nắng ấm, Grace tranh thủ được chút thời gian nghỉ ngơi sau bao việc tất bật. Vì mọi người đã ngồi hết chỗ nên cô lại gần ô cửa sổ ấm áp, cầm theo cuốn tiểu thuyết Forever Amber, tựa lưng vào tường và mở sách ra đọc.

Mùi thơm thân thuộc của giấy mực lôi cuốn Grace đắm chìm vào câu chuyện mới mẻ. Thế giới văn chương hiện lên sống động trong tâm trí khiến cô say sưa đến nỗi không nghe thấy tiếng chuông vang lên ngoài cửa.

“Anh chưa bao giờ nghĩ khi đọc sách người ta có thể xinh đẹp như thế, cho đến khi anh nhìn thấy em.” Một giọng nói ấm áp thân thuộc vang lên.

Grace giật mình ngẩng lên và cuốn sách trên tay cô rơi xuống, “George.”

Anh đứng cách cô vài bước chân, khôi ngô hơn bao giờ hết trong bộ đồng phục Không quân Hoàng gia gọn gàng khỏe khoắn, và trên tay ôm một bó bông cải tím. “Có vẻ bắp cải vẫn đang là mốt thịnh hành thay cho hoa.”

“Bởi vì anh không phải nhà hàng Ritz thôi.” Cô chạy ngay đến rồi lao vào vòng tay anh khiến bó bông cải rơi nhẹ xuống đất.

Những năm chiến tranh đã mang đôi bạn trẻ đến gần nhau hơn qua những cánh thư chia sẻ bao tâm sự ẩn sâu trong lòng, qua những giây phút hiếm hoi họ tranh thủ gặp nhau trong các kì nghỉ phép của anh.

“Bây giờ anh được về nhà luôn chưa?” Grace hỏi, chăm chú nhìn vào mắt anh, cô cảm thấy dẫu nhìn bao nhiêu cũng không đủ. Cô đặt một tay vào bàn tay ấm nóng của anh để thuyết phục mình tin rằng George thật sự ở đây. Thật sự đang đứng trước mặt cô.

“Ừ.” Anh vuốt một ngón tay lên má người yêu. “Anh về luôn.” Grace nhắm mắt lại, ngả đầu vào ngực George, hít hà mùi hương sạch sẽ, thơm tho của anh và cảm nhận tiếng sột soạt của chiếc áo len đồng phục cọ nhẹ vào gò má. Tất cả đều đã trở nên quá đỗi quen thuộc.

“Em thật sự không định hỏi anh mang đến thứ gì cho em sao?” Giọng anh âm vang dưới má Grace.

Cô ngước nhìn, ngạc nhiên. “Em thật sự không nghĩ ra em còn cần thứ gì nữa.”

“Thật sao?” George cười tươi rói rồi đưa tay vào túi áo khoác. “Kể cả một cuốn sách?” Anh chần chừ chưa rút tay ra và nhướng mày lên đầy mong đợi.

Grace đứng thẳng người lên và vỗ tay hào hứng. Việc trao đổi sách thật sự đã trở thành truyền thống giữa đôi bạn trẻ. Những quyển sách của George thường cũ kĩ, đã được chuyền qua tay vô số người lính nhưng vẫn luôn chứa đựng câu chuyện vô cùng lôi cuốn.

“Làm sao anh có thể trở về mà không mang gì cho em được.” George rút ra một quyển sách hình chữ nhật màu xanh lá cây.

Hình dáng của nó khá kì lạ, hầu như không nhỉnh hơn bàn tay của cô là mấy.

“Chúng được sản xuất ở Mỹ, với kích thước đặc biệt để những người lính bỏ vừa trong túi quân phục,” dường như anh đã đọc được thắc mắc của Grace. “Quả thực rất xuất sắc.”

“Đúng vậy.” Cô lật quyển sách lại để ngắm nghía và đọc lên tựa sách được viết bằng kiểu chữ in đậm màu vàng. “Gatsby vĩ đại?” Phía trên cùng góc phải là một vòng tròn đen khẳng định cuốn sách là Ấn bản dành cho Lực lượng quân đội.

“Tất cả người Mỹ đều say sưa đọc nó.”

“Vậy là anh chưa đọc sao?” Grace ngạc nhiên hỏi.

“Anh thích được nghe cô chủ của hiệu sách Evans & Bennett nổi tiếng đọc hơn.” Bàn tay to lớn, ấm áp của anh choàng lấy tay cô. Và rồi họ cùng nhau cầm lấy cuốn sách.

“Chắc chắn em sẽ sắp xếp thời gian để đọc nó.” Grace nhoẻn miệng cười. “Không biết em đã bao giờ nói lời cảm ơn anh chưa?”

George nhướng mày, trông anh đẹp trai không thua gì tài tử Cary Grant. “Cảm ơn về việc gì?”

“Vì anh đã dạy cho em biết cách yêu những cuốn sách.” Grace nhìn cửa tiệm bằng ánh mắt đầy yêu thương.

George nhíu mày và nói rất chân thành, “Chính em đã làm điều đó, Grace ạ. Không phải anh đâu. Em đã tự tìm thấy niềm say mê đó trong con người mình.”

Grace bồi hồi xúc động trước những lời nói của George. Trong thâm tâm, cô biết rõ một phần của tình yêu sách mới mẻ này đã khởi đầu từ anh, từ cuốn tiểu thuyết Bá tước Monte Cristo cũ kĩ mà anh tặng cho cô. Một phần được ông Evans và tất cả mọi thứ đang hiện diện trong cửa hiệu này mang lại. Một phần nữa đến từ những thính giả lắng nghe Grace đọc sách hằng ngày, từ những tháng ngày tăm tối mà các câu chuyện đã soi đường cho họ vượt qua bằng niềm say mê, bằng tình yêu thương lẫn tiếng cười. Thậm chí cả cuộc chiến vừa rồi, nỗi tuyệt vọng tìm kiếm một phương tiện trốn tránh hiện thực lẫn nỗi khao khát những cảm xúc tươi tắn khác ngoài sự khiếp sợ và mất mát - tất cả đều góp phần tưới tắm cho tình yêu sách trong Grace.

Bằng sức mạnh diệu kì, văn chương đã gắn kết tất cả mọi người và tất cả mọi thứ thành một cộng đồng. Điều đó thật sự đã giúp tình yêu sách của Grace trở nên trọn vẹn, nó cũng đồng thời tạo nên linh hồn của hiệu sách Evans & Bennett - hay như một số khách quen lâu năm vẫn hoài niệm gọi là Hiệu sách cuối cùng ở London.