← Quay lại trang sách

- II -

Ngồi trong quán cà phê tôi liếc nhìn chiếc đồng hồ: 11 giờ thiếu 25, rồi mở bốp ra, đem bức thơ đọc lại, vừa vui sướng, vừa hồi hộp:

Kính gởi thi sĩ Hoài Hương,

Hân hạnh được thưởng thức tài nghệ của ông qua những vần thơ điêu luyện trên tuần báo X. Thấy địa chỉ của ông đăng ở cuối bài thơ “Một trăm thiếu một”, tôi vội vã viết thơ này, hy vọng nó sẽ đến tận tay ông. Mong ông nhín chút thời giờ đến biệt xá của tôi, số 23 đường Mé Sông vào khoảng 11 giờ sáng, trong tuần này càng sớm càng hay vì vợ chồng tôi đang có việc cần ông hợp tác về mặt văn nghệ. Xin ông chớ từ chối.

Ông Bà Henri Nguyễn văn Nhan.

Kim đồng hồ chỉ 11 giờ thiếu 15. Tôi nghĩ thầm: “Mình lên đường là vừa”. Từ quán cà phê đến nhà ông Henri Nguyễn văn Nhan, khoảng đường dài chừng hơn năm trăm thước. Đến đấy quá trễ, e ông bà hiểu lầm cho tôi lập dị hoặc thiếu đứng đắn. Đến quá sớm, biết đâu họ đánh giá tôi quá thấp. Tôi rảo bước, con đường quá quen thuộc, hơn nữa hồi hôm qua tôi đã tìm biết rõ số 23 đường Mé Sông này một lần rồi. Một ngôi biệt thự, xung quanh có sân rộng. Điều đáng chú ý: cách đó chừng bốn căn nhà là tới đồn Pháp, đa số gồm lính Lê Dương, canh gác cẩn thận. Ít ai dám đi ngang qua cái đồn Lê Dương nổi tiếng hung dữ ấy. Thời buổi loạn lạc, sống chết bất thường. Lính Lê Dương đi tới lui, tốp ra chợ, tốp về đồn, mặt mày hầm hừ đỏ khé vì nắng, vì rượu. Tôi yên tâm hơn bao giờ hết, với tấm giấy “lách xê” trong túi và nhứt là với bức thơ của ông bà Henri Nhan, một tài liệu cho phép tôi bén mảng đến gần đồn vì lý do chánh đáng, theo lời mời của một nhân vật tăm tiếng có quốc tịch Pháp.

Tiên đoán những câu hỏi sắp tới của ông bà Henri Nhan, tôi chuẩn bị sẵn những câu trả lời. “Hợp tác về mặt văn nghệ”. Mơ hồ quá, biết đâu ông bà muốn bỏ vốn ra để xuất bản thơ. Hoặc cùng hợp soạn một tuyển tập.

Nhìn kỹ tấm bảng ghi số 23 trước biệt thự, tôi mạnh dạn bấm chuông. Chị ở trong nhà chạy ra:

– Ông kiếm ai?

– Tôi muốn gặp mặt ông bà.

– Ông đi vắng rồi.

– Chị cứ nói có khách đến, chuyện cần.

– Dạ tôi không dám, hay là ông đợi lát nữa.

Tôi nhanh trí, đưa bức thơ hôm nọ và luôn cả phong bì cho chị ở:

– Chị mang vào cho bà. Tôi đứng chờ ngoài này.

Chị ở ngạc nhiên, vừa đi vừa liếc phong thơ đã xé. Chập sau, chị kéo nhẹ cánh cửa sắt:

– Mời ông vô.

Qua một cái sân khá rộng trải đá mịn, tôi đứng ngượng ngùng trước bực tam cấp. Phòng khách vắng hoe.

– Mời ông ngồi. Bà tôi lát nữa ra bây giờ.

Tiếng dép kéo nghe lẹp xẹp, ngày càng gần. Một thiếu phụ nhanh nhẹn khoát màn:

– À! Ông là Hoài Hương.

Tôi đứng dậy cúi đầu chào:

– Thưa phải…

– Ông cứ ngồi.

Ngồi xong, tôi cảm thấy lúng túng lạ thường vì bà chủ nhà vẫn đứng dựa lưng vào vách, bên khung cửa sổ. Tuổi bà trạc ba mươi, vóc dáng cao ráo, hai bàn tay ngón thuôn, móng thoa màu hồng dịu; cườm tay no tròn lộ ra thảnh thơi trong tay áo lụa quá rộng phủ xuống vừa khỏi cùi chỏ. Bà day lại, mỉm cười để lộ hai núm đồng tiền và một cái răng vàng:

– Nhà tôi vừa đi khỏi, chừng nửa giờ nữa mới về. Thôi, chắc ổng mừng lắm, ông đến đây thiệt hợp thời.

Chị ở bưng ra một tách nước trà hơi nguội. Bà nói tiếp:

– Ông cứ uống tự nhiên một mình. Chẳng mấy khi… thi sĩ đến nhà. Một thi sĩ hữu danh.

Tôi cúi mặt, đưa tay vói tách nước.

– À, này ông…

Giựt mình, tôi buông tay xuống. Cũng may tôi chưa nâng tách nước. Bằng không chắc chắn nó sẽ rơi xuống nền gạch bông quá bóng láng.

– Ông uống tự nhiên đi. Tôi đứng đây, luôn thể… chờ nhà tôi về. Tôi muốn nói điều gì bây giờ. À… quê quán của ông ở quận An Biên, nếu tôi không lầm.

Tôi trố mắt ngạc nhiên, phục thầm tài nhận xét của bà Henri:

– Dạ, sao bà biết? Hay là quê của bà…

Bà vội cướp lời tôi:

– Xin lỗi để tôi nói trước. Qua lời thơ của ông, tôi chú ý câu: “Mười con sông nhỏ song song, Chảy về một biển mà không giao đầu”, tôi quả quyết ông là người Miệt Thứ, nơi có mười con rạch nhỏ, từ rạch Thứ Nhứt đến rạch Thứ Mười, giáp rừng Cán Gáo. Với lại “Lòng đất sục sôi, hoa trắng soi mình trong màu đỏ”! Mới nghe qua thì ghê rợn xương máu, nhắc nhở chiến tranh.

Tôi sượng sùng, toan thanh minh trường hợp “tình ngay lý gian” ấy. Nhưng bà Henri lại khéo biện hộ giùm tôi:

– Thật khiêm tốn, hiền lành, cái miền quê An Biên! Ông tả đúng quá. Đất xốp, mưa thấm xuống, cứ đào là gặp mạch nước chảy tuôn. Thứ nước chát, đỏ bầm vì nhuộm màu vỏ tràm, dây choại, dây dớn; bông trắng, màu bông cây tràm.

Bên đồn, lính Lê Dương bỗng rộ lên cười hát ỏm tỏi… Tôi liếc qua cửa sổ bên trái: hai họng súng “ô-buýt” vừa ló ra cách nhà chừng hai chục thước.

Bà chép miệng:

– Chừng này sao nhà tôi chưa về? Ông quan tư Ca Rê là bạn của nhà tôi. Họ đang uống rượu bên đồn. Ông ráng chờ vài phút. Tới giờ lính ăn cơm rồi. Ông Ca Rê học giỏi lắm, xuất thân trường Thuộc địa, rành về tâm lý các dân tộc Đông Phương, nhứt là Ấn Độ. Ổng thích tìm bạn Việt Nam… để điều tra thêm… Vì vậy, nhà tôi cần gặp một thi sĩ Việt Nam để tiếp tay.

Nỗi lo âu hiện lên. Tôi ngồi im, cố gắng che giấu sự thất vọng. Tâm lý các dân tộc Đông Phương, Ấn Độ, Việt Nam? Những môn mà tôi chưa từng chú ý. Ông bà Henri Nhan quả thật đã gõ lầm cửa khi biên thơ cho tôi. Chẳng khác nào ông bà xúi biểu một ngư ông ở đồng bằng đi săn cọp tận đỉnh Hy Mã Lạp Sơn! Những bức hoành phi cẩn xa cừ, cái lục bình cao hơn tám tấc ở bàn giữa, cái ghế bành lót nệm màu xanh dương, đôi chim hoàng yến treo ngoài cửa cái, không khí mát mẻ trong phòng khách, pho tượng Phật Quan Âm trên bàn thờ riêng biệt, tất cả như mai mỉa sự có mặt của tôi tại đây. Tôi toan đứng dậy, cáo từ bà chủ nhà để trở về gian nhà Xóm Biển rồi nằm trên bộ vạc tre, kê đầu lên chiếc gối bằng cây mốp, tìm nàng thơ đang đi lởn vởn bên cạnh những em bé bắt ruồi, hoặc lão Tư Hiếm với chiếc ống điếu cổ lỗ.

Bà chủ nhà nói nhanh:

– Ý mà quên! Nãy giờ tôi quên mời ông hút thuốc. Thuốc điếu, ống quẹt… ở trong cái hộp cây sơn mài trước mặt ông đó. Ông cứ tự tiện mở ra.

– Dạ tôi… không ghiền thuốc.

– Không ghiền thuốc, làm sao cảm hứng được? Kìa! Nhà tôi về.

Rồi bà đổi giọng, day ra ngoài cửa sổ:

– Ông có mượn giùm tôi mấy cuốn Paris Match đó hả? Nãy giờ, thi sĩ tới chờ đợi ông rã ruột.

Ông Henri Nguyễn văn Nhan bước nhanh vào:

– A! Chào thi sĩ.

Tuổi ông trạc năm mươi, da mặt hồng hào. Tuy mặc bộ quần áo kaki vàng nhưng chân ông mang dép săn-đan với đôi vớ trắng.

Ông bắt tay tôi rồi trao xấp báo cho bà vợ trẻ:

– Bà à, ông Còm-măn-đăn Ca Rê hứa giải quyết gấp cái “áp phe” điền đất của mình ở Mỹ Lâm. Báo thì tôi mượn về mấy tờ đây cho bà.

Bà vợ liếc xem ngay bức hình màu ngoài bìa báo, trả lời vắn ngủn:

– Ổng hứa từ mấy tháng rồi…

– Ậy, lần này tôi nói gắt với ổng. Ổng hứa sẽ thi hành gấp trong tuần này, với điều kiện là tôi giúp ổng tài liệu… Chẳng biết người mình kêu bằng cái gì… cái monographie vùng phụ cận núi Ba Thê, từ khi người Pháp mới sang và những phong tục hồi xưa còn sót lại trong dân chúng.

Day qua tôi, ông tiếp:

– Ông giúp tôi phần ấy được chớ! Viết bằng chữ Việt Nam để tôi căn cứ vào đó dịch ra chữ Pháp. Văn chương của ông được đăng báo. Theo ý kiến của nhà tôi thì ông thuộc vào hàng trên mức trung bình. Nhà cửa, quê quán ông ở đâu? Học lực tới lớp nào? Từ mấy năm nay ông đã làm gì?

Cơn giận lại nổi lên ngấm ngầm. Tay tôi hơi run run. Tôi quên rằng thời chiến tranh mỗi chủ nhân cần điều tra lý lịch của bất cứ người làm công nào, nhứt là trường hợp ngôi nhà của chủ lại ở sát đồn bót. Tôi đứng dậy, nói lập vập:

– Thưa ông, tôi chưa từng soạn thảo những quyển địa phương chí lần nào cả. Viết tổng quát về lịch sử, địa lý, thói ăn nết ở, nguồn lợi kinh tế của một vùng… tưởng việc ấy dành riêng cho những nhà chuyên môn, học cao hơn. Rất tiếc vì tài mọn, tôi khó làm vừa lòng được. Xin…

Mấy tiếng “kiếu từ ông” chưa thốt ra khỏi miệng tôi là ông Henri Nhan đã chận ngay:

– Đừng ngại, chuyện cần gấp lắm. Tôi sẽ chỉ biểu rành mạch đầu đuôi gốc ngọn tất cả công việc; ông cứ noi theo lời tôi mà thi hành. Tôi đã trình bày với ông quan tư Ca Rê: Lịch sử vùng Mỹ Lâm tức là lịch sử của tôi! Tôi ra công khai phá vùng ấy hơn ba chục năm trường, lập đình chùa, làng xóm. Tôi hiểu từng cọng cỏ. Tôi đã gặp nhiều di tích xưa, trước khi người Pháp đến đào xới kho tàng Óc Eo ở núi Ba Thê mà họ cho rằng quan trọng, đánh dấu sự gặp gỡ với Tây Phương từ đời Thượng cổ ở Đông Nam Á. Chung qui công việc mà ông thi sĩ sắp làm chỉ là viết tiểu sử của tôi, theo kiểu tiểu sử các bực danh nhân, công thần trong quốc sử.

Tôi giữ thái độ im lặng mặc dầu tôi biết lão Tư Hiếm có thể giúp tôi nhiều tài liệu về phần đất ở Mỹ Lâm. Nhưng tôi cố tìm lời lẽ để rút lui vĩnh viễn, thề chẳng bao giờ đặt bước trở lại căn nhà khó thở này. Bà Henri Nhan như nóng nảy, nháy mắt, khoát nhẹ bàn tay búp măng, ra dấu hiệu bảo tôi cứ gật đầu.

Tôi đáp:

– Thưa ông, tôi suy nghĩ lại, trả lời sau.

Bà Henri Nhan cười giòn, bước tới vịn vai chồng:

– Dường như thi sĩ đồng ý rồi đó. Thôi bây giờ cũng đã trưa, để ông ấy về nghỉ rồi sáng mai trở lại nhận việc.

Ông Henri Nhan lẩm bẩm, nhìn tôi:

– Được, tôi nhức hai bàn chân quá. Chịu phiền nghe ông bạn. Tối nay tôi thảo kế hoạch để công việc tiến hành gấp rút. Tâm lý người Âu Châu… kỳ lắm.

Ông ta vào phòng.

Tôi đứng dậy, cúi đầu chào bà chủ. Bà đi trước.

– Để tôi mở cổng cho ông về.

Tiễn tôi đến khỏi bực tam cấp, bà nói khẽ:

– Công việc chẳng long trọng, to tát như ổng nói đâu! Cứ nhận lãnh đi, ông đừng quá khiêm tốn. Ban nãy, dường như ông hơi phật ý.

Cơn buồn giận của tôi đã bắt đầu dịu xuống:

– Dạ, tôi đâu dám phiền ai.

– Một hai ổng muốn trở về điền đất cũ ở Mỹ Lâm. Thật là khuấy nước giỡn trăng! Tôi khuyên ổng nên bỏ hết, vợ chồng đi lên Sài Gòn tìm huê lợi khác. Rầu quá. À, ban nãy tôi quên hỏi…

– Thưa bà…

– Ông ở Miệt Thứ, thuộc xóm nào? Chú ruột tôi là ông hội đồng X, chắc ông biết.

– Dạ ông hội đồng là bạn của ông dượng tôi.

Bà Henri tiếp:

– Tôi ít về quê lắm. Đi học Sài Gòn từ nhỏ tới lớn.

Đến cổng rào, bà kéo nhẹ cánh cửa sắt, đứng nép một bên, sờ vào túi:

– Đây, tôi gởi sở phí ông về xe. Ngày mai nhớ trở lại nghe. Chừng một tuần lễ thôi. Về tiền bạc, tôi lo liệu để ông được bề rộng rãi.

Tôi lưỡng lự hồi lâu. Bà mỉm cười, trao tấm giấy một trăm đồng tận tay tôi. Tôi nói bẽn lẽn:

– Cám ơn bà.

Bà từ từ khép cổng rồi nở nụ cười thành thật:

– Nhớ trở lại, dịp may cho ông đó. Đừng buồn điều gì ráo!

Đến chiều hôm ấy, tấm giấy một trăm đã tan manh mún, chỉ còn chừng mươi đồng: năm chục đồng đền ơn cho bà chủ nhà, mười đồng gói thuốc thơm, mười đồng mớ thuốc Gò Vấp. Và tôi xài linh tinh. Giấy trắng, mực, viết chì tôi mua dự trữ sẵn để dành làm thơ. Hơi gió biển thổi mát rười rượi. Tôi hút thuốc, tưởng đến dung nhan quý phái của bà Henri Nhan. Hồi còn ở quê nhà, cha tôi nhiều lần nhắc đến ông hội đồng X. mà bà chủ Nhan bảo là chú ruột. Tôi tin rằng bà không nói dối. Cha tôi thuật lại: Ông hội đồng X. ăn xài sang trọng như Tây, phòng khách của ông trưng bày nhiều thứ lạ, thí dụ như pho tượng cẩm thạch tạc kiểu người đàn bà khỏa thân đang giương cung bắn con nai, hoặc chàng lực sĩ Tây Phương đánh sư tử; ông hội đồng gởi thơ qua tận bên Pháp mua một cái đồng hồ đặc biệt, cứ đúng mười lăm phút một đứa bé bằng đồng bước ra cầm dùi nhỏ, gõ tự động vào cái chuông. Tóm lại, những kỳ quan – so với cách sống của đa số điền chủ quê mùa khác ở vùng U Minh. Ông nhận một đứa cháu gái đem về làm con nuôi. Cô này nghe đâu học ở Sài Gòn, sau khi rời nhà trường về chợ Cần Thơ, kết nhân tình với một ông y khoa bác sĩ trẻ tuổi. Rồi cuộc hôn nhơn bất thành, ông bác sĩ tự tử bằng thuốc ngủ. Phải chăng vì lẽ ấy mà cô ta chẳng muốn nói rõ lý lịch cho tôi nghe? Và cuộc gặp gỡ giữa cô ta với ông Henri Nhan chỉ là do tình thế loạn lạc đưa đẩy?

Tôi qua nhà lão Tư Hiếm. Lão lồm cồm ngồi dậy, quét bộ ván.

– Hồi sáng thầy đi đâu quá sớm?

– Sao bác biết?

– Thì tôi qua mời thầy uống rượu, chẳng gặp ai.

Nghĩ rằng trước sau gì mình cũng cần nói thật với lão, tôi bắt đầu vào chuyện:

– Số là vợ chồng ông chủ Henri Nhan đọc báo thấy mấy bài thơ của tôi, ổng bả hâm mộ tài nghệ, mời tôi tới, nhờ vài việc.

Lão Hiếm sửng sốt:

– À, ông chủ Nhan, đại điền chủ ở Mỹ Lâm phải không?

– Dạ phải.

– Ổng nhờ thầy làm công việc gì?

– Ổng muốn tôi viết lại những sự tích ngày xưa ở Mỹ Lâm, để… in thành sách cho quan Tây đọc chơi. Ổng kể câu chuyện, tôi viết lại cho có đầu có đuôi.

– Thầy nhận lời chưa?

– Chưa dứt khoát. Tôi muốn nhờ những người sống cố cựu ở Mỹ Lâm như bác giúp tôi tài liệu. Nhà bác hồi xưa chắc ở trong điền ổng?

Đôi mắt lão Tư Hiếm mấp máy. Lão gãi đầu rồi vói tay vào vách, tìm cái ống điếu… Sự bối rối hiện rõ rệt quá! Ngón tay của lão cầm que diêm, run run châm đôi ba lần mà vẫn không cháy điếu thuốc. Đóm lửa tắt. Lão đánh cây diêm thứ nhì, cố nín hơn hồi lâu rồi mới kéo thẳng một hơi, nhưng đứt đoạn.

– Ruộng ổng cò bay thẳng kiếng, trên ba ngàn mẫu. Tôi ở đất ổng trên bốn chục năm. Tá điền ổng hồi xưa trên hai trăm gia đình. Bây giờ còn chừng hai chục, phần lớn thất lạc như tôi đây chẳng hạn.

Ngừng một chập, ông nói nhỏ:

– Ổng có hỏi tên tôi không? Bà vợ của ổng hiền lắm. Vợ chấp nối.

Tôi hơi ngạc nhiên:

– Ổng nào biết bác ở Xóm Biển gần nhà tôi.

– May lắm. Giữa tôi với ổng, tôi muốn đừng ai nhắc tới tên ai nữa. Tôi già rồi. Tôi chẳng thiếu nợ ổng đồng bạc nào, hột lúa nào. Tôi chẳng hề ở ác với ổng. Quê xứ tôi buồn lắm. Ai làm ruộng đâu mà góp lúa ruộng? Nhà binh Tây chê xứ tôi, chẳng thèm đóng đồn bót. Mấy “ông” Việt Minh thì ở đâu xa xa. Tận trong núi Ba Thê.

– Hồi nãy bác nói còn chừng hai chục gia đình tại đó.

– Thì họ ở lấy lệ nhưng suốt ngày ra đồng sống bằng nghề khác như hái lá sen, bắt ốc, câu cá, gài bẫy chim chớ đâu làm ruộng như xưa. Để tôi nhớ coi… chắc chắn là mười sáu gia đình, trong đó có gia đình một bà già mù, một gia đình cùi. Nghĩa là còn mười bốn. Với một cái miễu thờ Chúa Ngung, Ma Nương.

– Chúa Ngung, Ma Nương là vị thần gì? Tôi ít nghe nói tới.

– À, điều đó ông chủ Nhan rành hơn tôi, ổng bày ra cái miễu đó. Thôi để thầy ngủ sớm, sáng mai đi làm.

Tôi lững thững ra cửa, hơi buồn vì lão dường như muốn đuổi khách. Lão bước xuống bộ ván, gọi theo giọng nhỏ rí:

– Xin lỗi thầy… tôi muốn…

Vì tôn kính người lớn tuổi, tôi vui vẻ trở lại, lão lẩm bẩm:

– Đối với chủ Nhan, thầy nên cẩn thận trong công việc làm. Nhứt là đừng bao giờ nói có bất cứ người tá điền nào của ổng ở xóm này. Tội nghiệp tôi.

– Bác khỏi lo. Tôi hứa điều đó. Tối mai tôi qua gặp bác. Tôi chỉ muốn làm thơ. Thời buổi giặc giã…

Đêm ấy, tôi lại suy nghĩ liên miên. Thái độ lão Tư Hiếm làm cho tôi ái ngại. Dường như lão quá sợ. lần thứ nhứt lão nài nỉ tôi đừng tiết lộ chuyện lão nói xấu Tây. Phen này, lão hốt hoảng khi nghe đến chuyện ông đại điền chủ Henri Nhan muốn sưu tầm chuyện cổ tích. Nỗi lo sợ đó thật khó hiểu. Trong phút giây, tôi muốn từ khước công việc làm mà ông Henri Nhan sắp giao phó. Nhưng tôi cần tiền, chẳng lẽ tôi bắt buộc ông chủ nhà phải nai lưng đạp xe ba bánh từ tháng này qua tháng kia để nuôi dưỡng một thanh niên tay chân đầy đủ như tôi. Nàng Thơ sống chẳng cần cơm áo, nhưng muốn tao ngộ với nàng, kẻ phàm tục cần sống nhiều năm bằng cơm áo tối thiểu để chờ đợi phút giao cảm, ngàn năm một thuở. Hơn nữa, tôi tin tưởng nơi bản chất hiền hòa và sự ân cần của bà Henri. Khách yêu thơ chẳng lẽ nhẫn tâm giết thi sĩ! Trên con đường tranh danh đoạt lợi, bà ta chẳng cần đạp lên trên xác chết của tôi và xác chết của lão Tư Hiếm mà làm gì.

Mặt trời mọc cao hơn một sào khi tôi giựt mình thức dậy.

Đằng kia lão Tư Hiếm đi tới lui trong ngõ hẻm như ngóng chờ tôi. Thay quần áo xong, tôi hối hả lên đường, sợ trễ mặc dầu hồi sáng hôm qua bà Henri Nhan chưa nói rõ giờ khắc làm việc. Lão Tư Hiếm tằng hắng rồi ho lớn. Tôi đến bên lão để trấn an:

– Tôi hứa chắc mà, bác vững bụng đi. Bác cũng đừng cho chòm xóm biết tôi có công việc làm tại nhà ông ấy. Ngày hôm qua, tôi nói dối chủ nhà rằng tôi mới lãnh chút ít tiền của nhà báo từ Sài Gòn gởi xuống. Chưa chắc ông Henri mướn tôi làm việc lâu ngày đâu! Không chừng lát nữa ông ta đuổi tôi. Sáng nay, tôi như người đi dạo mát để giết thì giờ.

Lão gật đầu, mỉm cười:

– Đâu phải vậy. Thầy gặp cơ hội tiến thân, tôi mừng, cầu chúc thầy gặp may mắn, tiền bạc khá giả chớ! Tôi nào dám ngăn cản thầy.

Lại một sự hiểu lầm nữa. Hết sợ ông cò Tây, lão sợ ông Henri Nhan rồi giờ đây lão sợ đến tôi. Chẳng lẽ đứng lì ở đây để thanh minh một trường hợp chưa rõ rệt? Tôi lại kiếu từ, đi phăng phăng đến đường Mé Sông.

Lần này chị ở nhanh nhẹn mở cổng, dẫn tôi đi thẳng vào dãy hành lang khá rộng nối liền biệt thự xuống nhà bếp.

Bà Henri Nhan ngồi dựa lưng trên chiếc ghế mây, nhìn tôi nhưng tay vẫn nâng tờ báo.

– À, chào ông, ông làm việc tại chỗ này cho mát mẻ. Chị ở châm cà phê đem lên bây giờ. Nè ông, kỳ này báo Paris Match hay quá.

– Dạ, tin tức mới mẻ về chiến sự Việt Nam, thưa bà.

– Tôi ghét giặc giã lắm. Dầu là phim hát bóng nói về giặc giã. Tôi chú ý điều khác vui vẻ hơn… Vợ chồng quận chúa Anh Quốc rủ nhau hưởng tuần trăng mật tận giữa rừng già Nam Phi Châu, nơi loài người chưa đặt chân đến lần nào. Một vị tù trưởng nọ huy động dân bổn xứ xây cất một cái “thum” khá to cheo leo trên ngọn cây. Trong “thum” sắp đặt một cái giường nệm, bàn uống rượu, máy thâu thanh, máy hát và tư bề có giăng lưới mành mành để ngăn cản lũ muỗi sốt rét tsé-tsé… Thổ dân đem vài con ngựa rằn, buộc vào chân cây để làm mồi. Tối đến dưới ánh trăng rằm, vợ chồng quận chúa uống rượu, vặn máy hát nghe hòa âm Beethoven, thỉnh thoảng liếc mắt xuống chân cây ngắm từng cặp sư tử đang gào thét để tranh nhau ăn thịt ngựa rằn. Đêm về khuya, bọn sư tử vẫn còn nằm đó mơ màng. Có lẽ chúng nó say mê âm hưởng nhạc cổ điển hồi thế kỷ mười tám của Beethoven. Phóng viên nhà báo đã săn được những bức ảnh ly kỳ ấy, ghi chú là “Beethoven giữa rừng Nam Phi Châu”.

Ly cà phê đã mang đến. Bà mời tôi rồi nói tiếp:

– Bà quận chúa năm nay bốn mươi tuổi mà trẻ măng như minh tinh màn bạc. Bà có tật thích ăn nho tươi, thứ nho đen trồng tại Tây Ban Nha. Bà quận chúa cười, lộ hai núm đồng tiền… rõ ràng.

Tôi vừa nghiêng đầu tới phía trước cho gần trang báo hơn, chợt nghe chị ở nói:

– Thưa ông, ông tôi mời ông nói chuyện riêng.

Bị giựt mình vì lối xưng hô bất lợi ấy, tôi nghiêm mặt, nói với chị ở:

– Chị cứ gọi tôi bằng “thầy” cho tiện. Tôi làm công như chị chớ đâu phải làm chủ mà kêu tôi bằng ông.

Bà Henri Nhan thấm ý, cười mủm mỉm:

– Ông thi sĩ ưa thắc mắc quá. Ừ, ông vào trong phòng xem nhà tôi nói gì.

Bấy giờ tôi mới hiểu cái tật mang vớ kinh niên của ông Henri Nhan. Ông ta thú nhận mắc bệnh tê thấp từ hơn mười năm, rồi than phiền thời vận nước nhà, nhân tình thế thái, người Pháp chưa hiểu rõ hoàn cảnh của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, ông cố gắng tranh đấu tới cùng để giữ… “thể diện dân tộc”.

– Ông thi sĩ hãy noi theo khuôn mẫu quyển sách này, đọc kỹ dàn bài. Còn đây, miếng giấy nhỏ tôi ghi chú ngày sanh tháng đẻ, bước đường lập thân tiến thủ của tôi lúc nhỏ. Ông ra ngoài bàn, thảo vài trương, lát nữa trình cho tôi xem.

Thật là mệt trí, khó xử. Suy nghĩ hơn mười phút rồi mà trí óc của tôi ngày càng tối om. Quyển tiểu sử làm mẫu nọ nhan đề “Từ Dũ Hoàng Thái Hậu truyện” của Nguyễn Liên Phong, phụng lược dịch, do nhà F.H. Schneider in từ năm 1913. Bìa sách trình bày lối xưa có hai con rồng chầu; hai câu đối được ấn công sắp từng chữ, từ trên xuống dưới theo kiểu viết liễn:

Cội nền vững chắc, nước Nam Việt trường xuân

Tánh nết hiền lành. Phật Quan Âm tái thế.

Trước khi vào bài, người biên soạn đã sắp xếp một loạt năm sáu bài tựa, viết theo lối biền ngẫu.

Bà Henri nói nhanh:

– Để ông làm việc. Ông nhái theo sách xưa cho êm chuyện. Đừng suy nghĩ nhiều mất công. Cứ viết đại cho vừa lòng ổng. Ông thấy thế nào?

– Dạ, làm sao so sánh công đức của ông nhà với bà Từ Dũ được? Bà Từ Dũ, mẹ của vua Thiệu Trị, đã dạy vua Tự Đức trở thành đấng minh quân. Vả lại, tiểu sử của đàn bà khác với tiểu sử của đàn ông, thời xưa khác với thời nay.

– Ông cứ liệu chừng vậy; theo ý kiến riêng của tôi, đàn ông đàn bà đều như nhau, bất luận xưa hay nay. Đàn bà lần lần giống như đàn ông, đàn ông lại giống như đàn bà về thói ăn nết ở, công danh sự nghiệp. Xã hội ngày một tiến mà. Ông tùy ý.

Nói xong, bà Henri lên phòng khách. Tôi ngồi trơ trẽn một mình, nhìn lơ đãng ra ngoài vòng rào bên kia. Vẫn hai cái họng súng đen ngòm; vài tên lính Lê Dương tới lui. Nhưng tiếng ho sù sụ trong phòng nhắc nhở tôi trở lại nhiệm vụ. Chắc chắn ông Henri Nhan đang nóng lòng chờ đợi. Tôi căn cứ vào mớ tài liệu của ông, cúi đầu viết thao thao lấy lệ.

– Xong rồi chớ?

Tôi day lại:

– Thưa ông, chưa xong hẳn. Mới viết tạm vài trang để chờ ông sửa lại.

Ông Henri ngồi xuống chiếc ghế bành bằng mây, châm điếu thuốc:

– Cứ đọc nghe thử.

Tôi lần lượt trình bày:

– Quyển sách sẽ lấy nhan đề “Mỹ Lâm nhân vật: Ông Henri Nguyễn văn Nhan” mở ngoặc: 1897 đến năm… chấm, chấm, chấm… đóng ngoặc lại (1897…) Vì ông vẫn còn sống.

Ông Henri hé nụ cười:

– Đắc-co!

– Mở đầu ở trang 5, tôi dẫn hai câu châm ngôn: Muốn là được (Vouloir c’est pouvoir) và “Người đời muôn sự của chung. Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”.

– Hay lắm. Một câu Pháp, một câu Việt Nam. Tây Phương và Đông Phương hòa hợp với nhau. Ông ghi rõ câu trên của Victor Hugo, câu dưới là ca dao thuần túy Việt Nam.

– Phía trước hai câu này, thưa ông, tôi muốn để hai trang trắng dành cho người đề tựa.

– Được quá, danh dự đề tựa ấy tôi xin trao cho quan tư Ca Rê.

– Và đây, phần tiểu sử: Ông Henri Nguyễn văn Nhan sanh vào ngày… tháng… âm lịch Ất Dậu… tính dương lịch nhằm mười sáu Avril năm một ngàn tám trăm chín mươi bảy. Thân phụ của ông là Nguyễn văn Mổ ở làng Đức Mỹ, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam vào lập nghiệp ở Bình Dương (Gia Định) kết hôn cùng bà Vương thị X., rồi hạ sanh ông tại Tân Lộc Thôn, nay đường X, Sài Gòn.

Vì cha mẹ đều qua đời quá sớm, năm chín tuổi ông được người cô đem về làm dưỡng tử cho học chữ nho. Năm ông mười hai tuổi cô đến Cần Thơ mua bán, ông vào tiếp tục học trường bổn quốc Cần Thơ đến năm thứ hai ban Trung học…

Bàn tay ông Henri Nhan khoát nhẹ, ra dấu bảo cho tôi ngưng lời. Thật ra trang giấy cũng chẳng còn chữ nào mà đọc; ông lắc đầu, cau có:

– Chưa được! Về quê quán và trường hợp vào đất Gia Định của cha mẹ tôi, ông thi sĩ hãy tự ý tô điểm thêm, rồi nói rõ: vì lý do yêu nước, chống Pháp hồi thế kỷ vừa qua. Người Pháp bây giờ muốn làm bạn và nâng đỡ những người Việt Nam thuộc dòng máu khẳng khái đã dám chống đối họ trong quá khứ… Hơn nữa, lúc đi học, tôi phải tỏ ra thông minh hơn các bạn đồng môn. Và tôi phải bỏ học nửa chừng vì lý do làm quốc sự, cho “ngon” một chút!

Tôi lộ vẻ ngạc nhiên:

– Thưa ông, như vậy e phật ý nhà cầm quyền Pháp. Rủi bề gì ông còn có người che chở; riêng tôi thì mang vạ lây. Ông hồi đó theo gương chí sĩ nào?

– Thi sĩ này ngớ ngẩn quá! Cứ viết rằng tôi chống Pháp hồi năm một ngàn chín trăm hai mươi sáu gì đó theo tài liệu lịch sử cách mạng Việt Nam.. để ông quan tư Ca Rê hãnh diện. Còn bây giờ, đối với quân đội Pháp, sau Đệ nhị Thế chiến…

Có người bấm chuông ngoài cửa. Chị ở mang vào tấm danh thiếp. Ông Henri lập tức đứng dậy, nói vói lại:

– Tôi qua ông quan tư Ca Rê có việc cần. Cái “áp phe” ở điền Mỹ Lâm của tôi sẽ thành công trong vài ngày. Để nhà tôi đến chỉ dạy ông thêm. Nhớ viết gấp lên. Phần thứ nhì của đời tôi mới là quan trọng, quyết định. Nãy giờ, chỉ mới là cái phần giáo đầu tuồng… Ông phải cố gắng, tranh thủ thời giờ.

Từ nhà trên, bà Henri trở xuống mân mê tờ báo Pháp:

– Công việc tiến hành như vậy được chớ! Ông thi sĩ đừng cãi với nhà tôi làm gì. Ban nãy, dường như ông thi sĩ cãi một đôi lần. Nguy lắm. Nhà tôi chẳng bao giờ chịu nhìn nhận rằng mình kém thông minh hơn một kẻ khác. Ông thi sĩ chớ nên nói câu nào đá động tới vấn đề chánh trị, rủi nhà tôi vui miệng rồi tên tuổi của ông lại thấu tai nhà binh Tây. À, trưa rồi, ông cứ về nhà viết tô đậm thêm, khen ngợi… cho ổng xong cái “áp phe”. Tôi nhức đầu lắm.

Gương mặt khổ sở, dằn vặt của lão Tư Hiếm đột nhiên hiện ra. Tôi linh cảm mơ hồ rằng cái “áp phe” này khá rắc rối. Các ông đại điền chủ thường núp oai của nhà binh Pháp để bảo vệ cái tài sản “cò bay thẳng kiếng” của họ. Tuy không sống bằng nghề nông, tôi vẫn cảm thông mơ màng với nguyện vọng “có đất cặm dùi” chánh đáng của nông dân. Biết đâu tôi sẽ tìm thêm nhiều thi tứ mới: những cô thôn nữ tươi vui hơn, những con trâu tơ mập mạp hơn… Nhưng khó hiểu quá! Đứng về quyền lợi thực tế mà xét, nếu tá điền ở Mỹ Lâm đều tản lạc, còn chừng mười lăm gia đình – theo lời lão Tư Hiếm – thì ông Henri Nguyễn văn Nhan vận động với nhà binh Pháp để hưởng huê lợi gì. Thừa lúc bà Henri Nhan lơ đãng, tôi giả vờ hỏi, vô tình:

– Thưa bà, ở Mỹ Lâm bây giờ chắc sung túc lắm?

Bà cười giòn:

– “Khỉ ho cò gáy” chớ sung túc! Còn một cái miễu thờ một pho tượng đá, ông chúa bà chúa gì đó. Ruộng bỏ hoang đâu hồi năm ngoái năm kia. Ông quan tư Ca Rê muốn khảo cứu cái pho tượng đá xưa đó tại chỗ, luôn dịp sưu tầm phong tục dân chúng cũng tại chỗ cho xác thực, khoa học. Nhà tôi muốn nương cơ hội ấy xây dựng thanh thế, nhờ Tây đóng bót… cho tá điền biết mặt! Tôi can ổng hết lời. Thà đi Sài Gòn mua bán xuất nhập cảng gì đó làm giàu mau hơn, ít nguy hiểm hơn… Một đồng bạc Đông Dương ăn tới mười tám quan. Thôi ông về, viết theo ý của nhà tôi, nếu chiều nay trời mưa ông cứ viết tiếp phần sau. Đại khái, rời nhà trường, nhà tôi thấy vùng đất Mỹ Lâm, xóm Mốp Giăng còn âm u hoang dại, đầy chuột, đầy bưng sen, bưng bông súng… vân vân. Ông cứ tự do làm thơ ở phần đó.

Bà đứng dậy, trao cho tôi năm tấm giấy một trăm đồng rồi gọi chị ở mở cổng. Tôi lưỡng lự muốn trả bớt lại hai trăm, nghĩ thầm rằng lãnh tiền càng nhiều, lương tâm càng bức rức. Tôi liên tưởng đến những câu hỏi thăm dò của lão Tư Hiếm khi gặp mặt vào trưa nay. Gương mặt lão chắc chắn trở nên lo âu, bí hiểm với nụ cười gượng gạo, gợn chút gì mỉa mai rõ rệt.

– Ông muốn xem số báo này à? Báo bên Pháp gởi riêng cho ông quan tư. Tôi sẵn sàng cho mượn, ngặt bất tiện cho ông. Người lối xóm, họ dòm ngó. Cái xóm Biển, lô A của ông hẻo lánh quá, từ đây tới đó hơn một ngàn thước mà chẳng bao giờ tôi dám tới, bởi vậy hôm trước tôi phải gởi thơ cho ông theo đường bưu điện. Báo kỳ này hay lạ: “Nhạc Beethoven giữa rừng Nam Phi Châu”. Lá tử vi của ông bà quận chúa Ăng Lê tốt thật. Không hiểu họ sanh nhằm giờ nào, ngày nào, năm nào, cung nào? Phần tôi, hồi nhỏ đã có lần đem dĩa nhạc Beethoven hát inh ỏi ở Miệt Thứ, ở Mốp Giăng, giữa rừng tràm, muỗi mòng, khỉ, rắn, cá lóc… Tạm gọi là “Nhạc Beethoven ở U Minh, ở Mốp Giăng” được không ông thi sĩ