← Quay lại trang sách

- III -

… Hăm ba tháng Mười, mưa dại gió may

Ngoài khơi Hòn Tre, chiếc tàu tuần chạy tới lui qua lớp mưa thưa, màu cờ tam tài lu mờ chỉ còn hiện lên một đốm đỏ lợt lạt. Đoàn ghe lưới nằm lúc lắc trên bãi bùn, con mắt sơn trước mũi ghe trông phờ phạc như con mắt cá chết. Sóng đánh từng hàng dài trên mặt biển dâng cao, gợi hình ảnh những luống cày quanh sườn đồi… Trước khi tan vỡ trên bãi bùn, bọt sóng vung ra, rơi lấm tấm trên ngọn mấy cây bần đã bị ngập mất gốc mất cành.

Nhà của lão Tư Hiếm day mặt theo hướng gió xuôi, cửa cái vẫn mở; lão bắc ghế ngồi sát hàng ba, làn khói thuốc tuôn thoăn thoắt vươn mạnh lên bầu trời quá thấp.

Nhà của tôi bên này đâm ngang lưng gió, mưa hắt thỉnh thoảng đưa từng luồng ướt át. Tôi vói tay khép cửa lại. Chắc chắn lão thừa hiểu rằng tôi đã về nhà. Đúng ra, tôi phải đích thân đến gặp lão từ hồi trưa, liền sau khi rời khỏi nhà ông Henri Nhan. Nhưng gặp để nói chuyện gì? Kế hoạch trở về Mỹ Lâm của ông Henri Nhan chưa có gì rõ rệt, quan tư Ca Rê sẽ áp dụng chiến thuật nào? Vào ngày giờ nào? Tất cả thuộc về phạm vi bí mật quân sự. Biết chừng đâu quan tư Ca Rê hứa ẩu để làm vừa lòng một “nhân vật bổn xứ”; lực lượng Lê Dương cần được sử dụng ở những trường hợp thiết yếu; “đại sự” hơn. Vả lại, lão Tư Hiếm chẳng còn tài sản nào ở Mỹ Lâm cả. Một mình lão tài nào chống nổi, nếu muốn chống lại.

Trận mưa dai dẳng bên ngoài đem tới cho tôi một duyên cớ để trì huỡn việc gặp mặt lão Tư Hiếm. Lật qua lật lại mấy trang giấy hồi sáng, tôi hút nối đuôi một lượt ba điếu thuốc rồi viết sạch sẽ cho xứng đáng với số tiền nhận trước năm trăm đồng.

“Ông Henri Nguyễn văn Nhan sanh ngày… năm… Thân phụ là cụ Nguyễn văn Mổ, người làng Đức Mỹ, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, đậu Cử nhân kỳ thi Ất Mão tại trường Tứ Quảng, sung Cẩm Y Vệ Thị Lang, sau thuyên chuyển vào đất Gia Định nhận chức Vệ úy trong cơ binh của quan Tổng đốc Nguyễn văn Mỗ. Nhơn thành Gia Định thất thủ, ngài Vệ úy treo ấn từ quan, ẩn sĩ qui điền không chịu hợp tác với tân trào, về mở trường dạy học tại Phú Cường, Bình Dương. Dịp này cụ sánh duyên cùng bà Vương Thị… hạ sanh được một đứa con trai duy nhất đặt tên là Nguyễn văn Nhan, tự Nhàn Vân, biệt hiệu Nhật Luân.

Lúc còn nhỏ, ông Nguyễn văn Nhan tỏ ra thông minh dĩnh ngộ hơn người, mới tám tuổi đã thuộc làu Tam Tự Kinh, Minh Tâm Bửu Giám. Trong hoàn cảnh mồ côi cha mẹ quá sớm, ông luôn luôn phấn đấu lập thân, tiết kiệm tiền ăn quà để mua sách vở cố theo chương trình sơ học tại tỉnh nhà (Bình Dương). Ông Đốc phủ sứ Trần văn M. bạn đồng môn của ông hồi xưa còn nhớ lại một giai thoại kỳ thú: Phen đó, thầy giáo bày cuộc thi thủ công, đầu đề: chiếc tàu thủy. Các học sinh được dịp trổ tài. Đứa này đóng tàu bằng giấy bồi, dùng keo dán mấy kẽ hở, cắt ống trúc làm ống khói. Đứa kia – con nhà khá giả – được cha dẫn ra tiệm bán sắt tây, bày kiểu cho thợ đóng tàu nhỏ bằng thiếc, trong tàu có bố trí cái nồi “sốt de” tí hon, khi đốt ngọn đèn cầy lên, nước sôi thổi hơi ra đẩy chiếc tàu tiến tới.

Ngày chấm thi, thầy giáo đặt một chậu nước khá rộng giữa sân. Chiếc tàu bằng giấy bồi lần lần chìm vì keo rã. Riêng chiếc tàu chạy bằng hơi nước đáng chú ý hơn hết nhưng các học sinh nhao nhao phản đối vì nó do người lớn tuổi chế tạo. Đến lượt ông Nguyễn văn Nhan trình bày chiếc tàu của mình. Thân tàu chỉ là một khúc cây mốp (gỗ nhẹ) tiện sơ sài. Thầy giáo phê phán: “Nó không chìm, nó được chính tay học sinh tạo nên nhưng nó không xê dịch được”. Tức thì ông Nguyễn văn Nhan móc trong cái lon thiếc đem ra một con tôm còn sống nhăn. Ông cắm cái gai to lớn ở đầu con tôm vào phía sau lái tàu. Ai nấy trố mắt; chiếc tàu vừa thả xuống, tức thời con tôm nọ búng mình… mũi tàu phóng tới rẽ sóng, xắn vào vành cái thau, dội trở lại, chuyển qua hướng khác rồi vẫn xắn tới. Các học sinh vỗ tay, hò reo tán thưởng kiểu “tàu… con tôm”, chạy máy tự động ấy. Thầy giáo phải mệt nhọc lắm mà không kéo các học sinh trở về vòng kỷ luật được. Quan đốc học hoảng hốt chạy tới, thay vì rầy la các học sinh, ông tìm cậu Nguyễn văn Nhan, khen ngợi nức nở: “Trò đây quả thật là ông trạng Lương Thế Vinh tái sanh. Ngày xưa Lương Thế Vinh lúc còn bé đã biết đổ nước xuống lỗ để đem trái bưởi lên. Ngày nay, trò sáng chế ra kiểu tàu… tự động này, tài trí đâu kém?”.

Khi theo học năm thứ ba ban Cao tiểu, ông Nguyễn văn Nhan tuy thường được ghi tên vào bảng danh dự của toàn trường về đạo đức, về năng lực nhưng ông lại tỏ vẻ tư lự, đăm chiêu. Ông bắt đầu làm thơ, gởi đăng các báo ở Sài Gòn với nội dung thán phục các vị anh hùng cứu quốc kim cổ, từ Đông sang Tây: Gởi chiến sĩ mười bốn Juillet phá ngục Bách Ti, Vịnh ông Tôn Văn, Tâm sự Thủ khoa Huân… Nhơn phong trào lạc quyên ủng hộ các học sinh Đông Du do quan phủ Gilbert Trần Chánh Chiếu đề xướng, ông Nguyễn văn Nhan đã nhịn ăn quà sáng, gởi giúp được một đồng bạc trong thời kỳ giá lúa mười lăm xu một giạ.

Nhà cầm quyền thực dân đâu để yên cho chàng thanh niên giàu nhiệt huyết ấy. Sở Mật thám Pháp gây áp lực, khiến quan giám đốc ra lịnh đuổi ông Nguyễn văn Nhan khỏi trường. Chán nản, ông đi ngao du sơn thủy, lê gót lãng du khắp Hà Tiên, Bạch Mã, đảo Phú Quốc… tìm cơ hội khác hầu gióng hồi chuông cảnh tỉnh bé nhỏ, khiêm tốn nhưng hữu hiệu cho quốc dân…”.

Mưa chưa tạnh. Ăn xong cơm chiều, tôi nằm im nghe sóng biển vỗ ầm ầm lên bãi. Ngọn đèn dầu leo lét bỗng phựt lên cao hơn ống khói, gió biển tạt mạnh qua khe cửa hé mở.

Lão Tư Hiếm bước nhanh vào, vuốt mấy giọt nước trên mặt:

– Ở nhà một mình buồn quá, tôi qua đây thăm thầy. Mưa gì mà mưa hoài. Ở miền biển, thầy thấy điều gì đặc biệt không? Nước mưa trên mặt mình, nó mặn đắng như nước biển.

Tôi đáp:

– Có lẽ chất mặn của mồ hôi thấm lâu đời trên trán mình, thưa bác.

Lão gật đầu, cúi mặt xuống tránh ánh đèn, hồi lâu mới nói:

– Bữa nay, thầy làm việc rồi chớ? Ông chủ Nhan mướn thầy viết chuyện đời xưa ở Mốp Giăng, ở Mỹ Lâm thiệt sao?

Tôi ái ngại, che giấu một tiếng thở dài rồi cố ra vẻ hồn nhiên:

– Dạ, thiệt chớ. Chiều nay tôi ở nhà viết. Ổng căn dặn tôi tả lại vùng đất hoang ở Mốp Giăng ngày xưa, nào chuột, nào bưng sen, cảnh nê địa trước khi ổng tới khai khẩn. Nếu còn nhớ rõ cảnh xưa, nhờ ông giúp tài liệu. Tôi viết nhắm chừng, hồi nào tới giờ chưa từng tới Mốp Giăng.

Đột nhiên, lão day mặt lại:

– Vùng Mốp Giăng đã trở thành “đất thuộc” từ lâu rồi. Ổng tới làm chủ lúc sau này. Ổng chẳng bao giờ thấy chuột bầy, thấy bưng sen gì ráo! Miệt Mốp Giăng xưa kia do nhiều người tứ xứ tới mạnh ai nấy khai phá, cắm ranh, khai diện tích sơ sài rồi đóng thuế cho làng… Dè đâu… Thôi… tôi nói ít, thầy ăn học nhiều, chắc hiểu rộng hơn. Nếu tôi nói lỡ lời, thầy bỏ qua cho.

Lại chuyện cường hào ỷ thế thực dân Pháp, cưỡng chiếm đất đai! Thời xưa, lắm tay mưu sĩ lên Sài Gòn xin khẩn những “lô” đất chưa có ai đứng tên trong địa bộ quản hạt rồi họ mướn người chuyên về trắc địa đến quy định ranh giới. Lô đất ấy nghiễm nhiên thuộc về quyền sở hữu của họ. Đứng về mặt pháp lý thực dân phong kiến, mảnh vườn đất nhỏ của người nông dân “tiền phong khai hoang” mặc nhiên bị sáp nhập vào đồn điền của kẻ đến sau nhưng hiểu rành về quy chế điền địa hơn.

Tôi đánh tan bầu không khí oi bức nọ, đưa câu chuyện trở lại địa hạt khác, êm dịu hơn:

– Thưa bác, chuột ở Mốp Giăng hồi xửa hồi xưa chắc nhiều lắm? Mấy bưng sen còn không? Mỗi bưng rộng bao lớn? Nhiệm vụ tôi là viết chuyện đó cho ổng.

– Thầy cho tôi điếu thuốc. Hồi tôi còn nhỏ, tôi thấy dân chúng Mốp Giăng sống nhờ chuột. Mùa nước nổi, chuột cắn đuôi nhau nối liền thành một sợi dây dài, chẳng biết nó từ xứ nào tới để đi về đâu. Tụi nó lội chập chững, con này nương sức của con kia… Mỗi tháng, mình gặp năm sáu bầy như vậy. Nước giựt xuống, chuột làm ổ, trời sa mưa, cỏ non mọc nhú lên, tha hồ xây rọ mà bắt. Cứ dùng đăng sậy bao chung quanh một vùng cỏ lớn rồi lần lần mình siết vòng vây… bắt hàng trăm con. Mình ăn thịt chuột trừ cơm. Chuột bị chặt đuôi, lột da nằm dài trông thật giống con heo con… Thôi thì chuột rô ti, chuột bằm nhỏ xào lá cách lá lốt, chuột kho tiêu. Ăn không hết, mình bày ra khô chuột, treo lủng lẳng hàng trăm con từ trên kèo nhà. Lại còn mắm chuột nhận đầy lu, mỡ chuột thắng đầy hũ. Đèn thắp bằng mỡ chuột, sáng lắm… Nghe nói lâu lâu có người gặp con chuột bạch ngậm trong miệng “hột ngọc chuột” sáng ngời… Ôi thôi! Chuyện con chuột kể tới sáng thầy nghe không hết.

– Còn cái bưng sen ngày xưa?

– Nó còn hiển hiện đó. Rải rác đôi ba mẫu đất, đầy loại sen bạch, sen hồng. Cuối mùa mưa, gương sen cằn cỗi, hột sen khô nổi lình bình đen mặt nước; mình cứ đem thúng mà xúc, mỗi người xúc một buổi sáng hằng năm sáu chục lít đem bán cho Huê kiều… Nhưng dân mình ưa làm ruộng hơn là xúc hột sen.

– Dạ thưa bác, tại sao bây giờ hết chuột?

– Mấy năm sau thiên hạ làm ruộng nhiều nơi, chuột chia nhau tứ tán kiếm ăn, mỗi bầy đi một chỗ. Hồi xưa chuột đói vì ít ai làm ruộng. Đám ruộng nào bị tụi nó bu lại, kể như còn rơm trơ cọng.

– Còn sen? Tôi tưởng mình nên để vài lõm xem chơi. Sen mọc nhiều, hao đất quá.

– Nó là thứ xa xí. Muốn trừ sen, thêm đất làm ruộng, mình phải đào kinh cho nước rút bớt… Nói chí miệng, ông chủ Nhan hồi đó muốn mở mang đất đai lắm, ngặt ổng ít vốn. Ổng hứa với tá điền: nếu ai nấy đều góp lúa đầy đủ cho ổng, ổng mua thêm vài chục ngàn mẫu đất nữa cho bằng điền Tây của ông Kho… Ngặt vì… vợ lớn của ổng chết, ổng buồn. Hai vợ chồng không con. Rồi cưới bà sau này, cũng không con…

Lão chép miệng, hút điếu thuốc nữa:

– Thôi tôi về, khuya rồi. Lát nữa sợ mưa lớn.

Thấy câu chuyện còn hấp dẫn, tôi mời lão ở nán. Lão từ khước:

– Hút thuốc vấn không quen, để tôi về bển hút ống điếu cây ớt núi. Tháng rộng ngày dài, mai chiều tôi nói thêm. Chỉ sợ thầy không muốn nghe. Còn nhiều chuyện ở Mốp Giăng, ngậm ngùi lắm!

– Bác cứ nói. Tôi đi lấy cái ống điếu qua đây cho bác. Hay là tôi qua nhà bác cho tiện.

– Phải à! Thầy qua bên tôi đi. Hồi chiều tới giờ mảng lo nói chuyện, tôi quên thắp nhang.

Mưa cứ rơi đều đều. Đèn đường phía chợ ửng sáng một vầng quá rộng. Biển đen ngòm, bãi bùn, sóng nước và Hòn Tre lẫn lộn dưới vòm trời thiếu trăng. Lão Tư Hiếm vào nhà trước. Tôi bước vào chậm hơn, đưa tay đóng cánh cửa lại cho bớt lạnh. Lão nói nhanh:

– Ban đêm đóng cửa nói chuyện rì rào trong nhà, thiên hạ hồ nghi. Cứ để vậy.

Thắp nhang xong, lão hút thuốc uống trà, hớp từng hớp một.

– Tôi còn câu chuyện cổ tích này, liên quan tới cái ngôi đình làng không bao giờ xây cất ở làng Mỹ Lâm, trong điền ông chủ Nhan.

Tôi gật đầu, lộ vẻ nóng nảy:

– Tại sao chẳng bao giờ xây cất? Làng Mỹ Lâm quá nghèo à? Lạ vậy!

– Số là năm đó, lâu lắm rồi… Hồi còn bà chủ trước lận kia, hồi ông chủ Nhan… chưa làm điền chủ, ổng còn là hương quản, ngày hai bữa đạp xe máy lại nhà việc. Ruộng trúng ba bốn mùa liên tiếp, dân làng ai nấy mừng vui ăn tết tưng bừng, cờ bạc suốt tháng Giêng qua tháng Hai. Ngày rằm tháng Giêng, mấy ông kỳ lão đành bơi xuồng ra chợ Rạch Giá, thuộc làng Vĩnh Thanh Vân để dự lễ kỳ yên lạy tạ Thành hoàng bổn cảnh, thay mặt giùm cho dân làng Mỹ Lâm. Thật là mất thể diện. Tại sao làng Mỹ Lâm lại chẳng cất được một ngôi đình riêng biệt? Nghĩ vậy, ai nấy hùn tiền kẻ ít người nhiều. Ông chủ Nhan – hồi đó là hương quản Nhan – được cử làm thủ quỹ vì trong tổng số năm ngàn đồng lạc quyên, phần ông góp tới hai trăm đồng, nhiều hơn mọi người khác. Người lãnh thầu mua về một mớ gạch đá, rồi xin lãnh thêm tiền để mướn nhân công, mua thêm vôi cát, xi măng. Rủi thay, đêm nọ người thầu bị bọn cướp giết chết trên đường về Rạch Giá. Hương quản Nhan đến nơi làm “ăn kết” chạy tờ về quan trên để cho biết: xác người thầu nọ chẳng có một đồng xu dính túi! Mặt khác, nhơn danh thủ quỹ, hương quản Nhan trưng ra hai cái biên nhận tổng cộng bốn ngàn chín trăm năm mươi đồng do người thầu ký tên, lãnh trước rồi… Dân làng nhìn nhau, lắc đầu, bàn tán thì thầm.

Tôi hỏi nhanh:

– Họ hồ nghi ông chủ Nhan sắp đặt giết người thầu để giựt tiền lại?

Lão ung dung hút thêm điếu thuốc, im lặng giây lâu:

– À, thầy đoán chừng như vậy thì tôi nghe vậy. Tôi đâu dám nói gì hơn. Ai đã mắt thấy tai nghe… mà đề quyết thủ phạm là ai! Chỉ biết vài tháng sau, hương quản Nhan xin từ chức, đi Sài Gòn rồi trở về làm chủ của “lô” đất đã có sẵn huê lợi ở Mốp Giăng. Ổng thề chẳng bao giờ đứng ra góp tiền cất ngôi đình khác. Ổng muốn tránh tiếng dị nghị của người đời khi có cuộc lạc quyên thứ nhì. Ổng nói “Thà cất riêng một cái miễu trong điền để tạ ơn đất nước, do tiền túi của một mình tôi xuất ra thôi”.

– Cái miễu đó còn không?

– Còn chớ. Linh hiển lắm. Tôi nói cho thầy nghe hồi bữa hổm rồi mà. Thờ Chúa Ngung Ma Nương. Mai mốt nhứt định ông chủ Nhan nhắc tới tích đó. Tôi nhớ mờ ớ vậy thôi. Nói nhiều quá, mình mang tội với người sống và người chết… Thầy đừng chép vô sách vở, nguy lắm.

Trở về bàn viết, tôi thao thức mãi. Đêm ấy, qua khe cửa, tôi thấy ngọn đèn chong bên nhà lão Tư Hiếm còn leo lét đến nửa đêm. Phải chăng lão cố tình đánh một đòn ly gián giữa tôi và ông bà Henri Nhan? Nhưng, đứng về phía của tôi mà xét, tôi cần tiền ăn cơm, tôi đã lãnh tiền trước của bà Henri Nhan rồi. Tôi tin rằng quyển tiểu sử mà tôi đang soạn thảo chẳng bao giờ in ra. Mà dầu có in thì cũng chẳng ai thèm đọc! Tôi thầm cám ơn lão Tư Hiếm đã nhắc nhở khéo léo cho tôi về ý thức tôn trọng sự thật, bất cứ về vấn đề gì. Câu chuyện ông Henri Nhan giết người rồi kiếm tiền đút lót cho quan Tây để khẩn đất tuy đáng chú ý nhưng tôi chưa vội tin, vì chính lão cũng bảo là còn trong vòng giả thuyết.

Đã quá một giờ đêm.

Viết gì bây giờ? Chuyện mắm chuột, chuyện hột sen. Và đừng đi xa hơn. Tôi ngáp dài, nhướng đôi mắt hơi cay, viết lia lịa, tùy hứng… nhưng trong khuôn khổ, tránh những chi tiết quá lộ liễu khiến ông Henri Nhan có thể hồ nghi rằng tôi đã liên lạc với người tá điền xưa nào của ông để tìm tài liệu.

Đúng như dự đoán của tôi, ông bà Henri Nhan rất hài lòng. Bà yêu cầu tôi ngưng đọc từng chập. Bà đập mạnh vào vai chồng:

– Ông trạng Lương Thế Vinh của tôi! Bấy lâu tôi làm bà Trạng mà không hay biết.

Ông cúi đầu nói lảng:

– Về khung cảnh chuột cắn đuôi nhau lội dài hàng mấy trăm thước, ông thi sĩ suy luận hay quá. Nhớ thêm thắt vài câu, nói lên vẻ đẹp hùng vĩ của miền núi Ba Thê. Xưa kia, thương cảng quốc tế; bây giờ, đất bồi… cả thời xưa huy hoàng vàng son đã chìm lĩm chẳng khác nào thành phố Pompéi ở Ý Đại Lợi bị lấp dưới lớp tro của núi lửa Vésuve.

Ông vuốt râu thò tay kéo đôi vớ lên sát đầu gối:

– Thời lai phong tống… Tôi tin rằng kỳ này mấy ổng dám giới thiệu tôi vô Hội đồng Liên-hiệp Pháp, đi du lịch chơi lai rai. Hằng năm chánh phủ Pháp sẽ đài thọ cho tôi hai chuyến du lịch để tìm hiểu các nước trong Liên-hiệp Pháp, khắp vòng quanh thế giới: nào Algérie, nào Guyane ở Nam Mỹ, nào Nouvelle Calédonie ở Thái Bình Dương…

Bà Henri mỉm cười:

– Tôi mơ ước đi vòng quanh thế giới. Như vậy vui hơn chớ về đồn điền ở Mốp Giăng làm gì. Huê lợi không có, suốt ngày quanh quẩn.

Ông nghiêm giọng, chỉ ngón tay thẳng vào mặt tôi:

– Thời giờ cấp bách lắm. Tôi hứa trưa mai nạp đoạn thứ nhứt của cái monographie vùng Mỹ Lâm cho ông quan tư Ca Rê. Ông thi sĩ chần chừ gì nữa? Ông nghe lời của nhà tôi à?

Day qua bà vợ, ông lẩm bẩm:

– Ngạn ngữ Tây có câu: Đàn bà tuy tóc dài nhưng tư tưởng của họ rất ngắn! Cái “áp phe” đất Mỹ Lâm với cái tương lai của Hội đồng Liên-hiệp Pháp đi đôi. Hiện nay các nhà khảo cổ Tây phương đang chú ý về vùng núi Ba Thê. Ai tìm được điều gì mới lạ thời sẽ nổi danh, được thế giới chú ý. Nhưng muốn tìm được điều mới lạ, họ phải lạy lục tôi!

Ông Henri Nhan đứng dậy thở phều phào, gương mặt đỏ ửng với cái vẻ mệt mỏi của con ngựa già cố chạy đường khuya nước rút. Bỗng dưng, tôi quả quyết rằng: chính ông ta đã bố trí giết người thầu khoán năm xưa, theo lời thuật lại của lão Tư Hiếm! Bỉ ổi quá! Bà Henri cười hồn nhiên, chắc bà chẳng lạ lùng gì cái bản chất háo thắng của ông chồng. Thừa lúc ông đi thẳng lên nhà trên, bà nói khẽ với tôi:

– Cứ viết nhanh cho vừa ý ổng. Ông hãy xem như chuyện viết chơi chơi… kiếm tiền xài.

Tôi lẩm bẩm:

– Dạ rầu quá, tôi lỡ lãnh tiền rồi, bằng không thì…

– Ông cứ nghe tôi. Nếu ông rút lui, nhà tôi tìm cách gièm xiểm… ổng ưa thù vặt vô cớ… Ông đừng bực mình. Cái “áp phe” nọ chẳng đi tới kết quả gì đâu. Tôi nói, ông chờ xem… Chuyện “vọc nước giỡn trăng” tôi biết trước rồi. Tụi Tây đâu dễ gạt như nhà tôi tưởng…

Ngòi bút của tôi bắt đầu bay nhảy trên mặt giấy:

“Trước khi ông Nguyễn văn Nhan đến khai khẩn thì vùng thương cảng Ba Thê đã hoang tàn; đất phù sa hằng năm bồi lên, chôn vùi bao di tích của nền văn hóa xa xưa cổ kính của Đông Nam Á. Mùa nước nổi, từng đàn chuột cắn đuôi nhau mở cuộc ‘vạn lý trường chinh’ từ chân trời vô tận đến chân trời vô tận…

Nhưng khi ông đến, mấy đàn chuột ấy bỗng nhiên biến mất, chẳng bao giờ xuất hiện. Các bô lão địa phương bảo nhau: Ấy là điềm lành. Đất Ba Thê Mỹ Lâm đã đến thời hưng thịnh…”

Chị ở bước lại gần tôi, nói khẽ:

– Ông tôi mời ông vào trong phòng.

Tôi, cau mày:

– Hôm trước, tôi dặn chị kêu tôi bằng thầy, đủ rồi.

– Ông tôi cũng kêu ông bằng ông. “Thầy” sao khó tánh quá!

Tôi đi thẳng vào phòng ông Henri. Chắc rằng phía sau lưng tôi, bà Henri và chị bếp nhìn nhau mỉm cười. Nhưng thái độ tiểu nhân của tôi phát sanh do động cơ khác.

– Ông thi sĩ hãy ngồi chờ tôi tìm chuyện cổ tích Lộc Giác Chân Nhân trong quyển sách Tây do ông quan tư Ca Rê cho tôi mượn nghiên cứu. Đàn ông bọn mình ưa làm những việc mà đàn bà không ưa, tuy rằng chung qui mình chỉ lo lắng cho họ để rồi mình hưởng rất ít. Tôi muốn ông vào đây để tránh những câu nói đâm họng, làm “thối chí anh hùng” của nhà tôi. Và cũng để đứa ở khỏi tò mò. Ông ráng giữ bí mật. Ông quan tư Ca Rê lợi dụng, muốn nhờ tôi giúp cho vài món cổ ngoạn của thị trấn Óc Eo ở chân núi Ba Thê. Tụi Tây khảo cổ xưa kia chỉ mới đào bới sơ sài. Hồi năm một ngàn chín trăm bốn mươi mốt, gặp giặc Nhựt Bổn, tụi nó bỏ luôn không dám trở lại. Mấy món đó xưa trên một ngàn năm trăm năm, ông Ca Rê định kiếm vài kiểu đem về Tây, tặng cho người tình nhân là bà bá tước De L… Đồng thời ông ta muốn ghi chép vài phong tục địa phương mà giới khảo cổ chưa từng nói tới. Hiện giờ ở Mốp Giăng, tại điền của tôi còn miễu thờ Chúa Ngung, Ma Nương với pho tượng đá xưa và những người chuyên môn “lên xác”. Nếu mình trình bày rõ rệt, đủ sức hấp dẫn tức nhiên ông Ca Rê sẽ cao hứng mở cuộc hành quân cấp tốc tới Mốp Giăng để đóng đồn… Nhơn dịp đó, uy thế của tôi đối với các tá điền nhứt định tăng lên… Và ông Ca Rê sẽ đền ơn tôi xứng đáng, trong mức quyền hạn của ổng. Chuyện Lộc Giác Chân Nhân đây này. Đọc đi. Trong khi đó, tôi sắp xếp thứ tự. Bộ óc tôi cỡ này nôn nao, lộn xộn quá.

Chuyện Lộc Giác Chân Nhân rất ngắn, chiếm vỏn vẹn bốn trang sách khổ nhỏ, trong quyển tập Cổ tích An Nam, in bên Pháp hồi năm 1926… Tay tôi hơi run run. Cái “áp phe” Mỹ Lâm này rõ ràng là vấn đề máu lửa mà tôi và bọn lính Lê Dương đều đứng trong cuộc, họ bắt buộc đóng hẳn hòi những vai trò quan trọng. Tôi nhớ tới cái lon sữa bò đầy gạo để cắm nhang trên trang thờ Thái Thượng Lão Quân. Lão Tư Hiếm – con người vừa hiền hòa vừa bí hiểm – với vầng trán mặn mồ hôi sẽ nghĩ gì? Rồi đây quân đội viễn chinh Pháp dùng xe, dùng tàu sắt tiến vào Mốp Giăng giữa cảnh thiếu người, chỉ còn chuột, bưng sen với hơn mười gia đình, trong ấy có người cùi người mù – nếu lão Tư Hiếm không nói dối.

– Ông cứ kéo ghế qua ngồi sát bên tôi! Câu chuyện như vầy.

“Khi tôi mới khẩn đất hoang thì ở Mốp Giăng đã có sẵn, một cái miễu xiêu vẹo, cất trên gò đất cao bên gốc cây bàng cổ thụ. Miễu thờ bốn năm cục đá phủ vải đỏ bạc màu. Vì ít tin đồng bóng phù phép, tôi khuyên dân chúng nếu ốm đau thì cứ uống thuốc, đừng cúng kiến vô ích. Năm đó, một thiếu nữ bỗng nhiên nổi cơn điên xé quần áo, nói xàm, đi lang thang. Vài ngày sau thi thể cô ta bỗng nhiên nổi lên, trôi tấp vào chiếc cầu ván trước nhà tôi, một buổi sáng đại khái vào tháng Giêng năm 1937… Tôi xuất tiền mua hòm giúp việc ma chay. Sáng hôm sau, đến lượt một người trong xóm nổi cơn điên chạy tới trước miễu nọ múa men tay chân, tự xưng là Chúa Ngung, Ma Nương, vị thần đến khai khẩn vùng đất Mốp Giăng từ ngàn năm về trước đã chết rồi hóa đá. Thấy chuyện lạ tôi cầu xin Chúa Ngung, Ma Nương trình bày mọi thắc mắc. Người ‘xác’ vào miễu dở tấm vải, chỉ ngay một tượng đá, bảo rằng đó là tiền kiếp của mình. Pho tượng quá cũ, tạc hình một vũ nữ đang uốn mình, đầu đội mão vuông, chân mang vòng, tay cầm thếp đèn chong kiểu vũ nữ Chiêm Thành, Ấn Độ. ‘Xác’ lại ra lịnh cho tôi hằng năm phải cúng kiến, mướn lại đất của Chúa Ngung, Ma Nương trong vòng một năm. Thế là đứng về mặt tinh thần, tôi phải nhận mình là tá điền của kẻ khuất mặt, mặc dầu tôi nghiễm nhiên là chủ điền. Tôi đồng ý. Xác đòi ăn mắm sống, ăn xong ‘xác’ bảo tôi đem một tờ giấy trắng để trước miễu rồi ‘xác’ hái bốn nhánh cây, chạy băng ngang đồng ruộng suốt mấy chục cây số từ sáng tới xế chiều để cắm bốn nhánh cây xuống ở bốn góc. Lạ thay, ‘xác’ cắm ngay ranh đất đúng như trong tờ bằng khoán mà sở Quan thủ địa bộ đã cấp cho tôi.

Xác về miễu nhúng tay xuống bùn, áp vào tờ giấy rồi dạy tôi hằng năm phải làm lễ như hôm ấy, gọi là lễ ‘tá thổ’. Bằng không dân làng lần lượt phải bị Chúa Ngung, Ma Nương bắt chết như trường hợp người thiếu nữ điên nọ”.

Khổ tâm quá! Tôi đã đoán phần kết luận ngay từ khi ông Henri Nhan mới kể đến phân nửa câu chuyện. Tôi tin nơi trực giác của mình. Nhơn phong tục cúng Chúa Ngung, Ma Nương, ông Henri Nhan đã hành động khéo léo – khéo gấp bội phần kế hoạch giết người thầu khoán. Chúa Ngung, Ma Nương là vị thần gì… Sự thật ra sao? Tôi nóng nảy, đứng dậy định kiếu từ về tìm lão Tư Hiếm để nghe thêm một tiếng chuông khác.

Ông Henri như bực dọc:

– Ông viết liền được chưa mà im lìm như vậy? Nếu chưa hiểu, cứ hỏi lại tôi.

– Dạ hiểu phần nào. Xin phép ông, để về nhà sắp xếp đầu đuôi viết kỹ lưỡng rồi tôi trở lại đây nhờ ông dạy thêm.

Ông Henri liếc lên vách:

– Để coi… mười giờ rồi. Ông ráng viết, ba giờ chiều trở lại liền, kịp không? Tôi muốn ông ăn cơm trưa tại đây rồi viết luôn, đừng về mất thời giờ quý báu.

– Dạ, ở đây không khí hơi lạ. Về nhà ăn cơm xong tôi đóng cửa lại, viết một mạch là tạm xong. Tôi trở lại cỡ hai giờ rưỡi chiều.

Chắc hẳn ông Henri vừa ý khi nghe tôi nói “đóng cửa lại”, “hai giờ rưỡi”.

– Ông ra nói nhà tôi đưa chút ít tiền… Hổm rày tôi vô tình, quên phứt.

Đến cổng, bà Henri với nụ cười lúm đồng tiền, trao cho tôi năm trăm đồng.

– Nhớ kỹ nghe, nhà tôi bắt đầu khó tánh rồi đó. Ông nên viết như kỳ rồi vậy thôi. Theo quẻ tử vi, nhà tôi năm nay tuổi Mẹo, ngôi sao… ác liệt lắm! Vái trời cho nhà tôi được vô… Liên-hiệp Pháp để tôi đi du lịch Phi Châu coi sư tử, ngựa rằn chơi. Ông thi sĩ nhớ “Beethoven giữa rừng Nam Phi Châu” chớ? Đó mới thật là thơ.

Tôi cười, nụ cười khô héo:

– Thơ của rừng thiên nhiên Phi Châu… sang trọng hơn thơ đồng quê của tôi một bực.

Bà Henri nói vói theo:

– Nhà tôi cũng ưa đồng quê vậy. Nhưng sao khác với đồng quê của ông… Coi bộ hai thi sĩ đồng quê kỵ tuổi, kỵ ngôi sao… Chiều, ông nhớ trở lại sớm nghen!

Tôi ăn lua láo mới vừa được nửa chén cơm, chợt lão Tư Hiếm bước vào:

– Ủa! Bữa nay thầy ăn hơi sớm đó. Mời thầy qua ăn với tôi. Hồi sáng tới giờ, tôi chờ… Thầy về hồi nào mà tôi không thấy kìa?

Tôi hiểu rằng mình nên chiều theo ý muốn của lão, đừng từ chối bất cứ vì một lẽ gì. Lão dọn ra một con cá lóc nướng, một dĩa muối ớt. Chắc lão vừa cúng xong: trên lớp vảy cá cháy khét, mớ tàn nhang rắc lốm đốm. Từng khúc nhang cong queo tuy đã hóa ra tro nhưng còn giữ nguyên hình dáng cũ. Lão nói nhanh:

– Thôi mình ăn.

– Còn ai nữa không bác?

– Đâu còn ai. Dịp này chỉ có thầy với tôi. Món ăn ít quá. Rượu đây, tiên vi chủ – lão uống một hớp rồi trao cho tôi – hậu vi khách.

Rồi lão nhướng mắt, dò hỏi ngay:

– Thầy uống cạn đi. Say sưa gì mà sợ… Công việc của thầy tới đâu rồi?

Tôi hiểu đó là nỗi thắc mắc thầm kín nhứt của lão. Vì thời giờ còn lại quá ngắn, tôi đi thẳng vào đề:

– Dạ, ổng nhắc tới sự tích cái miễu Chúa Ngung, Ma Nương. Trong điền đất của ổng, năm đó, một thiếu nữ mang bịnh điên té xuống sống chết trôi tấp trước bến nhà ổng, rồi “đạp đồng” lên… Là kẻ sanh sau đẻ muộn, chưa từng sống ở Mốp Giăng, tôi thắc mắc quá định về đây hỏi bác.

– Thầy tin tôi hay tin ông chủ Nhan? – Lão trừng mắt hỏi.

– Tôi tin ông chủ Nhan nhưng cũng tin nơi bác. Ổng là người trong cuộc, thưa bác.

Lão cười nhếch mép:

– Đúng như thầy nói. Ông chủ Nhan mới thật là… người trong cuộc! Nhưng còn người khác nữa, cũng trong cuộc. Đó là người lên “xác” Chúa Ngung, Ma Nương…

Lão nhìn trân trân vào bộ mặt vừa ngơ ngác vừa “thông minh vặt” của tôi mà nói gằn:

– Bộ thầy tưởng tôi là kẻ “lên xác” hồi đó hả?

– Dạ, tôi đâu có nghĩ như vậy. Nếu người đó là bác thì chủ Nhan đâu để bác sống kham khổ như vầy. Chẳng hay người đó là ai, ở đâu? Chắc chắn ông ta rành sự tích Chúa Ngung, Ma Nương hơn ông chủ Nhan.

– Người đó… còn ở lại giữ cái miễu đó. Anh ruột của tôi. Anh ấy còn sống cũng như đã chết… Chết mà chưa chôn.

Rồi lão Tư Hiếm hạ thấp giọng:

– Theo lời anh tôi thì người con gái năm xưa bị đâm bằng dao phay vì cô ta dám cả gan chống báng luật lệ của Tây, lúc quan kinh lý tới đo đất lập địa bộ cho ông chủ Nhan.

– Nhưng ông anh đó “lên” thiệt hay “lên” giả?

– Làm sao lên thiệt được? Anh tôi thua cờ bạc, trở về nhà gặp lúc dân chúng đang xôn xao, bất mãn. Họ hồ nghi kẻ giết cô gái chính là… ông chủ Nhan. Anh tôi tới gặp ông chủ, hai người bàn mưu bàn kế. Ngày sau, anh tôi “đạp đồng” trước miễu rồi cả gan dở miếng vải phủ từ bao nhiêu đời trên pho tượng “ông tà”. Ở Mốp Giăng, dân chúng ưa thờ những viên đá rơi rớt, tìm được khi cày ruộng. Anh tôi tự xưng là Chúa Ngung, Ma Nương… tức là vị thần đã bắt cô thiếu nữ nọ cho chết để đem về âm phủ làm vợ. Rồi Chúa Ngung, Ma Nương nói huyên thuyên, xưng rằng Chúa Ngung là người khai khẩn đầu tiên từ ngàn năm xưa tại đất Mốp Giăng… Chủ Nhan phải làm tờ mướn đất của Chúa Ngung, mỗi năm ký giao kèo trở lại một lần… Nói dứt lời, Chúa Ngung chạy khắp tứ phía để cắm ranh đất cho ông chủ Nhan mướn. Dân chúng hoảng sợ, phục Chúa Ngung, Ma Nương sát đất vì xác cắm trúng ngay ranh trong… địa bộ, xê xích chừng vài tấc.

Tôi lắc đầu:

– Mưu kế của chủ Nhan cao cường thiệt, chắc hẳn ông anh nọ đã xem kỹ trên bản đồ, trước khi lên xác.

Lão Tư Hiếm thở dài:

– Nhưng ông chủ Nhan còn nhiều ẩn ý khác. Ổng muốn nhờ oai quyền của thần thánh để chứng minh cái quyền làm đại điền chủ của mình, để đám tá điền hiểu rằng họ chỉ là người giựt đất của thánh thần. Đã đành rằng họ ra công phá đất trước ông chủ Nhan nhưng Chúa Ngung, Ma Nương đã khai phá trước họ hàng ngàn năm… Nếu họ bất tuân ông chủ Nhan, tức nhiên là họ bất tuân luôn cả thánh thần, mỗi năm họ phải chịu chết oan ức, phát điên phát khùng như cô con gái nọ. Tôi nhớ rõ. Cô ta tên Thừa… Bây giờ theo ý thầy, người lên xác nọ đáng trách không?

– Đáng lắm chớ, mặc dầu chủ chốt là người khác.

– Nhưng anh xác thua cờ bạc, túng tiền. Lãnh của chủ Nhan năm mươi đồng tiền thưởng, để rồi ngày hôm sau thua lại ráo trọi… Của hoạnh tài bất phú.

Tôi cúi mặt nghĩ tới cảnh ngộ không khác, của mình.

– Thưa bác, mình nên thương hại anh xác nọ.

– Nếu gặp mặt anh xác nọ, thầy xử trí ra sao?

– Dạ, làm sao gặp được! Với lại tôi đâu phải là người tá điền bị chủ Nhan giựt đất.

– Xin lỗi thầy, tôi thí dụ như vậy kìa.

Trước câu hỏi đầy ác ý đó, tôi bị va chạm tự ái nên nói gắt:

– Ờ, nếu gặp mặt người xác ấy, nếu tôi là tá điền của chủ Nhan… thì tôi đãi anh ta một tiệc, đại khái như tiệc cá lóc hôm nay.

Lão Tư Hiếm bèn hươi bàn tay, chụp lấy cái ống điếu dài bằng cây ớt hiểm. Lần này tôi thấy rõ: đầu cái ống điếu nọ bịt khoen sắt, thứ khoen khá dày, tuy đã sét nhưng còn cứng.

Tôi biết lão đang bối rối, sự bối rối của kẻ yếu thế. Chắc rằng lão chưa dám và không nỡ hăm dọa tôi!

Tôi dịu giọng:

– Cái người xác bày chuyện đồng bóng đó, coi vậy mà hữu ích. Nhờ vậy hằng năm chắc ở điền ông chủ Nhan cúng miễu lớn lắm. Cờ bạc, ăn nhậu “trong thì trống đánh rập rình, ngoài thì trai gái tự tình cùng nhau” như lễ kỳ yên ở đình.

Lão cười sặc sụa:

– Đúng vậy, làng Mỹ Lâm từ khi ông thầu khoán bị giết, chẳng còn ai muốn cất đình, sợ oan hồn ông thầu khoán cũ vặn họng. Cái miễu của Chúa Ngung, Ma Nương thay thế cho cái đình; dân ở vùng lân cận tuy không phải là tá điền của chủ Nhan cũng rủ nhau nườm nượp tới chung vui. Phen đó, hồi trào thống chế Bê Te, quan Chánh tham biện chủ tỉnh “Gia La” tới dự lễ, dẫn theo bà vợ còn trẻ măng. Ông Tây bà đầm bắt tay “bủa xua” với Chúa Ngung, Ma Nương… Chúa Ngung, Ma Nương trả lời bằng tiếng Tây “com-xi com-xa” khiến ai nấy nín cười không nổi. Rồi ông Tham biện “Gia La” chụp hình buổi lễ, bà đầm vỗ vai xác, cúng cho xác năm đồng… Bả hứa khi về Tây sẽ thuật lại cho bà con cô bác bên đó nghe chơi. Bà đầm đó vui lắm, cười tủm tỉm hoài.

Tôi muốn thêm vào câu nói của lão: “Cười tủm tỉm hoài với hai lúm đồng tiền”. Nhưng tôi nghĩ: “Mình với lão Tư Hiếm hành hạ nhau bằng lời nói làm gì? Như hai kẻ khốn cùng đang đói bụng, chạy bươi đống rác cấu xé nhau để giành một cây tăm xỉa răng”. Sực nhớ tới thời giờ quá ngắn, tôi muốn ra về:

– Thì ông bà Chánh tham biện cũng thị oai với dân bổn xứ, tỏ rằng ta đây là “anh hai” của Chúa Ngung, Ma Nương. Và Chúa Ngung, Ma Nương có tiền của Tây thì mới vui vẻ được. Phen này, Tây biểu ông chủ Nhan viết lại tích xưa, chắc cũng vì mục đích muốn làm “anh hai” đó.

Bộ mặt lão trông khác hẳn! Dè đâu tôi nói êm thắm nhỏ nhẹ mà lão lại giựt mình:

– Mục đích gì? Tây muốn đi Mốp Giăng à?

Tôi nói khẽ:

– Ông quan tư muốn coi tận mặt pho tượng đá trong miễu Chúa Ngung, Ma Nương, luôn dịp sưu tầm tại chỗ những pho tượng khác, hỏi thêm tục lệ cúng kiến, hoặc tìm người “xác” cũ để hỏi lại.

– Tại sao Tây không mướn ai đi ăn cắp pho tượng hoặc mời người tại Mốp Giăng ra chợ cho gọn? – Lão hỏi.

– Vì… ông chủ Nhan nằng nặc mời Tây vô Mốp Giăng rồi đóng đồn luôn. Vả lại ai dám đi Mốp Giăng một mình để ăn cắp tượng thờ trong miễu? Người ở Mốp Giăng đâu dám ra chợ, liên lạc với Tây để lãnh tiền rồi về nhà. – Tôi đáp.

– Thời buổi giặc giã, khó quá. Nghĩ mà tủi thân cho vong hồn con nhỏ chết hồi đó. Chết rồi mà thiên hạ nói vầy, nói khác, bán đứng nó. Thầy biết chừng nào Tây vô trỏng không?

– Trời ơi! Bí mật quân sự. Nhưng tôi đoán: ông quan tư đi liền để kiếm pho tượng đem về tặng bà bá tước bên Tây. Ông quan tư chờ câu chuyện Chúa Ngung, Ma Nương của tôi viết. Chiều nay, tôi nạp chuyện đó cho chủ Nhan dịch ra chữ Tây. Thôi kiếu ông, tôi về giây lát để viết gấp cho đúng hạn.

Lão chép miệng, nhìn lên trời:

– Thầy làm công chuyện của thầy, mai mốt thầy còn đường tiến thân nơi chợ búa. Phần tôi, trước sau gì cũng về quê xưa. Thầy năm nay bao nhiêu tuổi rồi?

– Dạ, hai mươi bốn. Khi nãy, tôi lỡ thốt nhiều lời vô lễ. Bác tha thứ giùm em cháu.

– Người gần chết như tôi còn dám bắt bẻ lời nói của ai. Nếu tôi giận thầy một, thì phải giận tôi tới mười mới công bình. Thôi, thầy đi đi.

Tôi khép cửa, chán nản hơn bao giờ hết. Mưa lất phất. Tôi viết đại khái về trường hợp ông Henri Nhan phát giác pho tượng Chúa Ngung, Ma Nương, đúng theo lời lẽ ông ta thuật lại. Viết xong, đã hơn hai giờ hai mươi phút. Tôi lướt dưới cơn mưa, liếc nhìn thấy cánh cửa nhà lão Tư Hiếm đã khép kín.

Dường như ông chủ Nhan đã thức suốt buổi trưa để chờ đợi mớ giấy nháp của tôi. Ông ta gật đầu từng chập, sau cùng đưa ra ý kiến:

– Thế là xong, nhưng phần nhập đề còn yếu. Ông thi sĩ quên chuyện Lộc Giác Chân Nhân rồi à? Từ Lộc Giác Chân Nhân mình bắc cầu qua Chúa Ngung, Ma Nương nghe mới xuôi tai.

Tôi viết nhanh:

“Trên đường lập quốc, dân tộc Việt Nam lập nhiều kỳ công rạng rỡ, chém tre đẵn gỗ để cày cấy giữa rừng ma. Giai thoại Lộc Giác Chân Nhân tiêu biểu cho miền cực Bắc: Tục truyền rằng ở vùng sơn cước tỉnh Cao Bằng, xưa kia có người tiều phu sống dai hơn trăm tuổi. Một hôm, ông ta gọi đứa con trai đến mà bảo: ‘Lát nữa đây cha chết, hóa thành con nai. Kiếp trước của cha là con nai, nhờ tu luyện nhiều kiếp nên mang xác người. Con hãy gỡ cái gạc trên đầu cha, dùng dây mà kéo như kéo cày. Khi nào cái gạc vướng vào cây cỏ, còn dừng lại, cày cuốc tại đó ắt sẽ phát đạt’.

Nơi miền Tây Nam Việt Nam, có chuyện Chúa Ngung, Ma Nương nhắc nhở cho người đi khai hoang về đức tính khiêm tốn, sùng bái tiền nhân. Khắp vùng Rạch Giá, Cà Mau, tục lệ ‘tá thổ’ mướn đất của ma, của Chúa Ngung, Ma Nương chẳng nơi nào rõ rệt bằng ở xóm Mốp Giăng, gần Óc Eo, núi Ba Thê – vị trí quan trọng đánh dấu sự ‘dung hòa’ giữa văn hóa các nước Đông Nam Á, đặt nền móng cho ‘dân tộc tính’ Việt Nam. Ông Nguyễn văn Nhan với tấm lòng nồng nhiệt yêu mến quê hương đất nước đã khôi phục và bảo tồn tục lệ cổ truyền giàu ý nghĩa ấy…”.

Xem xong, ông Henri Nhan đứng dậy, đem tất cả xấp giấy qua đồn Lê Dương.

– Tôi sẽ trình bày tỉ mỉ. Nhứt định ông quan tư Ca Rê hài lòng. À, ông thi sĩ ở nán chờ tôi. Biết đâu vào giờ phút chót mình cần thêm bớt vài chi tiết cho câu chuyện suôn sẻ hơn. Nó thuộc vào hàng chuyện cổ tích “có thể diện” trên quốc tế đó.

Tôi ngồi chờ. Bà chủ thức giấc, mắng khéo chị ở:

– Nãy giờ sao chị chưa pha cà phê cho ông thi sĩ?

– Thưa, pha luôn…

– Ờ, tôi một ly, nhà tôi một ly.

Dường như bà chủ chẳng chú ý nhiều đến công việc “chạy chọt” của chồng. Rửa mặt chải tóc xong, bà đến hành lang nói khẽ:

– Ở xứ người, cái gì cũng ngộ. Từ việc quảng cáo kiểu áo kiểu quần, quảng cáo dầu thơm đến mục chiêm tinh học! Tôi cắt một cái “bông” trong báo gởi qua giáo sư F.N. nhờ đoán vận mạng giùm, cả tuần rày sao chưa thấy trả lời. Bên mình… mấy ông thầy Tàu mù đôi khi đoán khá quá. Như hồi năm kia, hai ba ông mù đều đoán tôi gặp người chồng giàu có, nhưng chồng tôi sẽ suy sụp vì thời cuộc. Trong khi đó, ngôi sao của tôi sáng lên!

Cánh cửa sắt ngoài cổng từ từ mở. Ông Henri Nhan chạy nhanh vào, gương mặt tươi rói:

– Ông quan tư chịu quá. Ngày mai hoặc đêm nay, ổng đi Mốp Giăng, mình à.

Bà Henri hơi giựt mình:

– Chuyện gì? Tối nay ông ăn tiệc trước với ổng?

– Mình hãy chuẩn bị đi theo ổng để chỉ rõ thêm đường đất. Rồi về mặc sức mà ăn tiệc.

– Tại sao ông không đi? Nhà binh thiếu gì bản đồ. Đàn bà như tôi đi theo làm gì thêm nguy hiểm… cho tôi.

Ông Henri gãi đầu lia lịa:

– Khổ quá! Tôi nói mà mình chậm hiểu. Mình chỉ cần mặc áo bà ba, quần lãnh đen được rồi. Đầu đuôi cuộc hành quân diễn ra chớp nhoáng trong vòng bốn tiếng đồng hồ. Xa hai mươi cây số chớ mấy? Gặp mặt tôi, dân tá điền họ thắc mắc. Chẳng lẽ tôi đem cái tượng đá trong miễu mà nạp cho Tây, còn gì thể diện tôi? Thế nào ông quan tư cũng nhơn dịp đó đóng bót rải rác dọc đường… Mai chiều yên tĩnh, tôi vô sau.

Bà Henri cau mày:

– Ừ! Tôi đi cho, đi vài tiếng đồng hồ chớ gì! Mà phải có ông quan tư, tôi mới đi. Tụi lính Lê Dương ăn nói xô bồ xô bộn lắm. Tối nay đi hả?

– Bí mật quân sự, chừng đi thì họ kêu mình!

Linh tính như báo trước một sự trục trặc sắp xảy ra trong đời tôi. Đành rằng nếu không có tôi tiếp tay vào việc viết chuyện Chúa Ngung, Ma Nương, trước sau gì ông Henri Nhan cũng tìm cách đạt mục đích riêng. Nhưng lương tâm của tôi bứt rứt lạ thường: Tiếng súng sẽ nổ hai bên đường, tiếng máy tàu ầm ầm, chuột phải chạy toán loạn, bưng sen dồi dập, những nông dân ngơ ngác sẽ cúi mình núp sau bờ cỏ hoặc lặn trầm xuống nước, miệng ngậm cọng bông súng để thở… Mệt quá, tôi đứng dậy nói khẽ:

– Thưa ông, chuyện tạm xong. Xin ông cho tôi về nhà, sáng mai tôi trở lại.

Ông Henri trợn mắt:

– Bộ ông… giỡn sao chớ? Tối nay, ông phải ở đây luôn. Chẳng đặng đi đâu cả! Lịnh của ông quan tư Ca Rê đó! Ổng muốn giữ bí mật quân sự, dầu đối với lính của ổng. Cả nhà tôi, từ giờ phút này đến khi có lịnh mới của ổng, chẳng ai được đi chợ. Rủi cuộc hành quân tiết lộ bị đánh úp dọc đường ai chịu trách nhiệm đây?

Rồi ông trỏ vào ngực mình:

– Tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn trước quân đội Pháp.

Tôi cúi đầu thở dài, trở lại ghế ngồi day vào trong nhà, đưa lưng ra phía hai cái họng súng ô-buýt đen ngòm.

Ông Henri lên nhà trên, nói vọng xuống:

– Chiều nay tôi uống rượu trừ cơm. Bà nhớ: khi nào nghe ngoài cửa nhận ba hồi chuông tức là năm phút sau bà đi với ông quan tư. Đêm nay, dặn chị ở nhớ ngủ sẻ thức, đừng để họ kêu réo nhiều lần.

Chiều hôm ấy, tôi ăn lua láo một chén cơm, ăn chung mâm với chị ở… Tôi tủi thân trong cảnh giam lỏng bất thình lình này… Trong phút giây, tôi thử tưởng tượng đến kế hoạch tẩu thoát. Hàng rào ngôi biệt thự quá thấp, trèo ra dễ dàng, Nhưng trèo để làm gì? Về Xóm Biển gặp lão Tư Hiếm, tôi sẽ ăn nói ra sao? Nói thật về cuộc hành quân của Pháp chăng? Rủi bề gì, tai vách mạch rừng. Nhưng quân đội Pháp sẽ lên đường vào giờ nào? Đêm nay hay là sáng mai? Vắng mặt tôi, ông Henri sẽ báo động… Còn về nhà để nằm yên một chỗ, tự giam hãm giữa khói thuốc và tiếng sóng biển, thức đêm với nỗi tâm tư đen tối thì về làm gì? Tôi tự an ủi:

– Mình nên ở đây để bảo vệ sanh mạng cho mình và cho lão Tư Hiếm.

Trên nhà, vợ chồng ông Henri nói chuyện thì thào, cãi to tiếng vài câu. Máy thâu thanh bỗng vang lên vài điệu nhạc. Lính Lê Dương bên đồn tập họp điểm số. Trời lại mưa.

Tiếng động cơ xe hơi, tiếng giày đinh, tiếng kêu réo của bọn lính Lê Dương đã đánh thức tôi, đâu hồi bốn giờ khuya.

Xe chạy ầm ầm ngang qua cổng biệt thự. Bà Henri đã ra khỏi nhà hồi nào… Ngọn đèn ở hành lang vẫn để sáng, suốt đêm. Một đóm lửa từ từ rề lại trên chiếc ghế bố, nơi tôi đang nằm. Tôi giả bộ nhắm mắt. Đóm lửa nọ đáp xuống sát mí mùng rồi từ từ rời ra: ông Henri Nhan dò chừng xem tôi còn nằm tại đây hay đã lẻn trốn!

Sau buổi lót lòng, ông Henri bảo tôi đem giấy mực tiếp tục viết nốt phần tiểu sử cận đại nhứt của đời ông, giai đoạn từ 1944 đến nay. Ông dẫn giải sơ sài vài nét chánh rồi ngồi trầm ngâm, lẩm bẩm từng chập:

– Chừng này, đoàn xe tới cầu số Một, lính sắp hàng xuống tàu… Con kinh cạn lắm, “tụi nó” chẳng có cắm chướng ngại vật, tàu của Tây hay lắm, chạy nơi nước cạn dễ dàng. Tàu tiến về Mốp Giăng theo lòng con kinh do tôi đào hồi năm 1936. Nếu chú ý, ông quan tư sẽ thấy rõ núi Ba Thê, núi Tượng, cái Sân Tiên trên núi… Chẳng hiểu nhà tôi biết cách giải thích không nữa? Đàn bà hời hợt lắm. Chắc thế nào đoàn tàu cũng ghé ngay bến, lên sân nhà tôi. Nhà bị phá hết rồi nhưng còn nền sân lót gạch phía trước…

Những điều ấy, ông chủ Nhan nói cho riêng ông ta nghe… Tôi giữ thái độ im lặng, cắm đầu viết. Ngòi viết chạy nhanh trên giấy nhưng tâm trí của tôi vẩn vơ tận đâu đâu. Rủi ông quan tư bị phục kích dọc đường, tình thế sẽ ra sao? Tánh mạng của tôi thật mỏng manh như… lông hồng, chỉ cần một ngọn gió nhẹ cũng đủ bay mất đất.

“Năm 1945, vào tháng Ba, quân đội Nhựt đảo chánh Pháp. Bấy giờ ông Henri Nhan giữ thái độ bàng quan. Sở tình báo Đông Nam Á của Nhựt hoàng phái người đến dụ dỗ, mua chuộc, dọa nạt nhưng ông chẳng sờn lòng. Ông tin tưởng nơi sự biến chuyển của tình hình quốc tế: kháng chiến quân Pháp, dưới sự lãnh đạo của tướng De Gaulle nhứt định thành công, người Việt Nam nhờ đó sẽ được hưởng qui chế tự trị để tiến lần lần tới nền độc lập thật sự. Thống chế Bê Te là nhân vật lỗi thời.

Năm ấy, vào tháng Tám, ông lãnh chức cố vấn Thanh niên Tiền phong tỉnh Rạch Giá. Sau ngày Việt Minh cướp chánh quyền, ông bị chúng cưỡng bách, lạc quyên tất cả bốn kí lô vàng y. Đầu năm 1946, trung thành với tôn chỉ ‘minh triết bảo thân’ ông tản cư về vùng ‘giải phóng’ Minh Lương, chẳng thèm trở về đồn điền Mỹ Lâm. Ông dư hiểu rằng các tá điền thừa cơ hội ấy đập phá nhà cửa, bắt giết trâu bò của ông nhưng ông mỉm cười: Tình thế loạn lạc, ‘khôn cũng chết, dại cũng chết, biết là sống’, ‘mình đừng khiêu khích ai nhưng cũng đừng để ai khiêu khích mình’. Lúc tản cư, ông thấy bọn Việt Minh đã chủ trương nhiều điều sái quấy khiến ông không phục. Nghe tin ở Sài Gòn nhóm ‘Nam Kỳ tự trị’ phát triển ồ ạt, ông vui mừng, vượt vòng vây trở về chợ Rạch Giá, quy thuận với nhà binh Pháp và ông gặp những người bạn Pháp cũ… Ông mạnh dạn đánh điện về Sài Gòn, hưởng ứng thuyết phân ly, triệt để ủng hộ Thủ tướng Nguyễn văn Thinh nhưng đồng thời chỉ trích vài điểm quá nhu nhược của chính phủ Nam Kỳ tự trị.

Tôn chỉ của ông Nguyễn văn Nhan, tóm lại trước sau vẫn là: ‘Tranh đấu cho xứ sở. Nước Nam Kỳ của người Nam Kỳ. Tự do, Hạnh phúc, Sung túc’. Nhiều người vì chưa am hiểu bầu nhiệt huyết của ông, vội trách ông là phần tử cách mạng quá khích”.

Từ trong phòng, ông Henri Nhan lại trở ra, một tay cầm tấm bản đồ, một tay cầm ly rượu… Vừa ngồi xuống ghế, ông nhăn nhó:

– Chị ở đâu? Đem thêm một đôi vớ nữa cho tôi. Bữa nay sao tôi nhức bắp chân hơn mọi khi?

Trải tấm bản đồ lên bàn, ông gọi:

– Ông thơ ký… Ủa ông thi sĩ.

Nghe gọi đích danh, tôi ngẩng đầu lên:

– Thưa ông?

– Ông xem bản đồ… Điền đất của tôi, rõ ràng bao la bát ngát nào kém Domaine Agricole của Tây. Thật hãnh diện cho người Việt Nam. Mặc dầu cái “ê-xen”rút lại, nó vẫn to hơn lòng bàn tay, trong khi đồn điền Tây Bẹt Te cũng chẳng lớn hơn bao nhiêu… Lẫm lúa tôi ở ngay “bon” này… Chuyến về, chắc chắn ông quan tư Ca Rê và nhà tôi đi con đường này, quẹo ra kinh này…

Tiếng phi cơ rền vang, càng rõ rệt. Hai chiếc săn giặc sơn đen ngòm tiến về phía đồn, ngay biệt thự, hạ xuống thấp để lộ màu cờ tam sắc dưới cánh rồi trở về hướng Đông bắc.

Ông Henri Nhan reo to:

– Đó, ổng đang trên đường về. Tụi máy bay đánh điện cho đồn hay. Hành quân quan trọng, đích thân quan tư Ca Rê chỉ huy, hèn gì! Dè đâu ổng lo châu đáo đến chừng đó. Chắc chắn ổng bình yên, thắng trận. Bằng không, quân tiếp viện kéo vô Mốp Giăng ầm ầm rồi. Nãy giờ, tôi mới hiểu thấu đáo câu nói của ông quan tư hồi trưa hôm qua. Khi tôi dịch câu chuyện Chúa Ngung, Ma Nương cho ổng nghe, ổng nói: “Năm 1914 – 1918 và 1940 – 1945 người Việt Nam giúp nước Pháp chống Đức. Đã đến lúc người Pháp hy sinh đổ máu giúp trở lại người Việt Nam”. Ổng còn hứa đem quyển tiểu sử của tôi về Pháp để xuất bản làm tài liệu lịch sử Đông Nam Á. Tiền bản quyền khá to. Tôi sẽ tặng ông thi sĩ sáu mươi phần trăm. Nhiều điều may mắn đang đến cho tôi và cho ông thi sĩ.

Đoàn “công-voa” lính Lê Dương đã tới. Trên chiếc xe đi giữa, bà Henri và ông quan tư Ca Rê ngồi bên nhau, họ đưa tay ngoắt trong khi ông Henri chạy ùa đến cổng, quên xỏ chân vào dép. Hai tay ông ta dang ra như hai cánh cửa sổ mở tung đón tất cả ánh mặt trời và không khí.

Bọn Lê Dương hát inh ỏi, quơ tay làm dấu hiệu với bọn trong đồn.

Ông Henri Nhan đích thân mở cổng.

Bà đi nhanh vào nhà, dáng điệu nhảy nhót, miệng nói huyên thiên:

– Bình yên, vạn sự may mắn! Ông Ca Rê giữ bo bo cái tượng đá nữ thần Ba Tư, khen ngợi rằng cái ngôi sao của tôi quá tốt. Cuộc hành quân sở dĩ được toàn thắng… nhờ nụ cười hộ trợ của nữ thần… Ba Tư tái sanh là tôi đây! Tụi Tây nịnh đầm giỏi quá.

Ông Henri cau có:

– Mình cứ nói bá láp. Tới Mốp Giăng hả?

– Ông này hỏi lạ! Phải tới đó mới về đây chớ. Nhà cửa lưa thưa như… chòm mả. Dân tá điền chạy trốn ráo trọi. Cảnh cũ mà mình nhìn không ra. Phải có mình đi theo, chắc mình khóc quá. Ông Ca Rê lại miễu để “cuổm” cái pho tượng đá, bắt một người tá điền của mình, cái ông già lên xác mọi lần đó. Ông già đó cũng bướng quá! Ông Ca Rê muốn hỏi han sự tích, ông già nhè lên xác, múa tay múa chân, đòi vặn họng Tây, vặn họng luôn cả vợ chồng nhà mình! Ông già lên xác nói rằng Chúa Ngung, Ma Nương đã tặng tất cả đất đai cho cô gái năm xưa bị chủ… Nhan ám sát… Chúa Ngung, Ma Nương nói từ bốn năm nay vợ chồng mình không cúng miễu nên bị mất quyền hạn.

Gương mặt ông Henri biến sắc, môi tái lợt:

– Cái gì? Thằng xác đó nói xấu tôi à? Nó lên xác giả, để vu cáo tôi! Nó đâu rồi! Tôi phải giết nó. Tôi phải thanh minh với ông Ca Rê. Tại sao ông Ca Rê không đóng đồn luôn để gìn giữ cái miễu như ổng đã hứa với tôi?

– Thì mình cứ qua bên đồn mà hỏi. Ông Ca Rê bắt sống lão xác đó, còng tay còng chân đem luôn về đây. Ông Ca Rê nói đất của mình vô dụng chỉ để dành trồng cỏ, nuôi rắn… chẳng nhằm địa thế quan trọng, đóng bót uổng lính.

Ông Henri Nhan chạy tất tả ra cổng:

– Điệu này chắc tôi chết mà không nhắm mắt. Để tôi qua bên đồn mắng ông Ca Rê một trận!

Nhưng “người chết không nhắm mắt” giờ phút này chính là tôi.

Chờ ông Henri khuất dạng, bà nói khẽ:

– Ông thi sĩ về đi, hết công chuyện rồi! Vọc nước giỡn trăng, tôi biết trước mà. Ông cứ lãnh thêm trăm đồng. Đừng ở đây, đừng lẩn quẩn ở Xóm Biển lâu ngày không nên. Ông già bị bắt dường như mang giấy “lách xê” địa chỉ cư trú Xóm Biển như ông.

Tôi thừ người, như đứng giữa tư bề lửa đỏ. Bà vịn vào vai tôi, nói nhanh:

– Tôi mến ông lắm, rất tiếc chưa giúp ông được gì. Bấy lâu, tôi xem ông như người em đáng thương. Ông về đi, nhớ coi chừng coi đỗi. Đừng buồn. Sự việc trước sau gì cũng chỉ xảy ra như vậy thôi!

Nhà lão Tư Hiếm đóng cửa chặt, đóng từ trưa hôm qua. Người lân cận nói thêm:

– Sau khi thầy ra khỏi nhà, chập sau ổng cũng đi, mang theo cái ống điếu cây ớt hiểm. Chắc là đi chơi xa.

Tôi nằm im trên giường, chẳng màng việc ăn uống. Tôi đóng chặt cửa, chẳng cần hé ra xem thử. Tôi biết rằng nhà lão Tư Hiếm chẳng bao giờ mở cửa để đón tôi nữa. Ngay chiều hôm đó, dường như có hai người lạ mặt đi ngang qua nhà lão, nhìn số nhà rồi nhìn qua nhà tôi đang ở trọ. Tôi hút thuốc, tay chân mãi lạnh ngắt. Tôi không sợ những người còn sống, tôi chỉ sợ người khuất mặt… Họ có thể gặp tôi bất cứ giờ phút nào, bất chấp cả những bức tường ngăn cách. “Đừng buồn… Trước sau gì cũng chỉ xảy ra như vậy thôi!”. Câu nói chân thành ấy có lẽ chỉ an ủi đắc lực kiểu người ưa đùa giỡn như bà chủ Nhan. Đối với tôi, nói vẫn là ngụy biện. Ngoài biển đen ngòm, vài đốm sáng leo lét của loại đèn bão treo tòn ten tận chót cột buồm ghe lưới. Ghe neo lại nhưng ánh đèn rung rinh, trở thành những vì sao trong đêm tối om. Lâu lâu, vượn hú, khỉ kêu nghe thảm thiết bên rặng cây bần. Mưa lạnh lâu ngày, vin mãi trên cành, khỉ vượn vừa sợ đói vừa sợ té, rốt cuộc vẫn té vì đói vì lạnh để rơi vào miệng cọp. Đó là chuyện rừng núi. Ở Xóm Biển này, khỉ vượn chỉ bị trầy trụa, lem lấm chút ít để rồi từ bãi bùn chúng trèo trở lên cành mà vin mãi.

Sáng hôm sau, người lối xóm tri hô: Một cái xác vừa trôi vào bãi bùn, xác của lão Tư Hiếm! Cá tôm rỉa xác lão gần hết nên – ngoại trừ tôi ra – người trong xóm chẳng ai rõ lão từ đâu trôi đến và chết… vì chứng gì. Vài giờ sau, nước ròng, cái xác đó trôi ra Hòn Tre mất dạng.

Tôi chẳng dám chạy ra biển để xem. Mênh mông quá! Từ trong lỗ tai tôi, vọng ra lùng bùng nhiều câu nói khàn khàn mơ hồ. Trước mắt tôi, chập chờn vài mảnh chiêm bao. Hôm sau, tôi lìa bỏ Xóm Biển – cái quê hương tạm bợ – để đi tìm sanh kế ở thành phố khác.