← Quay lại trang sách

- IV -

Bây giờ đây, chế độ điền địa đã thay đổi hẳn, những đồn điền “cò bay thẳng kiếng” đều bị truất hữu, nông dân lần lần trở thành tiểu điền chủ. Qua bao năm chiến tranh Việt – Pháp, hàng vạn người chịu hy sinh, nào phải riêng ai. Bóng của lão Tư Hiếm phai dần trong tâm tư của tôi. Từ buổi lên Sài Gòn, tôi tập nghề viết báo, thỉnh thoảng viết bài nhận định về kịch trường; sinh kế đã tạm ổn định. Chuyện viết tiểu sử cho ông Henri ngày xưa không còn đáng nói nữa. Nhưng quả đất vốn tròn! – Xin phiền các bạn hãy ráng đọc thêm vài trương nữa, tuy nó hơi nhàm, kém hấp dẫn. Truyện Hậu Vân Tiên làm sao lý thú bằng truyện Vân Tiên hồi đầu.

Số là buổi ấy, tôi về gác trọ chợt thấy ai để sẵn trên bàn một bó hoa huệ! Từ thuở bé đến từng tuổi này, tôi chưa được người nào tặng hoa tươi cả. Hay là thiên hạ lầm địa chỉ? Dáng điệu ngạc nhiên của tôi càng khiến bà chủ nhà thắc mắc:

– Ủa! Thầy không quen với bà đó sao? Bả hỏi trúng tên thầy, dường như gởi lại phong thơ đâu đó. Bả đi xe Huê Kỳ mới tinh. Chào hỏi tử tế lắm.

Phong thơ nằm khép nép sát mặt bàn, che lấp dưới bó hoa. Bên trong, một tấm danh thiếp:

Đoàn Thi Ca Vũ Nhạc Kịch “Hương Sắc 65”

Giám đốc: bà Nguyễn thị Quỳnh Hương,

biệt xá 3000/1 đường Trương Minh Ký Sài Gòn.

Gánh Hương Sắc thuộc vào hạng nhỏ lưu diễn miền lục tỉnh, năm ngoái về Sài Gòn hát ba đêm nhưng chẳng gặt hái kết quả tài chánh khả quan nào. Nghe đâu sau chuyến Trung du, đoàn lên Kontum, rã tại đấy từ hồi tháng sáu. Bà Nguyễn thị Quỳnh Hương là ai? Gánh hát nào mới lập đây? Bức thơ kèm theo tấm danh thiếp giúp tôi hiểu rõ.

Thân gởi ông Hoài Hương

Ký giả Kịch Trường,

Nhận được thơ này chắc ông hơi ngạc nhiên nhưng xin phép ông cho tôi tự giới thiệu; tôi là bà Henri Nguyễn văn Nhan ngày xưa ở Rạch Giá. Trong thời gian gần đây, tôi hân hạnh thấy ông tiến nhanh với những bài phê bình sắc bén. Đoàn “Hương Sắc 65” đang trên đà thành hình và hy vọng rất nhiều nơi thiện chí của ông để góp phần xây dựng sân khấu nước nhà. Nhà tôi vẫn thường nhắc nhở, gặp ông nhà tôi mừng lắm. Trưa mai, xin ông vui lòng đến nhà tôi dùng buổi cơm thân mặt để ôn lại những thời gian qua…

Giai thoại Chúa Ngung, Ma Nương, cái chết của Tư Hiếm, chuyện chuột, bưng sen bỗng nhiên bừng sống dậy. Tôi hút thuốc liền miệng, nhớ tới những trang giấy nháp do tôi viết hồi xưa. Bữa cơm trưa mai nhứt định gây chút ít hiểu lầm. Vài bạn ký giả sẽ hồ nghi rằng tôi sắp bẻ cong ngòi bút, chuẩn bị nâng đỡ đoàn hát của bà Quỳnh Hương một cách thiếu vô tư. Nhưng tôi bất chấp dư luận ấy. Tôi muốn gặp ông Henri Nhan để hiểu rõ về cái chết của lão Tư Hiếm, về cái miễu ở Mốp Giăng. Bao nhiêu nước chảy qua cầu… chắc ông ta sẵn sàng nói riêng với tôi tất cả sự thật.

Ngôi biệt của vợ chồng ông Henri Nhan chiếm khu đất hơi rộng – tuy bé hơn cái bất động sản ngày xưa ở Rạch Giá. Mười giờ sáng, tôi đã rón rén tới cổng, đứng ép mình, thử quan sát bên trong. Vóc dáng của ông Henri làm sao tôi quên hoặc lầm lẫn với kẻ khác! Dưới dàn hoa thiên lý mát rượi, ông ngồi hút thuốc, chân mang vớ tận gối, đội chiếc bê rê đen (chắc là để che cái đỉnh đầu sói sọi). Giữa sân, hai hòn non bộ đối diện, “hai hải đảo thần tiên” thì đúng hơn vì có nước bao xung quanh. Dưới đáy hải đảo, ông đã xây một chốn thủy cung dành riêng cho loại cá vàng, cá sọc… Bỗng dưng, ông búng hai ngón tay nghe “tróc, tróc”. Từ bên kia nhà, một con chó caniche chạy tung tăng ra sân. Nó kéo khệnh khạng một kiểu xe mà các tướng La Mã thời xưa thường dùng khi ra chiến trận. Trên chiếc xe hai bánh ấy, một con búp bê tí hon nằm ngửa, kê trên gối gòn. Ông Henri nói lẩm bẩm vài câu tiếng Pháp. Con chó dừng bước, quay bên phải, bên trái… Tôi thương xót cho tuổi già của ông: trò chơi ấy ngụ nhiều ý nghĩa! Ông ao ước sẽ có một đứa con trai để nối dõi – nỗi ao ước gần như tuyệt vọng. Lúc điều khiển con chó, hàm râu ông nhếch lên, khoái trá như người hát xiếc đang chế ngự một con sư tử hung hăng nhứt thế giới!

– Chào ông chủ! – Tôi mạnh dạn lên tiếng, chẳng bợn chút tự ti mặc cảm. Thời nay khác thời xưa. Nếu ông chủ Nhan “đã” là một nhân vật thì tôi đây “đang”… là một nhân vật đến viếng theo lời yêu cầu của chủ gia chớ nào phải vì muốn xin công việc làm.

Qua vài câu hỏi thăm, ông nói:

– Nhà tôi đi kêu đào kép, mướn họa sĩ, giao thiệp với ký giả. Tôi đau yếu hoài, ngồi nhà đóng vai tuồng của… một cây nêu!

Ông nói tiếp:

– Thời buổi tân tiến này không cần dựng cây nêu trước sân, thiên hạ vẫn cứ ăn tết vui vẻ rộn rịp như thường. Ở thành thị, thôn quê gì cũng vậy, phải không ông thi sĩ. Tôi là cây nêu trong nhà!

Tôi đỡ lời ông, liếc mắt qua bàn giấy:

– Ông vẫn là người hữu dụng cho xã hội, nếu ông muốn. Dường như ông đang viết…

Ông thở dài:

– Tôi dự định viết hồi ký, theo kiểu Thủ tướng Churchill nhưng còn trong vòng chuẩn bị, nghiên cứu thêm về triết học Đông Tây, rút vài kinh nghiệm lưu cho hậu thế. Đâu như cái “tiểu sử” hồi xưa, ông quên giùm tôi, đừng nhắc lại.

Tôi chụp lấy cơ hội tốt ấy:

– Trong thiên hồi ký bây giờ, tôi tin rằng ông còn dành ra mươi hàng để nói về chuyện Chúa Ngung, Ma Nương, quan tư Ca Rê và… tôi.

– Từ sáu bảy năm nay, tôi ao ước gặp ông để thanh minh, kẻo ông hiểu lầm. Người trẻ tuổi như ông đôi khi hẹp lượng! Thật ra, giới đại điền chủ ở Hậu Giang rất hiền hậu, so với các “anh hùng hảo hán” đi chinh phục… đất hoang ở Mỹ hoặc Nam Mỹ Châu hồi thế kỷ thứ mười tám.

– Tôi hiểu rồi, nhưng còn cái tích Chúa Ngung, Ma Nương đầu đuôi ra sao? Trong miễu thờ pho tượng gì?

– Chuyện dài lắm, ông hãy nằm trên chiếc ghế “phô tơi” nghỉ lưng. À, vài tháng sau cuộc hành quân Mốp Giăng hồi xưa, ông Ca Rê đổi ra Trung Kỳ, tử trận ngoài ấy. Pho tượng đã được gởi về Pháp trước đó một tháng. Ông Ca Rê bảo là tượng người nữ tỳ cầm thếp đèn nhưng đã gãy tay, thuộc mỹ nghệ Ba Tư, sản xuất tại Óc Eo, chân núi Ba Thê từ thế kỷ thứ ba, thứ tư sau Tây lịch…

***

Bấy giờ, tôi mới hiểu tục lệ cúng Chúa Ngung, Ma Nương gọi một cách văn chương là lễ “tá thổ”.

Theo lời ông Henri Nhan kể thì bốn chữ ấy chỉ tạm ghi lại bốn âm thanh khó đọc: “Chu Ngun, Me Nang”, tên đôi vợ chồng ma quái. Chẳng ai rõ tục lệ đó đã có từ thuở nào. Họ là hai vợ chồng nên phải chọn hai người lên xác. Xác “lên” nói thứ tiếng khó hiểu, đòi ăn mắm sống và rau răm. Chủ điền phải xin phép mướn đất với hai vợ chồng Chúa Ngung, Ma Nương vì mảnh đất hiện tại, mặc dầu còn bỏ hoang ít nhiều, vẫn thuộc quyền sở hữu của vợ chồng họ từ ngàn năm trước. Năm đó, sau khi khẩn đất, ông chủ Nhan đến Mốp Giăng công bố cho ai nấy biết quyền hạn của ông. Nông dân nhôn nháo lên phản đối. Để hợp thức hóa về mặt địa bộ đối với nhà cầm quyền Pháp, ông chủ Nhan mướn lập tức một viên kinh lý để ông này đến tận Mốp Giăng thi hành việc đạc điền, với sự yểm trợ của bốn người lính mã tà. Cuộc tranh chấp diễn ra nhưng ông chủ Nhan viện cớ, đi vắng mặt. Trong khi ấy, viên kinh lý cứ ung dung bố trí “bông tiêu” đặt ống kính để nhắm, đo đất.

Số nông dân bèn giết heo ăn thề, uống rượu giữa trời. Bỗng nhiên một cô gái tên là Thừa chạy tới đứng sát vào ống kính để che lại. Viên kinh lý nói khẽ:

– Con nhà ai kỳ quá vậy. Đi dang ra xa để người ta làm việc… Mấy chú lính mã tà đâu rồi? Chúng ta cứ thừa hành phận sự do ông Henri Nhan giao phó, được quan Thống đốc Nam Kỳ chuẩn y.

Một chú lính mã tà nói giọng khiêu khích:

– Cô này mần cái gì ngộ quá ta… Để quan kinh lý nhắm máy. Đi dang ra. Muốn chồng hả? Chịu làm bé tôi không?

Cô gái quát to:

– Tôi đứng đây hoài, tôi không chịu thua mấy người đâu!

– Cô ăn thua với Tây hả? Thử ăn thua coi?

Anh lính mã tà nói chưa dứt lời, cô gái đột nhiên cởi toạt tất cả mớ y phục lem lấm của mình.

Đôi mắt quan kinh lý rời khỏi ống nhắm trắc địa, ông giận run lên:

– Làm cái gì kỳ vậy? Trần truồng như nhộng, giữa đám đông cô chẳng biết mắc cỡ à?

Cô gái đáp:

– Mắc cỡ cái gì? Hễ cái miệng đói thì cái “mông” cũng chết! Xưa nay, chưa có người nào chết đói mà cái “mông” còn sống được. Tôi làm vậy đó. Không mắc cỡ gì hết.

Tuy nhiên, hai hôm sau, việc đạc điền vẫn hoàn tất. Tên mã tà bèn giết lén cô gái vô lễ nọ rồi hắn đến gặp ông Henri để xin chút ít tiền thưởng.

… Nghe câu chuyện thương tâm ấy, tôi thầm phục tinh thần của phái yếu. Lắm khi, họ gan dạ hơn phái mạnh, bất chấp gươm súng của thực dân Pháp – như cô gái nọ là một thí dụ.

Tôi hỏi nhanh:

– Mồ mả cô gái còn không? Tên sát nhơn ấy bây giờ ở đâu?

Ông Henri Nhan mỉm cười:

– Xin lỗi, hay là… ông thi sĩ nghi ngờ chánh phạm là tôi?

Tôi cau mày:

– Ông hơi nóng. Tôi xin lỗi ông đó. Hồi xưa, ông đâu cần đích thân xách dao, đâm lén một thiếu nữ tay không… Tôi nghi ông để làm gì?

Ông Henri Nhan gật đầu:

– Ông thi sĩ tin tôi, lẽ đâu tôi chẳng nói tiếp. À, sau khi lãnh tiền thưởng, tên mã tà sát nhân đó về chợ Rạch Giá. Hai ngày sau, cái thây cô gái nổi sình trôi tấp trước nhà tôi. Bấy giờ lão Tư Hiếm mới xuất hiện. Hồi ở Xóm Biển chợ Rạch Giá, Tư Hiếm là người tri kỷ của ông! Điều ấy rất tiếc… tôi và ông quan tư Ca Rê biết hơi muộn!

– Nhờ mấy ông xem lại địa chỉ cư trú ghi trong giấy “lách xê” của lão ta chớ gì?

– Lão Tư Hiếm thua cờ bạc, tới gặp tôi để bày kế lên xác Chúa Ngung, Ma Nương, “dựng đứng” cái pho tượng đá trong miễu. Nhờ vậy đân tá điền lần hồi sống an cư lạc nghiệp… Liên tiếp mấy năm liền, lão ta trở thành nhân vật chuyên nghề lên xác Chúa Ngung, Ma Nương, coi quẻ tử vi cho dân trong điền. Năm 1946, lão ta tản cư ra chợ Rạch Giá, chẳng hề gặp mặt tôi. Lão còn sống dai hơn, nếu lão không gặp mặt ông.

Tôi giựt mình:

– Ông nói gì?

– Tôi nói: Chính ông thi sĩ đã giết lão ta mà không cần gươm súng!

Cố nén cơn tức giận, tôi suy nghĩ hồi lâu rồi nói to:

– Tôi nhớ rõ lắm. Khi đoàn “công voa” từ Mỹ Lâm rút về đem sự thất vọng cho ông, ông chạy lập tức qua đồn Lê Dương, vừa chạy vừa tuyên án xử tử lão ta. Bà ở nhà có thể làm chứng điều ấy… nếu bà còn nhớ. Đành rằng tôi vô tình tiết lộ cuộc hành quân cho lão biết trước. Nhưng giữa tôi và lão, nào ai thù oán ai mà ông lý luận như vậy?

– Xin lỗi ông thi sĩ, chuyện xưa rồi. Nói lại mà nghe vậy thôi. Trong thực tế, nếu ông không đến bàn luận với lão thì chắc chắn lão vẫn sống ở Xóm Biển chợ Rạch Giá hoài hoài. Ông nên nhớ rằng trước khi đem bắn, tụi Tây tra tấn lão, lão có nhắc tới tên ông! Bằng không, ông đã bị bắt ngay rồi bị bắn thả trôi sông một lượt với lão… Kể từ đó, ông Ca Rê sanh nghi, luôn luôn theo dõi mọi hành động của tôi. Một phần vì ông ta đã “giữ” pho tượng trong tay rồi. Phần khác, vì tôi đã “ngụy biện” để cứu sinh mạng cho một thi sĩ…

Tôi đứng dậy, đi tới đi lui:

– Thà tôi chết hồi đó một lượt với lão Tư Hiếm còn sướng hơn… sống mà nghe ông kể ơn. Té ra bấy lâu nay tôi vô ơn bạc nghĩa quá. Nếu… trúng số độc đắc, tôi đúc ngay một pho tượng kỷ niệm để chưng trong phòng… Tượng một người bé nhỏ – là tôi – đang đứng khom lưng cõng đội ơn một người to lớn – là ông.

Ông Henri Nhan cười giòn:

– Ông thi sĩ nói vậy quá đáng, tội nghiệp tôi quá. Tôi nào xứng đáng.

Tôi gắt gọng:

– Vậy thì tôi đúc ngược lại một người lớn tuổi – là ông – khòm lưng nâng đỡ trên vai một người bé nhỏ – là tôi – Chúng ta đạp trên cái xác bằng đồng của lão Tư Hiếm đang nằm úp mặt xuống đáy biển. Lão mới là chánh phạm của cuộc cãi vã hôm nay!

Ông Henri Nhan nổi giận lên, từ từ rút khăn chậm mấy giọt mồ hôi trên trán và chùi mớ nước miếng sùi hai bên mép. Tôi ngỡ rằng ông định mở loạt đả kích khác, nhưng tôi lầm to. Nụ cười bỗng dưng nở trên môi ông ta, hiền hòa hơn bao giờ hết.

Có tiếng dép lẹp xẹp. Mặt tôi chưa kịp quay lại, hai bàn tay mềm mại nào đã nhanh nhẹn bịt mắt tôi, tuy thân ái nhưng bịt quá chặt.

Tôi nói nhanh:

– Trời! Bà chủ chớ ai. Buông hai bàn tay ra.

Bà cười với hai núm đồng tiền thuở nào:

– Tôi biết ông chờ tôi! Giận tôi không? Giận lắm chớ gì? Tôi mời cô đào Thiên Thai để chuộc cổ về làm đào chánh. Tôi về nãy giờ nghe hai người… đàn ông “đấu lý” chuyện đời xưa… Ông đừng phiền nhà tôi. Tánh ổng lẩm cẩm lắm. Hồi sáng, tôi nhắc chừng ổng nên đón rước… nhà cố vấn tương lai để bàn bạc về cốt tuồng chủ lực của đoàn “Hương Sắc 65”. Dè đâu, ổng gợi chuyện đâu đâu, lạc đề ráo trọi.

– Thưa bà, cũng chẳng lạc đề cho lắm, ổng với tôi…

– Tôi hiểu, thôi mời ông thi sĩ đến phòng ăn, cô Thiên Thai chờ nãy giờ.

Thiên Thai thuộc vào hạng đào cải lương trẻ tuổi, tuy mới vào làng độ ba năm nay nhưng – theo nguồn tin của các thông tín viên kịch trường – cô được tổ đãi, “sáng sân khấu”. Cô cúi đầu chào… Trông gương mặt trái xoan ấy, tôi nhớ mang máng đã có lần mình viết tiểu sử cho cô, kèm theo những câu phỏng vấn và trả lời theo tưởng tượng… Hồi đó lúc đoàn “Phim Nhạc” lưu diễn tại Bà Rịa, cô gởi thơ về tòa soạn, than phiền sự “nâng đỡ” của “quý báo”, kèm theo bức ảnh ngây thơ chụp nghiêng với mái tóc thề trôi chảy trên vai. Giờ đây trông cô hơi khác, áo dài nylon cổ đứng, mí mắt tô đậm gần giáp chân mày, tóc cắt đều phủ ngang trán theo kiểu Ai Cập.

Bà Henri nói luôn mồm:

– Công chúa Ba Tư đó! Đẹp hơn pho tượng đá… Thôi, hai ông uống rượu, thông cảm, xây dựng phải không cô Thiên Thai? Hồi ở nhà quê, mỗi năm mình chỉ uống một lần rượu vào hồi đầu xuân để quên hờn giận quá khứ, bắt tay nhau làm ăn bước qua năm mới. Bây giờ, suốt ngày hiểu lầm lu bù, thông cảm lu bù. Bà bầu đoàn “Phim Nhạc” thắc mắc tôi về chuyện “bắt đào bắt kép”. Tôi phải rủ bà đi ăn Chợ Lớn chiều mai. Rồi mấy anh ký giả phiền tôi về việc vận động lập gánh mà không kèn không trống… Tôi phải giải thích hồi lâu, muốn về nhà hồi 11 giờ mà lóng nhóng tới bây giờ…

Uống xong ly nước ngọt, cô Thiên Thai kiếu từ; bà Henri đưa cô ta ra sân, nói nhỏ to. Tôi thấy họ cúi đầu chào nhau đến bốn chập rồi bổ túc lai rai câu chuyện để từ giã lần chót tại cổng.

Bà Henri trở vào, nhìn chồng:

– Sao? Ông xúc tiến kẻo trễ. Tôi đã nhờ báo chí loan tin thành phần đào kép, chuyên viên ánh sáng, soạn giả… rồi đó.

Ông Henri thở dài:

– Tôi muốn ra mắt tuồng “Sự tích lầu ông Hoàng ở Phan Thiết”.

Bà Henri nguýt dài, nói với tôi:

– Ông ký giả thử nghĩ. Nội cái tựa của ổng nghe đủ lỗ vốn rồi. Phải sửa cái tựa lại. Còn về hình thức thì… khó thực hiện. Toàn là nhân vật Tây với đầm thuộc địa thời gian gần đây. Phải Tây với đầm hồi thế kỷ 17, 18 họa chăng! Nhà tôi ưa… thực dân “một cây” nhưng cũng khoái kể công đánh thực dân của mình!

Vẻ mặt ông Henri vẫn lạnh lùng:

– Cần cái nội dung hơn, vả lại chuyện lầu ông Hoàng ở Phan Thiết gây cho tôi nguồn cảm hứng… mặc dầu tôi bất tài. Mời bà con cầm đũa, tôi uống rượu kể chuyện cũng no.

Trước khi vào chuyện, ông Henri trình bày sơ qua phần triết lý của vở tuồng, thứ triết lý mà ông đã phát minh sau khi lê gót phiêu lưu khắp các thắng cảnh miền Nam. Dưới mắt ông, vùng Cao Nguyên tuy hùng vĩ nhưng gió núi mưa ngàn đem sự lạnh lẽo cho tâm hồn. Bãi biển Vũng Tàu quá sang trọng, ngoài khơi thiếu vài hòn đảo nên du khách ngỡ mình rơi vào cái hố dục vọng mênh mang đại hải! Nhưng bãi Phan Thiết với lầu ông Hoàng hoang phế đã đem lại cho ông Henri một giấc mơ hoa, vì vậy vở tuồng cải lương của ông đang dự trù soạn thảo sẽ lấy tựa “Một giấc mơ hoa” hay là “Lầu ông Hoàng ở Phan Thiết”. Ông Hoàng tức là Công tước De Montpensier, thuộc dòng hoàng tộc bên Pháp. Ông ta đi ngao du khắp thế giới, trên chiếc du thuyền đặc biệt; đến mỗi nơi, ông mướn vài người dân bổn xứ: da đen, da vàng, da đỏ… Những công dân này đi theo du thuyền, ăn lương tháng. Nhiệm vụ của họ rất đơn giản: mỗi buổi sáng, khi ông Hoàng thức dậy, ban nhạc hoàng gia thổi kèn… Họ đến chào mừng cung kính, chúc ông vui vẻ… vậy thôi! Cứ đến một thắng cảnh, ông Hoàng cất một nhà nghỉ mát cực kỳ sang trọng; cất sẵn để đó chờ đôi ba năm sau viếng trở lại một lần. Năm nọ, ông Hoàng viếng bãi biển Phan Thiết. Quan Công sứ Phan Thiết lúc bấy giờ là người thuộc phái Bảo Hoàng đã tổ chức đón rước trọng thể rồi quỳ xuống hôn tay ông Hoàng, gọi ông là Hoàng thượng… Vì mến cảnh mến người, ông Hoàng thích ý xuất tiền xây cất một biệt thự trên đồi để sống với người tình nhân từ Paris sang. Ngày ăn lễ lạc thành, ông Hoàng bày cuộc đốt pháo bông, đâu từ chín giờ đến hai giờ đêm. Dân chúng đứng xem mỏi mắt rồi nằm ngửa, nhìn mãi đêm thiên đường bất tận… Thế rồi người tình nhân ở lại biệt thự, ông Hoàng tiếp tục cuộc viễn du, cất thêm biệt thự mới, tìm thêm tình nhân mới. Lúc ông vắng mặt, hàng ngày bồi bếp vẫn tiếp tục trải nệm, rót nước, dọn thức ăn rồi giũ nệm, rửa chén bát như khi ông vẫn còn sống ăn uống tại đấy!

Nhưng cô tình nhân nọ lén tư thông với một người Pháp. Ông Hoàng hay tin ấy bèn phái một thủ hạ từ Paris qua Phan Thiết. Tên thủ hạ rình giết tại trận cả đôi gian phu lẫn dâm phụ rồi lên máy bay về Pháp. Báo hại ông Công sứ Phan Thiết phải lo việc tống táng…

Bà Henri Nhan lắc đầu:

– Chuyện nực mùi thực dân, khó ăn khách… Tôi nói nhiều lần rồi.

Ông cãi lại:

– Bà không chịu thời thôi. Tôi có quyền thích chuyện đó!

– Bởi vì ổng tưởng mình là ông Hoàng! Phải không ông thi sĩ. Ông tính sao mà nãy giờ cứ ngồi êm ru cười mím chi hoài vậy?

Tôi trả lời, tránh mọi hiểu lầm:

– Bà làm bầu gánh, quyền ấy của bà. Tuy nhiên, ý kiến của ông cũng đúng. Muốn viết, cần phải cảm hứng, dùng nhân vật để giải tỏa nỗi thắc mắc thầm kín của mình.

Bà nói:

– Vậy thì dễ quá. Ổng thắc mắc về cái vụ bị nghi oan giết người, ngày xưa. Tại sao chẳng đem sự tích đó soạn thành tuồng cải lương, xóa bỏ thù oán! Đôi trai tài gái sắc ở hai nước Ba Tư, Hy Lạp gì đó hiểu lầm nhau, họ xua quân ra trận, rốt cuộc chàng và nàng bị thương tích nhưng đôi trai gái gặp nhau, ăn năn hối hận. Rồi cả hai từ bỏ ngai vàng điện ngọc, ra đi với mối tình cao thượng. Sẵn đây, tôi dám nhờ ông thi sĩ soạn tuồng đó cho đoàn “Hương Sắc 65” của tôi… Nội dung như vậy, vừa hư vừa thực, vừa vô lý nhưng vừa hữu lý, khán giả chịu lắm. Chớ tuồng “Lầu ông Hoàng” của nhà tôi thật khó diễn quá. Chẳng lẽ ông Công sứ thực dân với ông Hoàng đều là người thiện? Khán giả bực mình.

Tôi lưỡng lự, hẹn về suy nghĩ rồi trả lời sau.

Bà Henri đưa tôi ra sân:

– Gấp lắm! Ông cứ hứa cho tôi mừng. Đừng nghe lời ổng. Gánh hát này quyền hạn hoàn toàn do tay tôi nắm. Tôi định nhờ ông, từ cả tháng nay.

– Bà nên tìm soạn giả khác, chắc ăn hơn.

– Nói gì chuyện đó. Vài soạn giả đã tới thương lượng rồi. Nhưng ông à, ông tin tôi không? Bao giờ tôi cũng muốn giúp ông, xem ông như em ruột trong nhà, cùng một quê quán.

Sực nhớ chuyện xưa, tôi bồi hồi cảm động:

– Tôi tin bà lắm chớ. Nếu hồi đó bà quên chú ý mở cổng thúc giục tôi về gấp thì…

Bà cười giòn:

– Ông gợi lại chuyện “quốc sự”. Thôi đi. Tôi chẳng hân hạnh gì khi nhớ tới quan tư Ca Rê. Phải nhà tôi đừng ghen bóng ghen gió, có lẽ tôi giàu hơn bây giờ nhiều. Tôi đâu dám thi ơn với ông, buổi xưa đó.

– Đành vậy, nhưng nếu bà vô ý thì ngày nay…

– Ngày nay, thiên hạ cũng như vậy, ông à!

– Nhưng tôi đã chết lãng nhách. Tôi mang ơn bà nhiều hơn là… mang ơn ông. Thú thật với bà, hồi nãy giận quá chẳng lẽ…

– Hơi đâu chấp nhứt ổng. Ổng dồn ép trái “bôm” từ chục năm nay để “nổ” ra “lấy le” với ông. Ngôi sao của ổng lu rồi. May là ổng nghe lời tôi, bán đất cho tá điền trước khi bị truất hữu. Ông nghĩ coi, thường bữa ổng ra sân bới từng cọng rác… để làm vệ sinh, giành công việc với người ở. Đi ngoài đường phố, gặp miểng ve chai, ổng cúi xuống lượm lên, giành sở làm của phu lục lộ. Lẩm cẩm quá. Một cái tai nạn cho tôi. Ổng lại giỡn, nuôi chó kéo xe… La Mã.

Tôi cúi đầu chào bà Henri. Bà giả bộ trợn tròn đôi mắt rồi cười:

– Nhớ viết sơ cái cốt chuyện nghe. Trùm chăn tối ngày như ông, làm ăn khó tấn lắm. Tung chăn, tìm không khí mới một lần xem sao. Đời mà, mình cần tìm sự hồi hộp để sống. Ông ráng viết sao cho ổng vui.

Tôi đáp:

– Dạ, viết chớ. Về nhà viết liền rồi đem lại cho bà.

– Chiều mốt tôi tới nhà ông, dễ hơn. Đúng hẹn nghe!

“Hồi thế kỷ thứ mười sáu, Ba Tư là một cường quốc thâu gồm cả địa phận Trung Đông. Nhơn buổi lễ Du Xuân, nam thanh nữ tú rủ nhau múa hát, mừng tiết hoa hồng nở và tế thần Mặt Trời. Chàng Mai Kha tình cờ gặp nàng Y Liên. Quá cảm mến cô bạn gái, chàng trao tặng cho nàng một sợi dây chuyền có nửa mảnh tim vàng. Nàng Y Liên thẹn thùng, mắng chàng. Nhưng người quản gia hối thúc, Mai Kha lên ngựa về để nàng Y Liên ở lại với sợi dây chuyền kỷ niệm.

Thời gian trôi qua. Đế quốc Ba Tư tan rã. Cha của Mai Kha thừa cơ loạn lạc, soán ngôi, xưng hoàng đế. Cha của Y Liên đến vùng sơn cước xưng vương, chống lại chánh quyền trung ương. Mai Kha trở thành hoàng tử, thống lãnh hai vạn tinh binh đến bình định miền sơn cước.

Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Hoàng tử Mai Kha chiếm căn cứ địch quân, thắng trận nhưng bị gãy cánh tay. Chàng hạ lệnh bắt tất cả gia quyến của đối phương, đem về kinh đô làm nô lệ. Trong lúc kiểm điểm hàng ngũ quân thù, đột nhiên Mai Kha nhận ra Y Liên nhờ sợi dây chuyền nửa mảnh tim vàng thuở nọ. Nàng ném sợi dây chuyền trả lại. Nhưng quá đau xót, hoàng từ Mai Kha giao quyền cho viên phó tướng, bảo ông ta cứ đem binh về. Chàng nguyện ở lại miền sơn cước này, chắp nối cuộc yêu đương dang dở với Y Liên. Lúc vua cha dự lễ khải hoàn, khao quân tại kinh đô thì ở miền xa xuôi Mai Kha và Y Liên âu yếm trong tuần trăng mật. Tuy chàng bị gãy tay, nàng bị tan nát gia đình nhưng đôi lứa tha thứ cho nhau, thề sống cuộc đời thường dân. Năm sau, mùa tế thần mặt Trời vua cha băng hà. Thần Mặt Trời bỗng nổi giận, khiến núi lửa dậy lên! Trào thần hoảng sợ đến tận miền biên cương nài nỉ rước đôi uyên ương về. Mai Kha lên ngai vàng. Y Liên nghiễm nhiên làm hoàng hậu. Từ đấy, xứ Ba Tư chẳng còn cuộc loạn lạc nào cả. Vì dân chúng ở kinh đô và ở miền sơn cước đều toại nguyện với đức vua và hoàng hậu”.

Thảo xong hai trang giấy, tôi đặt lưng xuống ghế bố, vừa mới lim dim đôi mắt chợt nghe tiếng chân bà chủ nhà đi lên gác.

– Thầy ơi! Bà tặng hoa hôm nọ muốn gặp mặt thầy.

Tôi dụi mắt:

– À, mời bà ấy ngồi tạm ở dưới. Tôi xuống bây giờ.

Nhưng bà chủ nhà vội trở lên:

– Bà ấy đòi lên gác… Ủa! Bả tới kìa!

Bà Henri cười nói huyên thuyên:

– Tôi muốn viếng cái gác trọ này lần thứ hai. Hôm trước, tôi đường đột tới tặng hoa. Hôm nay chắc hết đường đột rồi, phải không ông soạn giả? Tôi không tặng hoa nhưng tặng món khác thiết thực gấp trăm lần bó hoa. Viết xong chưa ông?

Tôi đáp:

– Mời bà ngồi. Bà xem thử, trên bàn… Nét mực vừa mới khô.

Bà liếc xem nhanh. Tôi hỏi dồn tới:

– Được không bà? Đại khái như vậy. Nhờ bà giúp ý kiến. Chắc ổng chịu lắm.

– Quá xá hay rồi. Bây giờ ông cho tôi mượn đem về cho nhà tôi coi chơi. Rồi ông cầm giùm cái bao thơ này.

Tôi nói nhanh:

– Bà đưa chi gấp quá vậy? Đoàn hát mới trong vòng vận động thành lập… Hay là để tôi viết biên nhận.

Mở bao thơ ra, tôi đếm những mười tấm giấy năm trăm. Bà Henri cười giòn:

– Biên nhận làm gì? Chỗ bà con.

Suy nghĩ một giây, tôi nói:

– Bà lấy lại bớt hai ngàn. Tôi mượn tạm ba ngàn đủ rồi.

Bà tiến tới vỗ vai tôi:

– Trời! Ông này thiệt lạ đời… Xưa nay người ta cứ muốn mượn thêm, còn ông thì đòi trả bớt! Tôi không chịu đâu. Nếu vui vẻ, ông cho tôi mượn lại tất cả, rồi ông móc tiền túi cho tôi mượn thêm năm ngàn nữa… Nói cho vui, ông đừng giận nhé! Lát nữa tôi dùng cái bản thảo này để ăn nói với người bỏ vốn hùn lập gánh hát. Tôi mua xác gánh hát cũ và lo ngoại giao. Phần của họ, chuẩn bị tiền bạc ăn tập để khai trương… Ông có thể đi với tôi lại… nhà bà chủ nợ đó cho vui. Cô Thiên Thai chiều nay ở đó. Cổ nhắc tên ông hoài.

– Dạ để dịp khác, chiều nay tôi bận việc.

– Việc gì quan trọng dữ vậy? Ông nằm trùm chăn ở đây để tìm cảm hứng à? Tôi biểu ông ra đi… cho sát thực tế!

– Thôi, cám ơn bà.

– Hay là ông ngại nói chuyện khào với “bầu bì”, chủ nợ và nghệ sĩ cải lương đợt sống mới… Tâm lý chung, người cày ruộng ở nhà quê ghét Huê kiều mua bán lúa! Hồi đó, nhà tôi cũng như ông! Nhà tôi bây giờ cũng ngồi chơi hòn non để mà ghét cay ghét đắng những người bạn đang làm xuất nhập cảng…

Ngoài đường hai tiếng “tin, tin” vọng tới, thúc hối. Bà Henri vội chào:

– Để tôi đi rồi mai chiều tôi tới đây. Ông ở nhà vào khoảng nào? Tôi đi xe của người bạn, họ chờ đó.

Gác trọ thay đổi không khí. Tôi vừa mừng vừa ngại. Dường như tâm trí hơi bứt rứt. Lúc tôi túng thiếu, số tiền năm ngàn đồng hơi bất ngờ này chưa hẳn… quá to tát. Tôi bỏ nó vào bốp, nhứt định chiều nay đem xài cho sạch túi vì nó giống như của hoạnh tài! Bỗng nhiên tôi vặn ngược câu hỏi: “Biết đâu mình đã bán cái cốt truyện và nhứt là cái sĩ diện của mình với một giá quá rẻ mạt”. Tôi hơi chủ quan chăng? Sĩ diện của tôi bán với giá đó là được rồi đấy, ai dại khờ gì mua nó với giá cao hơn! Nhưng câu trả lời vẫn chưa ổn. Có lẽ tôi hối tiếc bao nhiêu kỷ niệm, những kỷ niệm vô giá. Xóm Biển chợ Rạch Giá, thời chiến tranh Việt – Pháp. Những người đàn ông đánh đáo lạc, ăn thua bằng cách cõng nhau. Những chiếc ghe biển nằm nghiêng trên bãi bùn, giương đôi mắt bịnh hoạn. Hòn Tre ngoài xa xa, cái lon sữa bò đầy gạo để cắm nhang trong nhà lão Tư Hiếm. Xác lão Tư Hiếm bập bềnh trôi… Ban nãy, bà Henri vui vẻ, chiều chuộng tôi với thái độ “đàn chị”, rồi “cả gan” nhưng thành thật liệt tôi vào hạng “trùm chăn”, giống như người cày ruộng ở nhà quê và ác hại hơn giống như ông Henri, con người lạc hậu về mọi mặt…

Tôi vỗ trán rồi gọi xe, đến tiệm kem. Ngồi đó, đầu óc tôi vẫn mơ màng. Mọi khi, tôi ưa sống kiểu “quê mùa, trùm chăn”, như bà Henri nói. Bà Henri vốn có nhiều kinh nghiệm trường đời, hơi lớn tuổi hơn tôi, chẳng lẽ bà nói bậy hoặc dùng sai danh từ? Bây giờ tôi thử tung chăn ra, thử bỏ thái độ quê mùa (mặc dầu tôi chưa bao giờ cày ruộng), bỏ thói suy nghĩ vẩn vơ – nghĩa là mình chỉ nên chú ý tới đời sống của mình và những vui sướng mà mình có thể vói tới, ngay trong buổi trưa nay. À! Cô ngồi giữ tủ tiền trông đáng yêu với mái tóc xõa, rối rắm một cách công phu. Bức tranh vẽ cây dừa và mấy chòm sao trên vách tường đưa tôi tới đảo Hạ Uy Di, đêm trăng. Người qua lại dập dìu trên hè phố, tôi chỉ nên ngắm họ như ngắm một bức tranh lọng kiếng, đừng đặt những giả thuyết quá phức tạp về đời tư của họ! Cô bạn học năm xưa giờ đây ở tận Biên Hòa, chưa chồng; tôi viết thơ mời cô ta về Sài Gòn gấp chúa nhựt này để cùng nhau tìm hiểu tâm sự. Mượn thêm tiền của bà Henri kẻo bỏ lỡ cơ hội! Mua một căn nhà đủ tiện nghi hơn. Thỉnh thoảng lật báo xem tử vi, mua đủ thứ sách thuộc loại bách khoa xem chơi, để hiểu sơ qua mọi vấn đề. Mua một bức tranh in lại của Van Gogh, bức tranh vẽ hoa quỳ vàng rực ánh mặt trời, treo trong phòng để tâm hồn mình luôn luôn được sưởi nóng trong… cô độc.

Tôi mỉm cười, bẽn lẽn, tự nhận rằng mình còn gượng gạo! Bỗng nhiên, kèn trống nổi lên, đờn cò trổi điệu Xuân Nữ. Bên kia đường, chiếc xe tang đi chầm chậm, tấm triệu cao nghệu dẫn đầu. Mọi hôm hễ gặp bất cứ đám ma nào, tôi đi nhanh tới, bùi ngùi xem tên tuổi người chết, suy nghĩ vấn đề sanh lão bịnh tử. Trưa nay, tôi cố gắng ngồi im từ bên này đường mà ngó qua, đại khái.

Tôi gọi một ly cà phê đen… rồi nhìn mấy giọt nước đen nhểu xuống… Hơi nước sôi đọng vào thành ly. giống như giọt nước mưa trên cửa kiếng (chớ không giống như giọt nước mắt ngoài kia). Gợi được sự so sánh ấy, tôi thấy mình đã tiến bộ khá khá. Một em bé đánh giày lết tới gầm bàn. Nó nài nỉ khẩn khoản, gõ bàn chải cộp cộp lên hộp để gây áp lực với tôi. Tôi cau mày:

– Thôi đi mày!

Nó đi. Em bé bán báo dừng lại ngoài cửa, xớ rớ:

– Báo thầy! Báo thầy!

Tôi lắc đầu:

– Đọc rồi. Mời hoài vậy?

Nó nói tiếp:

– Báo mới ra. Bữa nay báo Tương Lai có “Kịch trường đặc biệt”.

Tôi giựt mình bừng tỉnh giấc mộng giữa ban ngày, mua ngay một số, lật ra trang hai, liếc qua các “tít” lớn. Các bạn ở báo Tương Lai cứ viết dông dài về cái tuồng “Gió chiều Thu”. Chán quá. Nơi mục Loa hậu trường, vài hàng chữ tóe lên:

“A lô! A lô! ‘Đoàn Hương Sắc sáu mươi lăm’ đương thành hình, do bà Quỳnh Hương làm giám đốc sẽ ra mắt vào đầu tháng Tư. Danh sách đào kép chưa chánh thức công bố, nghe đồn nữ nghệ sĩ Thiên Thai đã xé giao kèo bên đoàn Nhạn Bạch để về đoàn này.

A lô! A lô! Bà Quỳnh Hương cho biết thêm: Ký giả kiêm thi sĩ Hoài Hương đã nhận lời đưa vở tuồng đắc ý nhứt của mình cho ‘đoàn Hương Sắc sáu mươi lăm’. Khán giả đang nóng lòng chờ đợi để thưởng thức tài nghệ của nhà thi sĩ khả ái ấy. Bước đầu tiên của thi sĩ trong nghề soạn tuồng biết đâu chẳng đánh dấu ngay một sự thành công? Nhan đề vở tuồng còn trong vòng bí mật, nhưng thi sĩ đã bảo đảm với bà bầu Quỳnh Hương: ‘Tuồng này đầy đủ dân tộc tính’.”

Tôi nhẩy nhổm, đứng phắt dậy. Máu nóng “nhà quê” của tôi bỗng bừng sôi. Té ra bà Henri đã loan tin ẩu về sự hợp tác của tôi, từ hai ngày rày, liền từ sau khi tặng bó hoa hồng trên gác trọ! Chẳng vậy thì sao các thông tín viên kịch trường lượm lặt được tin sốt dẻo này, cho in lên báo kịp trưa nay? Buổi sáng ấy, mặc dầu chưa gặp mặt tôi sau năm sáu năm xa cách nhưng bà dám đề cao tuồng của tôi sẽ đủ “dân tộc tính”! Cùng với những hàng chữ in ấy, bà Henri sẽ kèm một bằng chứng khác – mấy trang giấy nháp sơ lược cốt tuồng Ba Tư – để yêu cầu người hùn vốn cứ bỏ thêm tiền ra cho bà xài! Trong khi khuyên nhủ tôi nên từ bỏ cái thói “trùm chăn quê mùa”, bà lại lợi dụng cái tật xấu của tôi. Giải quyết cách nào bây giờ? Tìm bà Henri, đòi lãnh thêm vài ngàn đồng cho hả giận, cho đáng với sự thiệt thòi của tôi? Yêu cầu bà ta đính chánh trên báo? Không được. Bà ta sẽ ngơ ngác, cho rằng tôi hiểu lầm thiện chí của bà ta đối với người em đáng thương hại. Đi tìm các ký giả quen biết, nhờ họ cho tôi thanh minh vài hàng chăng? Anh em trong làng sẽ khó xử vì chuyện ấy có gì đâu mà thanh minh cho mệt độc giả! Và thanh minh trong trường hợp này chẳng khác nào tôi trù rủa đoàn hát “Hương Sắc sáu mươi lăm” ngay từ khi còn nằm trong bào thai, gián tiếp làm cản trở sự phát triển của làng ca kịch, đập bể chén cơm “hụt” của khá nhiều công nhân sân khấu? Hơn nữa bà Henri vẫn được quyền thanh minh trở lại rằng: Nhà thi sĩ kiêm soạn giả ấy đã nhận được bó hoa hồng, đã lãnh số “tiền nước” đáng kể, đã dự bữa cơm thân mật, đã trao bản thảo vở tuồng. Đứng về phương diện độc giả, họ nghĩ thế nào trước những bằng cớ hiển nhiên ấy.

Rầu rĩ quá! Tôi gọi chiếc xích lô máy, bảo anh tài xế cứ chạy thẳng tới. Ác hại làm sao, mấy chữ hàm hồ trên mặt báo: “dân tộc tính”! Phải chăng bà Henri muốn ám chỉ câu chuyện của Chúa Ngung, Ma Nương mà bà yêu cầu tôi soạn lại? Nghi ngờ gì nữa! Bà đã bắn tin ấy ra từ bữa trước rồi mới bàn bạc với tôi về sau này, lúc ăn cơm. Theo ý của bà, hoàng tử Mai Kha ở Ba Tư là thối thân của lão Tư Hiếm, của ông Henri hay của chính tôi? Cô gái bị giết ngày xưa là thối thân của pho tượng đá? Hay kẻ thối thân là bà Henri hoặc cô đào trẻ đợt sóng mới Thiên Thai? Đâu là sự thật về Chúa Ngung, Ma Nương ở Mốp Giăng? Tôi liên tưởng đến mấy tiếng “sứ mạng của người cầm bút” mà các bực đàn anh thường nhắc nhở. Người như tôi có xứng đáng lãnh cái sứ mạng đó không? Tôi trả lời một mình: “Xứng đáng chớ”. Mãi tới ngày nay, câu chuyện ở Mốp Giăng chỉ được truyền khẩu, người ở địa phương đã già nua, hoặc bận rộn sanh kế, hoặc ít muốn nói. Hoặc họ đã chết. Đã hai lần, tôi đã “ghi chép” nó lên giấy, qua tiểu sử của ông Henri Nhan và qua… cốt tuồng cải lương Ba Tư. Còn chờ ai nữa bây giờ, nếu tôi không chịu viết ngay tất cả những điều tôi được biết – trong muôn một – dầu rằng lối viết vụng kém của tôi chỉ được có một vài người đọc thưởng thức.

Chiếc xích lô nổ máy tiến tới, đi ngang qua rạp hát cải lương. Những biểu ngữ, tranh quảng cáo lòe loẹt nào hình công chúa Nhựt xách đèn lồng, hiệp sĩ La Mã đấu gươm… Hoàng tử Mai Kha, nàng Y Liên, chuyện ở Mốp Giăng rồi cũng được vẽ đại khái như thế. Cái bốp chứa đựng nhiều tiền nhảy cồm cộm trong túi sau, giữa cái nệm xe và da thịt tôi. Số tiền năm ngàn còn quá đầy đủ nhưng tâm tư của tôi trống rỗng hơn bao giờ hết – trống rỗng như một chai nước múc đầy treo lơ lửng trên mặt đại dương bao la. Việc đầu tiên mà tôi cần giải quyết: Nhờ các bạn đính chánh: soạn giả Hoài Hương đang soạn cho đoàn “Hương Sắc” một vở tuồng đầy đủ… “Đông Phương tính” thay vì “dân tộc tính”. Liệu các bạn ký giả và bà Henri sẽ phiền tôi không? Thật là… sinh kế mới! Khó khăn mới! Tâm trí của tôi bừng sáng lên, bất chợt một ý kiến quan trọng: ” Sanh kế mới, khó khăn mới cho người sống và cho oan hồn kẻ chết nữa”. Lão Tư Hiếm đã chết thật rồi! Lần trước, qua tay ông Henri và quan tư Ca Rê lão còn thoi thóp; lần này với sự kinh doanh của bà Henri và sự yếu đuối của tôi, lão tắt thở luôn. Nay mai có thể người chết uất ức hiện hồn về, đòi xem hát.

Tôi đưa tay ra dấu hiệu để xe ngừng tại cửa. Vừa lên gác trọ, tôi vừa nói với bà chủ nhà:

– Mệt quá. Ai kiếm tôi bà cứ bảo rằng tôi ngủ, đừng đánh thức.

Rồi nằm lên ghế bố nhìn bó hoa héo, tôi thử hình dung khung cảnh người chết đi xem hát:

Đêm ấy, lão Tư Hiếm và cô gái nọ cỡi mây cỡi gió đến rạp khi hay tin trên trần gian có người muốn nhắc nhở tới sự tích của họ. Sân khấu quá sáng. Hai bóng ma của họ sợ hãi, nép mình vào mái ngói như hai kẻ trộm.

Cô gái lẩm bẩm: “Ta nên về. Đêm nay họ diễn tuồng Ba Tư chớ nào phải chuyện ở Mốp Giăng”.

Lão Tư Hiếm đáp: “Tôi không lầm đâu. Chính đêm nay, tại rạp này mà. Nhưng cớ sao tôi chưa hiểu mấy về cốt chuyện. Dường như thần Mặt Trời Ba Tư là Chúa Ngung, Ma Nương ở Mốp Giăng!”.

Cô gái cười: “Ở cõi dương, tiếng nói và màu sắc đều khác hẳn với cõi âm”.

Lão Tư Hiếm lắc đầu: “Số đào kép cải lương này ngủ ban ngày rồi thức suốt đêm như chúng ta. Có gì khác biệt đâu”…

“Có chớ, họ uống nước lạnh mà bảo rằng dự yến ẩm, dùng gươm bằng cây mà bảo rằng thanh kiếm thép. Hái hoa bằng giấy mà bảo rằng… hoa hồng thiên nhiên. Thôi ta đi về”.

Lão Tư Hiếm nói: “Cứ ở lại, chờ xem khi vãn hát. Nghe đâu sau khi rửa lớp phấn son, cởi áo mão ra cất, các đào kép tiếp tục diễn… trò đời hay lắm”.

Bức màn nhung hạ xuống, bài tạm biệt trổi lên rồi tắt hẳn. Bấy giờ, cô gái bảo: “Tôi theo chân cô đào Thiên Thai, dường như ban nãy cô ta đóng vai tôi; còn bác cứ theo bà Henri…”

Lão cãi lại: “Tôi đi theo soạn giả Hoài Hương, bạn của tôi ngày xưa, ổng đang đóng vai tôi đó”.

Thế rồi họ đi, người một ngả. Lão Tư Hiếm ghé quán nước kế bên rạp, chứng kiến cảnh bà Henri và tôi đang tranh đấu thân mật. Bà ta than phiền: “Tuồng này thâu khá tiền nhưng bà chủ nợ bỏ túi hơn phân nửa rồi. Tiền bản quyền soạn giả, xin dành lại vài đêm”. Trong khi đó, cô con gái phi thân lẻn trốn vào phòng the, tại tư thất của cô đào Thiên Thai. Cô đào khép cửa, soi gương uốn éo cười với bóng dáng mình, lật tờ tuần báo xem ngay số tử vi rồi mơ màng hôn nhẹ vào cái hình màu của chàng minh tinh màn ảnh bên trời Âu nào đó, in ngoài bìa. Cô đào liền thay quần áo mát, ngồi ăn một cái đùi gà luộc với vẻ mặt không mấy đói! Bấy giờ cô gái ma mới hiểu cái tội lỗi tày trời của mình: Nhu cầu về ăn uống, nhu cầu về xác thịt vốn là hai điều cấm kỵ. Tại sao xưa kia mình lại dại dột xúc phạm sự cấm kỵ ấy trước mặt quan kinh lý và lính mã tà để mang lụy vào thân? Phô trương cụ thể những nhu cầu ấy để làm gì, trong khi thế nhân đã nâng nó lên hàng ngôn ngữ ác hại, dùng để nguyền rủa “Đồ chết đói!” “Đồ đĩ thõa” cũng như “Đồ mắc dịch!”. Cô gái ma thở dài, buồn bã trở thành kẻ mất hồn, bay về, khuất bóng lần lần trong lớp sương giá lạnh – hơi thở của hàng trăm pho tượng đá khác còn bị chôn lấp dưới lớp đất bùn của xứ Mốp Giăng vừa cổ kính, vừa đìu hiu! Trong khi ấy, lão Tư Hiếm đi vẩn vơ theo lề phố vắng, với cái túi rỗng và cái ống điếu bằng cây ớt hiểm, dáng điệu trông như vị tù trưởng bại trận hồi thời Thái Cổ. Tiếng gà gáy chợt vẳng lên, từ chuyến xe nào chở hàng tới chợ Cầu Ông Lãnh. Lão giựt mình, chạy trở về cho kịp lúc hoàng hôn nơi địa phủ, để trầm mình nhanh xuống đáy biển – như một hạt bụi bé bỏng nối tiếp bãi bùn ra Hòn Tre xa khơi.

Ngoài cửa, tiếng bà Henri nói nhanh, giọng lảnh lót hỏi thăm tôi. Bà chủ nhà ngập ngừng:

– Ông Hoài Hương ngủ, ổng dặn đừng cho ai kêu ổng. Nếu bà có điều gì quan trọng thì…

Nhưng bà Henri nói chận trước:

– Thôi, tôi hiểu quá nhiều từ hồi ổng còn làm mấy bài thơ đồng quê lận! Ổng giận tôi rồi trùm chăn trở lại.

Chắc chắn bà Henri đang nở một nụ cười hồn nhiên đầy vẻ yêu đời với đôi má lúm đồng tiền. Bây giờ tôi chợt nhận ra một điều: Giữa ông và bà Henri tánh tình tuy hơi xung khắc, nhưng bao nhiêu thói xấu, nết tốt của họ đã bồi bổ qua lại từ lâu, tạo thành một kiểu hạnh phúc lứa đôi khá bền vững, “nồi nào úp vung nấy!”.

Họ đã có thiện chí giúp tôi về sinh kế, tại sao tôi chưa chịu cảm thông?

Tháng 8 – 1963