CHƯƠNG VI XÔ VIẾT NGHỆ TĨNH
dịch giả: lâm hoàng mạnh - nguyễn học
CHƯƠNG VI
xô viết nghệ tĩnh
ối với Nguyễn Ái Quốc, việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam là sự hoàn thành của một giấc mơ, đỉnh cao tột bực của một quá trình hoạt động cách mạng kể từ khi ông rời bến cảng Sài Gòn gần hai mươi năm trước. Do cuộc Đại khủng hoảng nổ ở phương Tây và thời kỳ mới của những hoạt động mạnh mẽ ở Đông Dương, như Cộng sản Quốc tế tiên đoán, thời kỳ ổn định tạm thời trong trật tự thế giới tư bản đã đến hồi kết thúc, đưa đến một kỷ nguyên mới của cuộc cách mạng toàn cầu.
Nhưng việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam lại nảy sinh những vấn đề cần có câu trả lời. Đảng mới nằm ở vị trí nào trong bộ máy tổ chức của Quốc tế Cộng sản? Đảng được đặt dưới quyền của Ban thư ký mới đóng ở Singapore hoặc - như Nguyễn Ái Quốc hy vọng - liệu có được chấp nhận là một đảng độc lập trực tiếp dưới quyền của Văn phòng Viễn Đông ở Thượng Hải hay không? Thêm nữa, vai trò mới của chính bản ông là gì? Liệu Moscow có để ông tiếp tục làm việc với chức danh đại diện Quốc tế Cộng sản hoặc đảm đương lãnh đạo đảng Việt Nam mới? Nếu đảm đương lãnh đạo đảng mới của Việt Nam, ông sẽ sống ở đâu, không thể trở về Đông Dương vì có thể bị bắt và bị tử hình?
Tìm được lời đáp cho những câu hỏi này, cũng là để báo cáo với Hilaire Noulens - cấp trên của ông - việc thành lập tổ chức mới, ông tới Thượng Hải ngày 13-2-1930, chỉ vài ngày sau khi bế mạc hội nghị thống nhất. Mặc bộ quần áo mỏng không đủ ấm với mùa đông lạnh lẽo, giá buốt ở Thượng Hải, ông thuê một phòng của khách sạn xoàng xĩnh và tìm cách liên lạc với Noulens. Trụ sở Văn phòng Viễn Đông của Noulens toạ lạc trong toà nhà kiểu Âu nằm dọc theo phố Nam Thanh sầm uất, trung tâm buôn bán chính của thành phố.
Đối với nhà cầm quyền địa phương, kể cả người Trung Hoa và Phương Tây, theo quan điểm cấp tiến, việc gặp cấp trên rất khó. Đến ngày thứ mưới tám, quá thất vọng, Quốc gửi một bức thư chi tiết cho Noulens, báo cáo việc thành lập đảng mới và tái bút bằng tiếng Anh có đôi câu kỳ cục:
Tôi muốn gặp ông càng sớm càng tốt, 1)Bởi vì bản báo cáo đã viết xong hai ngày mà không đến tay ông. Quả là muộn. 2) Những câu hỏi chúng ta có thể giải quyết trong vài giờ, thế mà tôi phải chờ ông đã năm ngày rồi. 3) Tôi chỉ còn biết chờ đợi và chờ đợi chẳng thể được làm gì, trong khi công việc nhiều nơi đang cần tôi.
Trong thư, Nguyễn Ái Quốc cũng bày tỏ sự bất đồng mạnh mẽ về kế hoạch của Moscow đặt Đảng cộng sản Việt Nam dưới quyền tân Ban bí thư Đông Nam Á đóng ở Singapore, tranh luận, về mặt địa lý Việt Nam gần Trung Hoa và thực tế lực lượng chủ yếu của đảng ở miền bắc như vậy nó thích hợp như một tổ chức độc lập nằm trực tiếp dưới quyền Văn phòng Viễn Đông qua văn phòng thuộc cấp ở Hong Kong. Quốc tế Cộng sản muốn thành lập những đảng ở khu vực nhưng lại không quan tâm đến bản sắc của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, còn Quốc muốn mỗi đảng phải mang tính cách riêng của từng sắc tộc đó.
Cuối cùng, Quốc cũng gặp được Noulens, vì vài ngày sau, ông viết cho Văn phòng Viễn Đông ở Moscow nói ông đã gửi bản báo cáo. Hiển nhiên ông được Noulens chấp thuận đặt Đảng cộng sản Việt Nam dưới quyền Văn Phòng Phương Nam sẽ thành lập dưới sự chỉ đạo của ông ở Hong Kong. Nhưng tất nhiên, không phải tất cả những câu hỏi của ông được giải đáp:
Giờ đây tôi không biết chính xác vị thế của tôi. Tôi là đảng viên Đảng cộng sản Pháp hay Đảng cộng sản Việt Nam? Cho tới khi nhận được lệnh mới, tôi sẽ chỉ đạo công việc Đảng cộng sản Việt Nam. Nhưng dưới chức danh nào? Tôi không trực tiếp tham gia những hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam vì tôi không thể trở về Đông Dương. Lúc này có một bản án tử hình vắng mặt đang chờ tôi. Việc tôi đại diện cho Cộng sản Quốc tế vẫn còn hiệu lực hay đã chấm dứt? Nếu đã chấm dứt, tôi còn được liên lạc với Văn Phòng khu vực ở đây không? Xin đề nghị Ban Chấp hành cho ý kiến quyết định.[1]
Trước khi đi, Nguyễn Ái Quốc gặp Nguyễn Lương Bằng, tốt nghiệp trường huấn luyện của Hội ở Quảng Châu, đang công tác ở Thượng Hải, để hướng dẫn Nguyễn Lương Bằng phương pháp tuyên truyền cách mạng cho hơn bốn nghìn binh sĩ Việt Nam dưới sự chỉ huy của các sĩ quan người Âu ở tô giới Pháp. Quốc cảnh báo Nguyễn Lương Bằng phải thận trọng khi tổ chức binh lính tham gia dưới sự lãnh đạo của đảng. Binh lính nói chung tốt nhưng dễ xốc nổi và bốc đồng. Ông cũng nhấn mạnh cần phải duy trì mối liên lạc với đại diện Đảng cộng sản Trung Quốc tại địa phương, để họ có thể giúp đỡ khi cần.
Trong lúc chờ ý kiến của Moscow về vai trò mới, Nguyễn Ái Quốc trở lại Hong Kong lập văn phòng thuộc cấp dưới sự chỉ đạo của Văn phòng Viễn Đông mà ông đã nói trong thư. Theo sử gia Xô viết Yevgeny Kobelev, trá hình dưới danh nghĩa một công ty thương mại, trụ sở Văn Phòng Phương Nam nằm ở tầng hai của một toà nhà xây bằng đá ở Hong Kong. Ông trọ ở một phòng nhỏ gần sân bay Hong Kong ở bán đảo Cửu Long. Quốc hoạt động dưới vỏ bọc một nhà báo tên L. M. Vương. Ở Hong Kong, ông tìm mọi cách liên lạc với những tổ chức cộng sản khác ở Đông Nam Á. Trong một báo cáo ngày 18 tháng 2 gửi Noulens, ông đề nghị Đảng cộng sản Việt Nam nên duy trì mối liên kết chặt chẽ với Singapore và cử một đảng viên tới đó công tác. Ông cũng đề nghị được liên lạc với Đảng cộng sản Trung Quốc tại địa phương xin địa chỉ đảng viên Trung Quốc ở Xiêm để bắt mối với họ.
Cuối tháng 3-1930, Nguyễn Ái Quốc rời Hong Kong qua Đông Nam Á để tái tổ chức Đảng cộng sản Nam Dương, theo quyết định của Moscow từ năm ngoài. Sau khi đến Bangkok, trước tiên ông tới Udon Thani, ở cao nguyên Khorat, thông báo với Việt kiều về sự thành lập Đảng cộng sản Việt Nam và việc chỉ đạo hoạt động sắp tới ở vùng này. Theo Hoàng Văn Hoan, một đảng viên trẻ của Đảng cộng sản Việt Nam, Quốc theo đúng chỉ thị Quốc tế Cộng sản kêu gọi tất cả những người cộng sản nên tham gia hoạt động cách mạng tại nước sở tại để đóng góp cho phong trào cách mạng quốc tế. Quốc đề nghị các hội viên của Hội - đã giải thể - đang sinh sống tại đây nên gia nhập Đảng cộng sản Xiêm sắp thành lập để thực hiện giai đoạn đầu của cách mạng Xiêm - cách mạng dân chủ tư sản. Để giảm bớt mối lo của Việt Kiều ở đây cho rằng họ không còn được quyền tham gia đấu tranh giải phóng Việt Nam, ông đề nghị văn phòng Hội ở Udon Thani chuyển thành Ban Chấp hành cấp tỉnh thuộc Đảng cộng sản Việt Nam.
Giữa tháng 4-1930 Nguyễn Ái Quốc trở lại Bangkok, chủ trì cuộc họp thành lập Đảng cộng sản Xiêm, bầu Ban Chấp Hành lâm thời trong đó có một đảng viên Việt Nam từ nhóm Udon Thani. Sau đó ông đến Malaya và Singapore, dự hội nghị Đảng cộng sản Nam Dương vừa được lệnh chuyển thành tân Đảng cộng sản Malaysia. Cả hai Đảng cộng sản Malaysia và Xiêm dưới quyền chỉ đạo của Văn phòng Viễn Đông ở Thượng Hải, thông qua Văn Phòng Phương Nam của Nguyễn Ái Quốc ở Hong Kong. Ông trở lại Hong Kong vào giữa tháng 5-1930.[2]
Trong khi Nguyễn Ái Quốc đang bận rộn giúp đỡ những đảng cộng sản khắp vùng, tình hình Đông Dương trở nên căng thẳng. Dấu hiệu đầu tiên bất an xảy ra đầu tháng 2-1930. Cuộc bạo động do Việt Nam Quốc Dân Đảng phát động tấn công một loạt đồn bốt ở nhiều tỉnh Bắc Kỳ. Khi bắt đầu bạo động, những người lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng tỏ ra quá vội vàng. Coi thường sự học hỏi đường lối Leninist cần phải xây dựng một tổ chức quần chúng có chân rết khắp đất nước, họ lại xây dựng một nhóm người cách mạng ở tầng lớp trên thích sử dụng bạo lực lật đổ chế độ Pháp bằng khởi nghĩa vũ trang. Kế hoạch chủ chốt của họ là lôi kéo nhóm binh sĩ gốc Việt trong hàng ngũ quân đội thuộc địa.
Quân đội thuộc địa được Ly Myre de Villers, Thống đốc Nam Kỳ, thành lập năm 1879 có khoảng 30.000 binh sĩ, hai phần ba số binh sĩ này thuộc dân tộc ít người của Việt Nam. Đội quân chia thành 31 tiểu đoàn, tất cả đặt dưới sự chỉ huy của các sĩ quan Pháp. Ngoài ra còn một lực lượng dân vệ gồm 15.000 người do các hạ sĩ quan Pháp chỉ huy. Phần lớn binh sĩ Việt Nam bị bắt theo quân dịch, số tình nguyện rất ít, do quan lại địa phương bắt thực theo tỷ lệ dân số trong khu vực cai trị, họ không đếm xỉa đến cách thức tuyển dụng. Cuối thập niên 1920, rất nhiều binh sĩ Việt Nam trong quân ngũ oán giận sâu sắc, nổi lên chống lại thói hung ác của những sĩ quan Pháp, nhưng một phần cũng do ảnh hưởng tinh thần quốc gia chủ nghĩa.
Vào năm 1929, Việt Nam Quốc Dân Đảng bắt đầu tàng trữ vũ khí tại nhiều điểm bí mật rải rác cả nước. Nhưng phần lớn những chỗ cất giấu như thế chẳng mấy chốc bị người Pháp phát hiện và phá huỷ. Sau đó hoặt động của đảng bắt đầu leo thang. Một người Pháp mộ phu cho đồn điền bị ám sát khi rời nhà tình nhân ở một phố tại Hà Nội, nhà cầm quyền nghi ngờ Việt Nam Quốc Dân Đảng chủ mưu. Hàng trăm đảng viên và những người ủng hộ bị bắt, bị buộc tội đồng loã trong vụ ám sát.
Biết chắc nếu không hành động nhanh phong trào sẽ bị bóp chết, giới lãnh đạo đảng quyết định phát động cuộc khởi nghĩa. Trước đó họ có sự ủng hộ vững chắc trong đám binh sĩ Việt Nam ở các đồn Pháp khắp Bắc Kỳ: hơn một nghìn chi bộ, mỗi chi bộ có ba đến năm người. Đầu tháng 2-1930, cuộc nổi dậy theo kế hoạch đã nổ ra ở vài đồn bốt nhỏ ở vùng núi Bắc Kỳ, kể cả đồn Yên Bái, một thị trấn nhỏ nằm dọc sông Hồng, phía tây bắc Hà Nội. Cuộc binh biến này là một thảm hoạ. Những người nổi dậy tại Yên Bái có kế hoạch đầu độc những sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp rồi sẽ nổi dậy vào nửa đêm. Nhưng một người tham gia quá hoảng sợ, tiết lộ âm mưu cho viên sĩ quan chỉ huy. Tuy lúc đầu hoài nghi, song viên sĩ quan chỉ huy này quyết định ra biện pháp đề phòng. Do vậy, khi cuộc tấn công nổ ra ngay sau nửa đêm rạng sáng ngày 10-2, người Pháp đã được chuẩn bị. Đến sáng quân nổi dậy rút lui và Pháp đã kiểm soát được tình hình. Những cuộc tấn công khác vào những tiền đồn nằm rải rác gần đó cũng bị bẻ gẫy dễ dàng. Hầu hết những người lãnh đạo đảng bị bắt. Mười ba trong số những người cầm đầu bị xử tử ngày 17 6-1930.[3]
Cuộc khởi nghĩa thất bại thảm hại. Không có kế hoạch phát động nhân dân nổi dậy, lại không có biện pháp rút lui khi thất bại. Thông tin liên lạc bị phá vỡ bất ngờ ở phút cuối cùng, đến nỗi gần như không có sự phối hợp nào giữa những người cầm đầu nổi dậy với nhau tại những đồn bốt trong vùng. Điều tệ hại nhất là cuộc khởi nghĩa chỉ được hưởng ứng yếu ớt trong nước, những đảng viên trốn thoát, vượt biên giới chạy sang Trung Hoa, ở đây họ lại chia thành hai phái - phái quyết tâm với chiến lược bạo động ban đầu - phái kia thiên về chủ trương cải cách. Chỉ sau một thời gian ngắn, người Pháp có thể thở phào nhẹ nhõm và yên tâm.
Nếu nói không có sự hưởng ứng của quần chúng đối với cuộc binh biến Yên Bái là không đúng, vì sự bất mãn trong dân chúng ở Đông Dương ngày càng tăng. Những dấu hiệu sơ bộ cho thấy hoạt động của học sinh sinh viên ở những thành phố lớn thời kỳ giữa thập niên 1920 đang gia tăng. Dù số học sinh sinh viên tăng đều đặn hàng năm (năm 1930, có khoảng 7.000 trường công thu hút tổng cộng hơn 340.000 học sinh), nhưng sự bất bình của thanh niên Việt Nam đã tăng lên do nhiều yếu tố thay đổi, kể cả vấn đề không có cơ hội được học lên cao. Phần lớn học sinh theo học trường tiểu học ở thôn quê. Không quá 5.000 học sinh theo học bậc trung học và chỉ khoảng 500 sinh viên học tại các trường Đại học Hà Nội, trường dạy kiến thức cao duy nhất ở Đông Dương. Sinh viên cũng nản lòng vì thiếu những cơ hội kiếm được công việc hấp dẫn sau khi tốt nghiệp. Trên thực tế, trong nhiều ngành nghề, người Việt được trả lương ít hơn người châu Âu cùng làm công việc tương tự. Vấn đề nhậy cảm như thế chắc chắn làm tăng thêm phản ứng của nhân dân ba miền chống lại sự thống trị của người nước ngoài.
Sau khi những hoạt động tuyên truyền tích cực của học sinh sinh viên giữa thập niên 1920 đi vào thoái trào thì làn sóng mới bất mãn của công nhân lại nảy sinh. Do vốn đầu tư của tư bản Pháp gia tăng, thương mại và các cơ sở sản xuất đã phát triển mạnh ở Đông Dương, đặc biệt từ khi kết thúc Thế chiến I. Hưởng lợi chủ yếu trong việc gia tăng hoạt động kinh doanh này là hàng ngàn người Âu sống tại Đông Dương, cũng như cộng đồng Hoa Kiều. Điều này tác động mạnh đến dân bản xứ, đáng chú ý nhất là sự phát triển của một tầng lớp trung lưu thành thị tuy nhỏ nhưng tăng nhanh. Đồng thời, giai cấp vô sản với số lượng 200.000 cuối thập niên 1920 đã hình thành. Một số công nhân làm việc trong những xí nghiệp ở những thành phố lớn, sản xuất hàng tiêu dùng như diêm, vải, đồ gỗ, và thực phẩm. Một số khác làm việc ở những mỏ than nằm dọc bờ biển phía đông Hà Nội (khoảng 50.000 thợ mỏ năm 1929, gấp 4 lần số lượng vào cuối Thế chiến I), và trong các xưởng đóng tầu ở tại Sài Gòn và Hải Phòng.
Điều kiện làm việc của phu đồn điền chè và cao su ở Tây Nguyên và dọc biên giới Campuchia đặc biệt tồi tệ. Một quan sát viên miêu tả:
Tại tất cả các đồn điền cao su, công nhân phải dậy từ 4 giờ sáng… Nhiều người không có thời gian ăn điểm tâm, rồi khi tiếng cồng vang lên lúc 5 giờ sáng, sau khi giục họ để điểm danh, tất cả công nhân phải ở ngoài sân trước - không ai được phép chậm trễ. Điểm danh khoảng 20 phút, nhưng đây là 20 phút rất căng thẳng thần kinh! Lồng ngực công nhân luôn đập thình thịch do sợ hãi vì trong thời gian điểm danh, tụi cai và những ông chủ người Pháp thường cố tìm lỗi người công nhân để có lý do chửi rủa và đánh đập họ.
Sau khi điểm danh, công nhân đi đến lô đất cây cao su bắt đầu một ngày lao động cực nhọc. Một công nhân chịu tránh nhiệm chăm sóc một cụm từ 280 tới 350 cây mỗi ngày. Trước tiên phải cạo mủ từng cây, sau đó từng thùng mủ nhỏ được đổ dồn vào một thùng lớn chở tới chỗ thu nhận.
Những người ốm yếu không thực hiện đủ hạn mức thường bị đánh, trừ khi họ hối lộ cho bọn cai để lờ đi sự vi phạm. Buổi chiều họ phải làm những công việc tạp dịch cho những ông chủ, chẳng hạn nhổ cỏ hoặc quét dọn lau chùi khuôn viên vườn tược. Đến xế chiều, mặt trời sắp lặn, công nhân mới có thể trở về nơi ở. “Vì những lý do kể trên”, người quan sát nhấn mạnh, “ở đồn điền cao su người dân có một câu cửa miệng “con không nhìn thấy cha, chó không biết mặt chủ”.[4]
Tác động về mặt xã hội của thời kỳ công nghiệp hoá thời trước không được xã hội nào hài lòng - điều kiện sống của những thành phố công nghiệp châu Âu thế kỷ XIX đã chứng minh điều đó. Tình hình ở Việt Nam không ngoại lệ, đời sống và điều kiện làm việc của tầng lớp lao động mới tồi tệ như nhau, dù làm việc ở những xưởng ở Hà Nội và Hải Phòng, hoặc ở vùng mỏ than Hòn Gai dọc Vịnh Bắc Bộ, hay là ở đồn điền cao su ở Nam Kỳ họ cũng đều đẫm mồ hôi. Việc tuyển mộ phu là sự áp đặt và cách áp dụng tuyển mộ rất tàn bạo, vì bọn chủ thuê bọn du côn, mồi chài lừa đảo người dân hiền lành, dùng sức mạnh bắt ép họ lên xe tải chở tới chỗ làm việc. Đồng lương rẻ mạt chỉ đủ sống cầm hơi, giờ làm việc kéo dài, hơn 12 giờ một ngày và 7 ngày một tuần. Nhiều người trong công nhân mới là nông dân nghèo, buộc phải bỏ ruộng đất do nợ hoặc bị địa chủ thu hồi để trừ nợ. Tuy vậy, công việc mới của họ chẳng hơn gì, không những thế thường xuyên bị đánh đập, hoàn cảnh làm việc tồi tệ, thiếu ăn và hoàn toàn không có bảo hộ lao động. Đó là sự thật về tình hình lao động mà nhà văn Charles Dickens đã đau xót vạch ra.
Dòng tư bản chảy vào Việt Nam cũng tệ hại chẳng kém, chúng càng trở nên tệ hại hơn khi làn sóng Đại khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu tác động tới Đông Dương. Tư bản Pháp bỏ chạy khỏi Đông Dương, dẫn tới nạn thất nghiệp tăng nhanh. Một số xí nghiệp, quá nửa công nhân bị sa thải. Nhiều người buộc phải trở về nông thôn, nơi trước đó họ ra đi tìm cách thoát khỏi đói nghèo. Một số người khác chọn cách phản đối. Cuối thập niên 1920, đình công trở nên hiện tượng phổ biến có chiều hướng gia tăng. Mục đích đình công theo từng hoàn cảnh cụ thể, nhưng phổ biến nhất là đòi giảm giờ làm, cải thiện điều kiện làm việc, yêu cầu cấm đối xử thô bạo bằng roi vọt của bọn đốc công - đánh người ốm yếu, kiệt sức bắt làm việc - yêu cầu bãi bỏ trả lương theo khoán sản phẩm. Trong một số trường hợp, họ được những nhà hoạt động chính trị của Hội Thanh Niên Cách mạng hoặc Đảng Tân Việt lãnh đạo, nhưng đa số do tự phát.
Dù những hoạt động bãi công còn rời rạc nhưng như thế cũng không làm an lòng người Pháp, tuy chưa đáng báo động, vì công nhân tổ chức còn quá kém và chưa phối hợp những hoạt động với nhau. Tuy nhiên, sự bất ổn có dấu hiệu đáng kể bắt đầu xuất hiện ở nông thôn, đặc biệt ở vùng đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam. Cuộc biểu tình lớn lần cuối cùng của dân nghèo bất hạnh ở vùng này xảy ra đã hơn hai thập niên trước - cuộc nổi dậy “Cắt tóc ngắn” năm 1908. Từ đấy, điều kiện sống ở nông thôn vẫn không được cải thiện. Sưu cao, thuế nặng, cùng với quan lại tham nhũng hối lộ là những đặc thù riêng ở An Nam, nơi bọn quan lại phong kiến vẫn còn rớt lại ở chính quyền địa phương.
Sự độc quyền thật ghê tởm của người Pháp trong việc bán muối, thuốc phiện và rượu v.v… đã góp thêm sự oán giận của nông dân nghèo. Một quan chức Pháp thú nhận, dân nghèo bị buộc phải mua muối từ chính phủ với giá đắt gấp 10 lần giá gốc. Trong cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Nguyễn Ái Quốc trích bức thư của Toàn quyền Albert Sarraut chỉ thị cho tất cả Công Sứ Pháp chuẩn bị “những kho” rượu và thuốc phiện sẽ được xây dựng mỗi làng trong khu vực dưới chính quyền của họ. Sarraut phàn nàn, một số làng hoàn toàn không có rượu và thuốc phiện. Ông nói tiếp, “đó chỉ là sự thoả thuận hai bên giữa sự quản lý của anh và của chúng tôi, điều đó chúng ta sẽ thu được những kết quả tốt nhất, lợi nhuận tốt nhất cho Ngân khố”. Rõ ràng, Quốc mỉa mai ngài Sarrau tự nhận mình là “người cha nhỏ bé của nhân dân” và được nhân dân kính trọng.[5]
Báo cáo của quan chức Pháp thường ca tụng những cải thiện mà chế độ thực dân mang lại cho nông thôn ở Đông Dương. Đưa ra những thí dụ, xuất khẩu gạo và cao su (xuất khẩu cao su tăng từ 200 tấn năm 1914 tới hơn 10.000 tấn năm 1929) và sự tăng lên đều đặn được dẫn ra như là bằng chứng lợi nhuận của chính quyền Pháp đem lại cho nông dân. Nhưng theo những thống kê khác, chỉ một số trung nông Việt Nam có chút lợi nhuận ít ỏi từ chính sách nông nghiệp của Pháp. Với việc thương mại hoá nông nghiệp, sở hữu đất tập trung vào tay những địa chủ giàu có, đặc biệt ở những vùng đất canh tác mới khai hoang ở đồng bằng Cửu Long, trong khi những tá điền buộc phải làm thuê.
Trong nhiều trường hợp, địa chủ buộc những người làm thuê phải lao động không công cho họ vài tuần trong một năm, hoặc phải góp phẩm vật hoặc tiền bạc ngày lễ tết hàng năm. Nhiều địa chủ cũng hành nghề cho nông dân vay lấy lãi với lãi xuất cắt cổ, họ vay để nuôi gia đình hoặc mua giống má cho vụ sau. Ruộng đất công điền, từ lâu như là một chiếc van an toàn chia cho dân nghèo không tấc đất cắm dùi, nay bị bọn địa chủ có thế lực chiếm đoạt bằng mọi thủ đoạn hợp pháp và phi pháp. Nguyễn Ái Quốc viết, có trường hợp, một quan chức Pháp sung công vài héc - ta ruộng của một làng này và đem cho một làng Công Giáo gần đấy. Khi dân nghèo bị cướp ruộng lên tiếng phản ứng, họ bị bỏ tù. Một số quan sát viên phê phán chế độ thuộc địa Pháp đã khẳng định, mặc dù sản lượng ngũ cốc cả nước tăng trong phần tư đầu tiên của thế kỷ XX, nhưng mức tiêu thụ gạo trên đầu người thực tế lại giảm đi trong cùng thời kỳ. Những đánh giá như thế có thể phóng đại, nhưng ngay cả quan chức Pháp lúc đó cũng thừa nhận, trước thập niên 1930, người dân vùng này vẫn rất nghèo khổ. Ở một số làng ở Nghệ An, quê của Quốc, tình trạng quá đông dân đã thành một vấn nạn nghiêm trọng, vì quá nửa nông dân không có ruộng.[6]
Điều kiện địa lý khắc nghiệt ngàn đời, bây giờ lại thêm ba thảm hoạ khác: những trận lụt thảm hại ở Trung Kỳ, nạn hạn hán ở vùng khác và giá gạo giảm mạnh. Gạo bị mất giá trong cuộc Đại khủng hoảng kinh tế thế giới, giá trị đất đai cũng giảm theo và nông dân đành bỏ hoang vô số ruộng đất. Pháp thừa nhận, ở một số huyện, có tới một phần ba dân làng lâm vào cảnh đói.
Xu hướng bất ổn lan tràn, dẫn đến rất bất mãn, tác động mạnh đến xã hội Việt Nam đầu thập niên 1930. Tháng 3-1930, những vụ bạo động nổ ra tại đồn điền cao su Phú Riềng, vùng đất đỏ nằm ở phía tây Nam Kỳ gần biên giới Campuchia. Vài tuần sau, công nhân đình công ở nhà máy dệt Nam Định, một trung tâm công nghiệp ở Bắc Kỳ và ở nhà máy diêm Bến Thuỷ, ngoại ô thị xã Vinh, thủ phủ tỉnh Nghệ An. Chính quyền Pháp đàn áp, một số người biểu tình bị giết, nhiều người bị thương. Vụ xô xát ở Vinh có ý nghĩa đặc biệt, vì đa số công nhân tham gia là những người vừa mới từ nông thôn ra thành thị, lại có quan hệ mật thiết họ hàng ở những làng gần đó. Khi tình hình nông thôn căng thẳng, nông dân bắt đầu tham gia những vụ bạo động với các cuộc biểu tình của công nhân. Tại huyện Thanh Chương, cách làng Kim Liên vài dặm về phía bắc - quê của Nguyễn Ái Quốc, một trong những vùng phải chịu đựng những bất ổn nhất về kinh tế ở các tỉnh miền Trung, hàng nghìn tá điền nổi giận đã đi bộ tới một đồn điền địa phương mà chủ nhân của nó đã từng chiếm ruộng công và đối xử tàn bạo với người làm công. Tài sản bị đập phá và một lá cờ búa liềm được treo lên toà nhà hành chính. Pháp đưa lính Lê dương tới đàn áp cuộc bạo động, hàng chục người biểu tình bị giết và bị thương.
Theo báo cáo của Pháp, sau khi vụ bạo động này bị đàn áp, mục tiêu của những người biểu tình thay đổi. Đa số những người lãnh đạo biểu tình là trí thức có lòng khát khao độc lập dân tộc hoặc muốn xây dựng “thiên đường cộng sản”. Nông dân gia phong trào là để thoát khỏi nghèo đói và vì bất mãn, căm thù người Pháp do bị kích động. Thái Văn Giai, một nhà hoạt động bị Pháp bắt và bị tra tấn, nói: “Quần chúng không phải là những người cộng sản, nhưng họ bất mãn. Bọn địa chủ bóc lột nông dân. Chính phủ không mở rộng mạng lưới tưới tiêu để tăng năng suất trồng trọt. Còn bọn quan lại sống không cần biết đến dân”.
Khi được hỏi tại sao nông dân căm thù người Pháp, Giai đáp “Người dân không biết gì sự thống trị của người Pháp, cái đó xa vời với cuộc sống hàng ngày của họ. Họ chỉ biết bọn quan lại, kẻ đang trực tiếp đè nén, áp bức khinh rẻ họ”.[7]
Những người cộng sản đóng vai trò chính trong việc gây nên cuộc bạo động ở Trung Bộ. Cuối năm 1929, lãnh đạo Đông Dương Cộng sản Đảng cử Nguyễn Phong Sắc, quê Nghệ An, tới Trung Kỳ tổ chức công nhân ở Vinh. Để thực hiện nhiệm vụ này, ông vào làm việc tại nhà máy diêm Bến Thuỷ. Tháng 2-1930, chỉ hai tuần lễ sau hội nghị thống nhất đảng ở Hong Kong, Tỉnh uỷ Nghệ An được thành lập, bắt đầu thành lập các chi bộ trong nhà máy và các nông hội ở nông thôn. Thiếu sự chỉ đạo sát sao của đảng, các cán bộ địa phương hành động theo phương cách tự phát của họ. Như Thái Văn Giai bình luận với những người bạn tù của ông vài tháng sau đó:
Đảng cộng sản đã chuẩn bị phong trào. Đảng đã thành lập những chi bộ, tuyên truyền rộng rãi và tổ chức những cuộc họp. Họ có thể toàn quyền hành động ở những làng nơi mà không bị ai cản trở. Những người giàu sợ hãi, không đủ cam đảm chống đối, còn bọn quan lại chẳng chú ý tới và người Pháp thì bàng quan trước những gì đang xảy ra.
Hỏi làm thế nào để tổ chức được cuộc biểu tình, Giai nói, những người hoạt động đánh trống tại đình làng huy động quần chúng địa phương. Những ai chần chừ hoặc chống lại sẽ bị hăm doạ bằng gậy gộc. Giai thừa nhận, một vài trường hợp, nhà cửa hoặc chùa chiền bị đốt cháy, đồng thời một số người chống lại cuộc biểu tình đã bị đánh đập hoặc bị giết chẳng theo một tiêu chuẩn nào. Những người tình nghi là Việt gian bị ám sát bí mật, vì Đảng “không muốn làm quần chúng hoảng sợ”.[8]
Trước tình hình nhiều đảng viên trẻ tuổi nôn nóng, Moscow tiên đoán châu Á đang ở ngưỡng cửa cuộc nổi dậy, có lẽ là sáng suốt. Trong lời khuyên lãnh đạo Hội Thanh Niên Cách mạng cuối năm 1929, Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh, sự yếu kém của một Đảng cộng sản cũng không cản nổi những người cách mạng ủng hộ tích cực cuộc nổi dậy tự phát của công nhân và nông dân. Moscow đặc biệt nhấn mạnh Hội phải tích cực tuyên truyền cách mạng trong quần chúng. Khi tình hình thuận lợi cho lực lượng cách mạng, Quốc tế Cộng sản có thể trợ giúp nhỏ, nhưng ban lãnh đạo địa phương phải tự quyết định vấn đề.
Quốc tế Cộng sản rất chú trọng về sự bất ổn ở Trung Quốc, nơi những nhóm nổi dậy dưới quyền Mao Trạch Đông - lãnh tụ đầy tham vọng của Đảng cộng sản Trung Quốc - trước sự điên cuồng đàn áp của Tưởng Giới Thạch phải di tản vào vùng rừng núi tỉnh Giang Tây, tây nam Thượng Hải. Tuy nhiên, đối với Đảng cộng sản Việt Nam mới ra đời, cuộc khủng hoảng đang gia tăng ở Việt Nam mang đầy cơ hội và nhiều thử thách. Dù Moscow đưa ra lời khuyên “không cần thiết phải chờ” tới khi một Đảng cộng sản được tổ chức hoàn thiện trước khi phát động cuộc khởi nghĩa. Đảng mới lập chưa sẵn sàng cho những cuộc đụng độ lớn với chế độ thuộc địa Pháp. Đảng lại vừa trải qua một rạn nứt đau buồn trong nội bộ phong trào, những người lãnh đạo lại chưa qua nhiều thử thách và thiếu kiên quyết. Ban chấp hành trung ương chính thức cũng chưa thành lập, hệ thống Đảng bộ địa phương còn đang trong quá trình hình thành. Trước khi Ban chấp hành được lập ra, giới lãnh đạo đảng còn ở Hong Kong, cách xa những sự kiện trong nước. Nếu Đảng âm mưu châm ngòi cuộc khởi nghĩa ở các tỉnh miền Trung, không có gì dám đảm bảo những tỉnh khác sẽ hưởng ứng. Thậm chí nếu sự chống đối và sự bất mãn ở công nhân và nông dân có thể biến thành hành động, cũng không rõ tầng lớp tiểu tư sản giao động sẽ trợ giúp hoặc đơn thuần chỉ khoanh tay đứng nhìn người Pháp đàn áp, lập lại trật tự ở những vùng nổi dậy. Đối với một người cách mạng nhậy bén lịch sử, điều kiện ở Việt Nam giai đoạn này tương tự như điều kiện ở Nga năm 1905 hơn là năm 1917.
Những đảng viên thận trọng, sáng suốt của giới lãnh đạo Đảng có cùng quan điểm đó. Ngay cả Trần Văn Cung, từng cầm đầu một nhóm ít người đã phá vỡ Hội để hình thành Đông Dương Cộng sản Đảng năm 1929, cũng thận trọng. Theo tình báo Pháp, khi những người lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng tiếp xúc với Cung để xin ông giúp đỡ cho kế hoạch nổi dậy của họ tháng 2-1930, Cung đã từ chối đề nghị, viện cớ, điều kiện cho một cuộc cách mạng chưa chín muồi. Khi một số đảng viên địa phương của Cung muốn tham gia cuộc nổi dậy Yên Bái, những người lãnh đạo khuyên họ nên chống lại cuộc nổi dậy đó.
Nguyễn Ái Quốc chắc chắn hoàn toàn đồng ý. Trước hết, Việt Nam Quốc Dân Đảng không có kỷ luật của một tổ chức đảng. Hơn nữa, ông khuyên Nguyễn Lương Bằng ở Thượng Hải phải hết sức thận trọng trong ý đồ vận động binh lính vì họ không đủ tin cậy. Nói với các đồng chí ở Xiêm vài tuần sau vụ nổi dậy Yên Bái, Quốc nhấn mạnh, ông và những đại biểu khác dự hội nghị thống nhất tháng 2-1930 ở Hong Kong cố gắng một cách vô ích liên lạc với lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng nhằm khuyên họ đừng nổi dậy.[9]
Cán bộ Đảng tham gia trong làn sóng nổi giận bất ổn ở Trung Kỳ, đã nghi ngờ và thiếu niềm tin về tương lai sán lạn, do vậy họ đã không cố gắng. Bị Nguyễn Phong Sắc thúc ép, những dân quân hăng hái giờ đảm nhận trọng trách của Tỉnh Đảng bộ mới thành lập, còn những cán bộ trong vùng tiếp tục thổi bùng ngọn lửa cách mạng ở nông thôn.
Đến đầu tháng 9-1930, sự bất ổn có nguy cơ vượt khỏi tầm tay. Những người biểu tình ở một vài huyện dọc sông Cả, tây bắc thị xã Vinh, do Tỉnh uỷ chỉ đạo, bắt đầu cướp chính quyền vào tay mình, đánh đuổi chính quyền địa phương cũ và lập ra những tổ chức nông hội để thành lập chính quyền của nông dân ở cấp địa phương. Những hội đồng nông dân được tổ chức vội vàng như thế, mang tên “Xô viết” theo kiểu Bolsevich và phần đông là những nông dân nghèo hoặc bần cố nông - những người cùng đinh ở làng, xoá bỏ các món nợ, thuế khóa và ra lệnh tịch thu các ruộng công trước đây bị địa chủ và “bọn chủ nợ địa phương” chiếm đoạt. Đồng thời, thành lập những đơn vị tự vệ để duy trì luật lệ và trật tự. Trong lúc ấy, những cuộc đình công của công nhân tiếp tục lan ra ở những nhà máy tại Bến Thuỷ, đồng thời học sinh sinh viên ở Vinh và Trường Quốc Học Huế cũng tổ chức những Hiệp Hội Học sinh Sinh viên và lên tiếng ủng hộ sự kiện này.[10]
Đôi khi, những người quá khích thậm chí đã có những hành động xấu, chiếm đất địa chủ và ám sát những “bạo chúa địa phương”, huỷ bỏ những phong tục truyền thống, như ma chay cưới xin tốn kém và kiên quyết đòi trừng phạt những thói quen “lạc hậu” như cờ bạc, trộm cắp, đĩ điếm. Thậm chí họ còn lập ra những “hợp tác xã” tình nguyện, kêu gọi dân chúng cùng nhau làm việc và chia nhau sản phẩm thu hoạch ở những gia đình trong làng.
Lo sợ mất toàn bộ chính quyền khắp các tỉnh miền Trung, chính quyền Pháp điều những đơn vị lính Lê dương tới giúp Bảo An binh của hoàng triều. Theo báo cáo, ngày 12-9-1930, hàng ngàn người biểu tình tuần hành từ làng Yên Xuyên tới tỉnh lỵ, cướp chi nhánh Ngân hàng Đông Dương ở đây. Quân đội triều đình được điều động tới để chặn con đường tới Vinh, đồng thời máy bay Pháp ném bom xuống giòng người tuần hành. Sau trọn một ngày đánh nhau - viên Toàn quyền Pháp, Rene Robin miêu tả là “ngày tồi tệ nhất” - con đường từ Vinh đến Yên Xuyên có hàng trăm người Việt Nam chết và bị thương.[11]
Khi Đảng bộ địa phương đang bận tâm với nhiệm vụ đối phó sự bất ổn ở nông thôn thì các lãnh đạo đảng chuẩn bị phiên họp đầu tiên của Ban chấp hành trung ương lâm thời ở Hong Kong. Kế hoạch ban đầu được thảo ra tại hội nghị thống nhất vào tháng 2-1930, đề nghị thành lập ngay ba Xứ uỷ ở Bắc Kỳ, An Nam, và Nam Kỳ. Mỗi Xứ uỷ sẽ bầu đại diện vào Ban chấp hành trung ương lâm thời gồm chín người, dự kiến họp ở một địa điểm ở Bắc Kỳ ngay khi tất cả các đại biểu được chỉ định. Khi Trần Phú, sinh viên sáng giá Trường Stalin ở Moscow, trở lại Hong Kong vào tháng 3-1930, Nguyễn Ái Quốc đã hội ý sau đó cử ông về Việt Nam để trợ giúp những hoạt động của giới lãnh đạo đảng trong nước.
Ban đầu cuộc họp dự kiến vào tháng 4-1930, nhưng không thành, hoãn đến tháng 7-1930, địa điểm họp chuyển về Hong Kong. Do hai đại biểu bị bắt trên đường tới Hong Kong, ngày họp lại bị hoãn một lần nữa, đến tận cuối tháng 10-1930. Để chuẩn bị những công việc lần cuối, Trần Phú trở lại Hong Kong vào tháng 9-1930 hội ý với Nguyễn Ái Quốc và báo cáo về tình hình Đông Dương. Do nắm vững học thuyết Marxist - Leninist nhờ nhiều năm học ở Liên Xô, Trần Phú được bầu vào Xứ uỷ Bắc Kỳ và là uỷ viên Ban chấp hành Trung ương lâm thời, được trao nhiệm vụ viết dự thảo cương lĩnh dựa trên xu hướng mới nhất của đường lối Quốc tế Cộng sản, thay cho bản dự thảo đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn ra trong hội nghị thống nhất tháng 2-1930. Những khác biệt về mặt tư tưởng giữa hai bản này, báo trước những cuộc tranh cãi nẩy lửa tại hội nghị sắp tới.[12]
Sau khi Nguyễn Ái Quốc và Trần Phú có chuyến đi ngắn ngày tới Thượng Hải để báo cáo cho Noulens và nhận phê chuẩn của ông đối với cương lĩnh mới của đảng, các đại biểu tới Hong Kong tham dự Hội nghị Đảng chính thức lần đầu tiên kể từ tháng 2-1930, (từ đây trở đi gọi là Hội nghị I Ban Chấp Hành Trung ương). Qua báo cáo của những đại biểu, Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên nhận được những chi tiết về tình hình bất ổn mới xảy ra ở trong nước. Trong quãng thời gian tử mùa xuân tới mùa hè, ông mất khá nhiều thời gian ở Hong Kong, Đông Nam Á và Thượng Hải nên không thể theo dõi tình hình một cách chi tiết. Sau khi thu thập được tin tức, ông báo cáo Moscow những sự kiện đang xảy ra ở Đông Dương. Ông đề nghị Quốc tế Cộng sản kêu gọi tất cả đồng chí cộng sản ủng hộ quần chúng bị áp bức trong các huyện đang bị bao vây ở Trung Kỳ. Tới lúc này, những cuộc biểu tình ở đó ít thu hút báo chí thế giới, dù những tin tức bất ổn này đã lan tới Paris.[13]
Có nhiều lý do để tin Nguyễn Ái Quốc rất lo ngại về xu hướng bạo lực vũ trang trong phong trào. Dù khủng hoảng nhanh chóng leo thang ở các tỉnh miền Trung chứng tỏ tiên đoán của ông là đúng, quần chúng nông dân ở Đông Dương đang ở ngưỡng cửa cuộc nổi dậy chống lại bọn phong kiến và thực dân áp bức họ, Đảng lại đang ở tình thế khó khăn không thể có chỉ đạo cần thiết để biến nó thành mối đe doạ nghiêm trọng chế độ thực dân. Nhiều năm sống ở Quảng Đông, Nguyễn Ái Quốc đã từng chứng kiến tận mắt cái giá đắt phải trả cho sự chuẩn bị yếu kém. Trong bài báo”Sự nghiệp vũ trang của Đảng trong nông dân” ông viết ở Berlin năm 1928, đã rút ra bài học ở Hoa Nam, phân tích những điều kiện để một cuộc cách mạng thành công có thể xảy ra ở một xã hội tiền công nghiệp giống như Việt Nam. Trong bài báo đó, ông đã nhấn mạnh tầm quan trọng việc sống còn của một liên minh có hiệu quả giữa công nhân thành thị và nông dân. Dù ông thừa nhận, nông dân không thể thu được thắng lợi nếu thiếu sự lãnh đạo của những người vô sản và sự tham gia tích cực của công nhân, ông cũng khẳng định:
Thắng lợi cách mạng vô sản không thể có ở những nước nông nghiệp hoặc bán nông nghiệp nếu giai cấp vô sản cách mạng không được sự ủng hộ tích cực của khối quần chúng nông dân… Ở Trung Hoa, Ấn Độ, châu Mỹ La tinh và ở nhiều nước châu Âu, (các nước bán đảo Balkan, Rumania, Ba Lan, Ý, Pháp, Tây Ban Nha, v.v…), giai cấp vô sản phải liên minh dứt khoát với quần chúng lao động trong cách mạng. Chỉ khi làn sóng cách mạng hướng tới quần chúng nông dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản, cách mạng mới có thể giành chiến thắng. Kể từ đây sự ủng hộ của Đảng có tầm quan trọng đặc biệt ở nông thôn.[14]
Tất nhiên, đây là chỉ một thông điệp quen thuộc, các đồng sự của Nguyễn Ái Quốc đã nghe từ trước. Và nó là một thông điệp hoàn toàn phù hợp với đường lối chỉ đạo hiện nay của Cộng sản Quốc tế, khi Moscow thông qua chúng để thâm nhập vào những Đảng cộng sản châu Á từ đầu năm đó. Theo trách nhiệm riêng, mùa hè năm 1930, Lý Lập Tam, tân Tổng Bí thư thúc ép Đảng cộng sản Trung Quốc cố gắng khuấy động nổi dậy kết hợp thành thị và nông thôn ở một số tỉnh miền Trung và Nam Trung Hoa do chính quyền nắm giữ, hòng giành được thắng lợi ở một tỉnh hay nhiều tỉnh.
Việc Moscow thừa nhận những cuộc nổi dậy ở châu Á dựa trên liên minh công - nông đã làm tăng nhiều câu hỏi cần trả lời. Trong điều kiện nào, cuộc nổi dậy theo kiểu này sẽ thành công? Và những chính sách nào nên được đưa ra để đem đến cơ hội thành công tối đa? Lenin đã luôn né được những câu hỏi như thế, nhấn mạnh, cách mạng là một nghệ thuật chứ không phải khoa học. Trong bài báo của mình viết năm 1928, như thượng dẫn, Nguyễn Ái Quốc đồng tình, trích lời Lenin nói về tác động bạo lực vũ trang ở nông thôn, cũng như ở những thành thị, không được phóng tay “tại bất kỳ thời điểm nào”, chỉ trừ trong những điều kiện cách mạng kinh điển, khi mà “sự áp bức của những tầng lớp thống trị trở thành quá quắt, không chịu đựng nổi, khi quần chúng nông dân trong tình trạng sôi sục cách mạng và sẵn sàng chiến đấu tích cực chống lại trật tự được thành lập”. Vẫn trích dẫn lời Lenin, Quốc vạch ra, những hoạt động tự phát của nông dân chứng tỏ quần chúng bị áp bức không chấp nhận con đường cũ, đất nước đã bước vào “một tình thế cách mạng trực tiếp”.
Nhưng ngay cả Đảng cộng sản xác định được điều kiện kinh điển đang tồn tại cho một cuộc cách mạng thành công, nó còn phải được quyết định hành động như thế nào để tăng khả năng thành công. Trong bài báo, Nguyễn Ái Quốc thừa nhận, không thể áp dụng “những công thức chung và những công thức đa năng về tổ chức và chiến thuật”, bởi vì điều kiện trong từng nước rất khác nhau. Đặc biệt, đó là “nghĩa vụ của đảng vô sản luôn luôn phải nắm bắt tin tức những điều kiện cụ thể của thời khắc” và phải hiểu biết cặn kẽ tình hình chính trị và đặc điểm riêng của dân chúng địa phương và văn hoá, để đưa ra chiến thuật và chiến lược phù hợp.
Để cuộc khởi nghĩa thành công, Lenin đưa ra một trong những điều kiện tiên quyết, sự ủng hộ để lật đổ trật tự cũ phải được lan rộng trong cả nước. Nhưng Nguyễn Ái Quốc đã rút kinh nghiệm của chính ông ở Trung Hoa, cuộc nổi dậy cách mạng có thể nổ ra ban đầu ở một tỉnh, sau đó lan dần sang những khu vực khác. Để tạo ra cơ hội thành công tốt nhất, ông đề nghị một tiến trình hành động riêng, giai đoạn đầu tiên của cuộc nổi dậy nên nổ ra ở một tỉnh, nơi có một số khu công nghiệp nằm giữa nơi đông dân cư nông thôn. Tại thời điểm thích hợp, khi điều kiện cách mạng chín muồi, nông dân sẽ tổ chức những đơn vị vũ trang và sau đó cùng với công nhân và dân nghèo thành thị ở những vùng khác tham gia chiến dịch trong nước. Cuộc đấu tranh vũ trang ở nông thôn theo cách này dần dần lôi kéo khí thế quần chúng và đi từ phòng vệ sang phản công. Quốc thừa nhận, ở một số quốc gia, đa dạng về mặt địa lý, kinh tế và nhiều điều kiện chính trị khác nhau thì việc lực lượng cách mạng cướp chính quyền sẽ không xảy ra trong khoảng thời gian vài tuần hoặc vài tháng, mà có thể là một thời kỳ kéo dài hoạt động cách mạng trong cả nước.
Những gì Nguyễn Ái Quốc chứng kiến ở Hong Kong, tình hình ở Trung Kỳ trong chín tháng đầu năm 1930 có một số dấu hiệu đúng như ông đã vạch ra trong bài báo ông viết cách đây hai năm. Sự bất ổn ở Trung Kỳ đã dẫn đến một liên minh chính thức giữa công nhân và nông dân, đồng thời những hành động tương tự đang xuất hiện ở những nơi khác trong cả nước. Mặt khác, ông bớt lạc quan do hoài nghi trước viễn cảnh thành công. Như trong nhiều bài báo ông đã viết trước đây, trình độ hiểu biết về chính trị và tổ chức ở Việt Nam còn sơ đẳng hơn nhiều so với những nước bán thuộc địa như Trung Hoa. Việt Nam nhỏ hơn Trung Hoa, ít có khả năng duy trì thành công được ở một khu vực. Ngoài ra, người Pháp là một đối thủ ghê gớm, khủng khiếp hơn chính phủ quân phiệt yếu ớt ở Trung Hoa. Cuối cùng, dù được Moscow tin tưởng, ông cảm thấy đảng cách mạng ông mới thành lập vẫn chưa đủ sức chuẩn bị làm chủ được tình hình.
Vì thế, cuối mùa hè năm 1930 khi Nguyễn Ái Quốc nhận được những báo cáo về bất ổn ở Trung Kỳ, ông thận trọng phản ứng trước tin tức này. Thảo luận với các đồng sự ở Hong Kong trước khi họp Hội nghị tháng Mười của Ban Chấp hành Trung ương, ông nói, vì thiếu thông tin bổ xung về tình hình, nên không dám có lời khuyên các lãnh đạo đảng ở Đông Dương ứng phó ra sao. Nhiều đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc sống ở Hong Kong, khuyên nên có hành động mạnh mẽ, chỉ ra rằng đảng của họ đã nắm bắt những lợi thế những cơ hội như vậy ở Trung Hoa. Nhưng Quốc vẫn cho hoàn cảnh ở Đông Dương chưa chín muồi để chuyển thành một giai đoạn tổng nổi dậy, dù ông công nhận nó có thể thích hợp với những tổ chức được bầu ra ở những làng nổi dậy và chia ruộng đất cho dân nghèo địa phương. Các đồng chí của Quốc đón nhận lời khuyên với thái độ hoài nghi, ngay cả một số người thận trọng hơn cũng cho hoàn cảnh này chưa đảm bảo cho bất kỳ can thiệp nào của Đảng.[15]
Dù thâm tâm Nguyễn Ái Quốc nghi ngờ về hậu quả thế nào đi nữa, ông cảm thấy Đảng bị sức ép cả về tinh thần lẫn chính trị để tranh thủ sự ủng hộ của lực lượng nổi dậy ở các tỉnh miền Trung. Nếu Đảng cộng sản Việt Nam - và duy nhất Đảng cộng sản Việt Nam - đứng hẳn về phía quần chúng bị chà đạp, áp bức trong cuộc đấu tranh chống lại thế lực đàn áp họ, thì Đảng mới có thể củng cố mối quan hệ của mình với nhân dân Việt Nam, chuẩn bị cơ sở cho cuộc cách mạng tương lai. Nếu tiếng vang cuộc nổi dậy được thế giới biết đến, nó sẽ chứng tỏ sự yếu kém của Pháp ở Đông Dương, thuyết phục Moscow rằng nhân dân Đông Dương có thể đóng góp quan trọng vào làn sóng cách mạng ở châu Á.
Lúc này, Nguyễn Ái Quốc có những thăm dò thích hợp để đạt được cân bằng tế nhị giữa hành động thận trọng và sự liều lĩnh dại dột, đang ủng hộ mạnh mẽ những phần tử nổi dậy ở các tỉnh miền Trung, đồng thời cố gắng giảm sự tổn thất nhất khi cuộc nổi dậy bị đàn áp. Khoảng tháng Chín, giới lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam ở Hong Kong gửi thư tới Xứ uỷ Trung Kỳ, khuyên:
Ở Thanh Chương và Nam Đàn lúc này, Ban chấp hành Tỉnh uỷ Nghệ An tán thành bạo lực (lập những Xô viết, chia đất, v.v…); những chính sách như thế chưa thích hợp, vì sự chuẩn bị của Đảng và quần chúng của cả nước chưa sẵn sàng, cũng không phải là bạo lực vũ trang. Bạo lực đơn lẻ, cô lập với nhiều vùng là hấp tấp, là một hành động phiêu lưu mù quáng. Nhưng với những thứ họ đang làm, chúng ta cần phải ứng xử theo cách bảo vệ đảng và ảnh hưởng Xô viết để thậm chí nếu thất bại, ý nghĩa của những Xô viết sẽ thấm sâu vào ý nghĩ quần chúng và ảnh hưởng của đảng và những hội nông dân nghèo sẽ vẫn còn được duy trì.[16]
Vẫn không rõ khi nào Xứ uỷ Trung Kỳ nhận được chỉ thị để chuyển tới Tỉnh uỷ hay không. Để trả lời với phê bình đó, đầu tháng 10-1930, báo “Người Lao Khổ” (The Oppressed), tờ báo chính thức của Đảng - đăng bài xã luận nhằm vào Đảng uỷ địa phương. Bài xã luận viết “Lúc này chưa phải là lúc sử dụng bạo lực”, những ai còn duy trì điều này thì đó là sai lầm. Không những không được sự ủng hộ mức độ cao ở các vùng, mà quần chúng còn có rất ít kinh nghiệm cách mạng, đồng thời những đơn vị dân quân ở địa phương mới được thành lập gần đây còn yếu kém cả về kỷ luật lẫn vũ khí. Bài xã luận kết luận, Đảng đòi hỏi tình hình chung có thuận lợi giống như chuẩn bị một cuộc chiến lớn, để khi tiến hành nổi dậy phải thành công.[17]
Nhưng Tỉnh uỷ Nghệ An, đơn vị chính có trách nhiệm chỉ đạo hoạt động Đảng tại địa phương, có cách nhìn khác. Trong một thông tư đưa ra đầu tháng Mười, Tỉnh uỷ hướng dẫn những đơn vị địa phương cấp dưới tiếp tục tiến hành chính sách bạo lực vũ trang chống lại những phần tử phản cách mạng, lập luận, nếu không làm như vậy quần chúng sẽ thoái chí và tố cáo cán bộ Đảng với nhà cầm quyền. Bản thông tư kết luận, bạo lực làm kẻ thù khiếp sợ và giúp sự nghiệp cách mạng thêm mạnh mẽ, đồng thời cuộc đấu tranh mang ý nghĩa sống còn. Thông tư của Ban chấp hành hướng dẫn tất cả những đơn vị tiếp tục tịch thu ruộng công vẫn còn nằm trong tay địa chủ và tiến hành ám sát có chọn lọc bọn quan lại phản cách mạng. Tuy nhiên, Tỉnh uỷ cũng nhấn mạnh những quyết định như thế cần phải được báo cáo rõ với cấp trên từ trước.[18]
Dưới bóng mây cuộc nổi dậy đang lan rộng ở Trung Bộ, lãnh đạo đảng ở Hong Kong vẫn tiếp tục chuẩn bị phiên họp toàn thể lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương. Cuối tháng 9-1930, đại biểu Nam Kỳ đã tới, nhưng chưa thấy tăm hơi những đại biểu Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Được Nguyễn Ái Quốc chấp thuận, những người sáng lập Đảng có kế hoạch trở về Đông Dương, nhưng ngay trước lúc họ xuất phát, vài đại biểu Bắc Kỳ từ Hải Phòng tới, vì thế họ đã quyết định tiếp tục họp hội nghị.[19]
Trước khi tiến hành hội nghị, Nguyễn Ái Quốc và Trần Phú đi lần chót tới Thượng Hải báo cáo tình hình và tham khảo ý kiến Noulens về nội dung những quyết định sẽ đưa ra tại hội nghị. Trần Phú trở lại Hong Kong đầu tháng 10-1930, còn Nguyễn Ái Quốc ở lại Thượng Hải thêm vài ngày để tham khảo trước khi lên tàu thuỷ Mỹ vào giữa tháng về Hong Kong.[20]
Ngày 20-10-1930, vài ngày sau khi Nguyễn Ái Quốc trở lại Hong Kong, Ban Chấp hành Trung ương họp tại một căn hộ nhỏ ở phố Khai Nguyên, Hong Kong. Tới lúc này, đại biểu từ khắp ba miền thay mặt cho toàn thể 900 đảng viên tới dự - một đại biểu tới Hong Kong bị lạc, không tìm được nơi họp. Nguyễn Ái Quốc làm việc với cả hai chức danh - chủ tịch và đại diện Quốc tế Cộng sản. Cùng tham dự còn có một uỷ viên dự khuyết - Nguyễn Thị Minh Khai, nữ đảng viên trẻ, nước da ngăm ngăm, khá đẹp, được cử tới Hong Kong vào tháng 4-1930 làm trợ lý cho Nguyễn Ái Quốc tại Văn Phòng Phương Nam.[21]
Chủ đề đầu tiên thảo luận là thông qua cương lĩnh chính trị mới thay thế cương lĩnh tạm thời do Nguyễn Ái Quốc thảo ra tại hội nghị thống nhất tháng 2-1930. Bản cương lĩnh tạm thời do Nguyễn Ái Quốc thảo không còn hoàn toàn phù hợp với tư tưởng chiến lược đương thời ở Moscow, được vạch ra trong thư phê bình của Quốc tế Cộng sản gửi tới Paris tháng 12-1929. Thư phê bình này, không tới tay Nguyễn Ái Quốc khi ông triệu tập hội nghị thống nhất, đã chỉ ra một số thiếu sót về tư tưởng trong bản tuyên ngôn của Hội Thanh Niên Cách mạng - những thiếu sót này vẫn còn phản ánh trong bản cương lĩnh tạm thời tháng 2-1930. Theo quan điểm Moscow, bản cương lĩnh không những chưa nhấn mạnh đày đủ vai trò chính của giai cấp công nhân trong cách mạng Việt Nam, mà nó còn giữ chủ thuyết Leninist không hợp thời về cách mạng hai giai đoạn.[22]
Đa số đại biểu dự Hội nghị toàn thể chấp nhận quan điểm Moscow về những khuyết điểm trong cương lĩnh tháng 2-1930, do vậy thông tri của Ban Chấp Hành Trung ương mới gửi cho tất cả đảng viên sau khi kết thúc hội nghị toàn thể, ngày 9-12, phê bình nặng nề chiến lược mặt trận thống nhất mà Hội nghị tháng 2-1930 thông qua. Trong khi chiến lược mặt trận thống nhất tìm kiếm sự ủng hộ của những phần tử tư sản và địa chủ nhỏ trong sự nghiệp độc lập dân tộc, thì bản thông tri, (do Trần Phú viết), giờ đây nhấn mạnh - những phần tử như thế là kẻ phản cách mạng và cuối cùng họ sẽ phản bội lại sự nghiệp cách mạng. Bản thông tri cũng phê bình một thực tế là sau hội nghị thống nhất, tất cả những phe phái thuộc phong trào cách mạng đã gộp lại với nhau một cách bừa bãi hơn là chọn lọc những người cách mạng trung thành nhất trong những phe phái đó.[23]
Bản cương lĩnh chính trị mới, được nhất trí thông qua, dứt khoát sửa chữa những thiếu sót của bản cương lĩnh trước. Đặt tên mới cho mặt trận thống nhất - “Mặt trận phản đế” - tuyên bố, liên minh của giai cấp công nhân Việt Nam với nông dân nghèo và trung nông là chính. Được phép hợp tác với tiểu tư sản trí thức và những đảng phái khác nhưng phải thận trọng, vì phần đông những phần tử đó - dựa trên kinh nghiệm xương máu của Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1927 - có thể từ bỏ cách mạng khi thoái trào và chạy sang phía đế quốc. Được phép quan hệ với những đảng đó, nếu họ không cản trở những nỗ lực của Đảng để tuyên truyền quần chúng. Phải cố gắng chống lại “chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi” và ảnh hưởng của họ trong quần chúng. Ngoài ra, bản cương lĩnh mới tuyên bố, tất cả những xu hướng “tiểu tư sản” như khủng bố, ám sát, hoặc làm yếu lòng tin trong quần chúng phải được Đảng loại bỏ không thương tiếc. (Lời phê bình này, thường đưa ra trong những chỉ thị mà Liên Xô gửi tới các Đảng cộng sản các nước trên thế giới, vì Moscow cho rằng trí thức hăng hái thường có xu hướng dựa vào những hành động bạo lực gây tiếng vang hơn là chịu khó nỗ lực để xây dựng phong trào cách mạng trong quần chúng. Nó cũng phản ánh sự phê bình của chính Nguyễn Ái Quốc về phương pháp ganh đua của Đảng, chẳng hạn như với Việt Nam Quốc Dân Đảng, để làm suy yếu chế độ thuộc địa).[24]
Hội nghị tháng 10-1930 cũng đã đổi tên Đảng cộng sản Việt Nam. Theo đề nghị của Moscow, đảng đổi tên thành Đảng cộng sản Đông Dương. Dù rõ ràng nguyên nhân đổi tên mang tính chiến lược của Đảng vào đường lối Quốc tế Cộng sản, tin tưởng phong trào cách mạng ở những nước nhỏ sẽ lôi kéo những nỗ lực của họ bằng sự hình thành những đảng trong khu vực để thoát khỏi ách thực dân, nó tương tự nên tham khảo “Việt Nam” để chuyển sự nghiệp độc lập dân tộc - lúc này Moscow cho là mối quan tâm “tiểu tư sản” - sang đấu tranh giai cấp. Sau khi kết thúc Hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương đưa ra một bản thông cáo chung, công khai giải thích nguyên nhân việc đổi tên:
Dù Việt Nam, Campuchia và Lào là ba dân tộc riêng rẽ, nhưng trên thực tế họ hình thành chỉ từ một khu vực. Về kinh tế họ gắn kết chặt với nhau, đồng thời về chính trị tất cả ba nước đều bị đế quốc Pháp cai trị và áp bức. Nếu công nhân và tất cả quần chúng lao động trong ba nước này muốn để lật đổ đế quốc, phong kiến và địa chủ để khôi phục độc lập và giải phóng chính mình, họ không thể chiến đấu riêng rẽ. Vì thế Đảng cộng sản, đội tiên phong của giai cấp công nhân và người lãnh đạo tất cả quần chúng trong việc tiến hành cách mạng, không được tách rời sự hiện diện của Việt Nam, Campuchia và Lào. Nếu kẻ thù của cách mạng là một khối thống nhất, khi đó Đảng cộng sản cũng cần phải tập hợp lực lượng công nhân trên toàn cõi Đông Dương.[25]
Sau khi thay đổi cương lĩnh và tên Đảng, hội nghị tập trung vào tình hình Đông Dương. Sự bất ổn ở các tỉnh miền Trung đặt những người lãnh đạo vào tình thế khó xử. Tình thế ngày càng tăng nguy cơ bùng nổ ở những tỉnh ven biển Trung Kỳ dường như không giống một cuộc nổi dậy toàn dân chống lại cai trị Pháp. Dù vài cuộc bùng nổ bạo lực riêng biệt chống lại nhà cầm quyền đã xảy ra ở vài huyện nông thôn ở miền Nam, nông dân ở Bắc Kỳ vẫn im lặng, kể cả ở những làng nghèo đói cùng cực ở đồng bằng sông Hồng. Tình hình cũng tương tự ở khu vực thành thị. Tại Sài Gòn và Hà Nội, chỉ có một số ít công nhân bãi công ủng hộ đồng bào các tỉnh miền Trung, còn hầu hết dân chúng ở thành phố tỏ ra thờ ơ. Tầng lớp trung lưu thành thị nhìn những sự kiện ở An Nam bằng sự mê say hoặc kính nể, nhưng không đứng dậy. Vì Việt Nam Quốc Dân Đảng đã thất bại sau bạo động Yên Bái, chẳng có nhóm tổ chức dân tộc chủ nghĩa nào ở Việt Nam đủ sức tập hợp quần chúng chống lại sự áp bức của đế quốc - ngoại