← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VII SỐNG TRONG VÙNG HOANG DÃ

dịch giả: lâm hoàng mạnh - nguyễn học

CHƯƠNG VII

sống trong vùng hoang dã

iệc bắt Nguyễn Ái Quốc năm 1931 ở Hong Kong là một phần trong hàng loạt chiến dịch lớn của chính quyền thực dân vây bắt những nhà hoạt động cộng sản khắp Đông Á. Chiến dịch mở màn vào đầu tháng 6-1931, bằng việc bắt Serge Lefranc ở Singapore, điệp vụ Cộng sản Quốc tế, đang thực hiện chuyến đi Đông Nam Á thay mặt Ban Bí thư Liên đoàn Thương Mại Thái Bình Dương ở Thượng Hải. Ngày 5-6-1931, Lê Quang Đạt, đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương, người được Quốc chỉ định làm liên lạc với Văn phòng Viễn Đông, bị bắt tại tô giới Pháp ở Thượng Hải. Sáng sớm hôm sau, Nguyễn Ái Quốc và đồng sự của ông Lý Sâm bị bắt ở Hong Kong. Vài ngày sau, Hilaire Noulens và vợ bị cảnh sát thành phố bắt tại một khu cư dân Quốc tế ở Thượng Hải. Noulens, danh tính của ông vẫn bí ẩn đối với nhà cầm quyền thực dân, tự nhận mình một công dân Bỉ, nhưng ngay sau đó người ta phát hiện ông có vài hộ chiếu mang tên khác nhau, quốc tịch khác nhau và lời khai của ông bị lãnh sự Bỉ ở Thượng Hải bác bỏ.

Dù không có chứng cớ Noulens làm điều gì sai trái trong bất cứ hành động tấn công ở khu cư dân quốc tế, nhưng các quan chức an ninh châu Âu tin vai trò bí mật của ông là đại diện Cộng sản Quốc tế ở Viễn Đông. Sau vài ngày tạm giam ở Thượng Hải, Noulens và vợ bị giao cho chính quyền Trung Hoa ở tỉnh Giang Tô, ông bị tống giam sau khi bị xử án ở thành phố Nam Kinh. Nhờ những cố gắng của Cứu Tế Đỏ (do Liên Xô tài trợ), cuối cùng Noulens và vợ được thả tự do và trở lại Moscow.[1]

Trong lúc ấy, Nguyễn Ái Quốc (tự nhận là nhà báo Trung Hoa Tống Văn Sơ) bị bắt mà không có trát của toà, đồng thời cảnh sát địa phương thu được những bằng chứng có thể khép ông vào những hoạt động lật đổ do Cộng sản Quốc tế xúi giục. Dù ông không vi phạm luật pháp ở Hong Kong, nhưng cảnh sát Anh không cho phép dùng lãnh địa Anh để xúi giục sự bất ổn ở những nước lân bang. Chính quyền địa phương tin chắc người bị bắt chính là Nguyễn Ái Quốc. Một số tìm cách trao ông cho nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương. Nhưng có một hiệp định Pháp - Anh không cho phép dẫn độ những người hoạt động chính trị, nên chỉ có thể ra trát trục xuất ông ra khỏi đất Hong Kong. Sau khi xác định Tống Văn Sơ chính là Nguyễn Ái Quốc, chính phủ Hong Kong đã quyết định sáu ngày sau khi bắt giữ ông, sẽ làm thủ tục điều tra theo pháp lý để ra lệnh trục xuất. Thời bấy giờ việc trục xuất thường được tiến hành trên một tàu thuỷ đặc biệt, chạy tới một cảng đặc biệt và diễn ra dưới sự canh gác của cai tù có vũ trang.[2]

Dù Nguyễn Ái Quốc không trình được hộ chiếu, nhưng nói ông có hộ chiếu mang tên Tống Văn Sơ, khẳng định không phải người Việt Nam mà là người Trung Quốc. Những trường hợp như thế này, thủ tục thông thường phải tiến hành điều tra để xác định danh tính thực và nơi sinh người bị bắt trước khi ra quyết định xử lý. Cuộc điều tra như thế tiến hành ngày 10-7-1931, nói bằng tiếng Anh, người tù phủ nhận là Nguyễn Ái Quốc, sinh quán Đông Hưng, thị trấn nhỏ ở tỉnh Quảng Đông gần biên giới Đông Dương. Ông tuyên bố đã từng tới Pháp, nhưng không đến nước Nga Xô viết, cũng chưa từng liên hệ với Cộng sản Quốc tế. Ông khẳng định là người theo chủ nghĩa quốc gia, không phải cộng sản. Ông phủ nhận sự quen biết với Serge Lefranc, nhưng thú nhận đã ký tên vào bưu thiếp được tìm thấy trong túi của Lefranc ở Singapore. Ông tranh cãi kịch liệt chống lại việc bị trục xuất về Đông Dương, yêu cầu dẫn độ về nước Anh.

Trước khi kết thúc phiên điều trần trục xuất, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu nhận được sự giúp đỡ hợp pháp từ một cơ sở bất ngờ. Có nhiều giả thuyết đưa ra. Tại sao vị luật sư trẻ tuổi ở Hong Kong Frank Loseby lại dính vào vụ này? Có giả thuyết cho rằng, có một nhân viên trong văn phòng của Frank Loseby là người Việt Nam nhờ ông làm việc này. Trong hồi ký của mình, Hồ Chí Minh giải thích, ông và Loseby từng có một tình bạn không ai biết ở Hong Kong. Theo nguồn tin ở Hà Nội ngày nay, Loseby được Cứu Tế Đỏ Quốc tế và Hội phản đế (một tổ chức đóng ở Moscow chuyên trợ giúp cho những người cấp tiến xuất chúng bị bắt ở những nước tư bản) chính thức thuê làm luật sư bào chữa cho Nguyễn Ái Quốc.[3]

Loseby ngay lập tức tham gia vụ kiện. Bị từ chối khả năng một lệnh dẫn độ, chính phủ Pháp ở Đông Dương - đang theo dõi sát cuộc điều tra - thông qua tổng lãnh sự Pháp ở Hong Kong đề nghị thông báo khi nào và bằng cách nào Nguyễn Ái Quốc bị trục xuất khỏi thuộc địa Anh. Tuy nhiên, Loseby cảnh báo chính quyền Hong Kong rằng nếu áp dụng những thủ tục trục xuất thông thường, Nguyễn Ái Quốc và Lý Sâm - người phụ nữ trẻ bị bắt cùng với ông - bị đặt vào tình thế cực kỳ nguy hiểm, vì Pháp sẽ bắt ông tại điểm rời tầu và đưa về Đông Dương để xử án. Do vậy Loseby đề nghị cho phép Quốc và Lý Sâm được rời đi theo cách tự họ thu xếp và tới một nơi họ lựa chọn.

Thống đốc Hong Kong miễn cưỡng đồng ý. Ngày 24 tháng 7, Loseby gọi điện tới Văn phòng Thuộc địa ở London nói có thể Nguyễn Ái Quốc sẽ được trả tự do, với điều kiện ông phải rời Hong Kong trong vòng bẩy ngày. Thống đốc Hong Kong thú nhận việc trục xuất Quốc về Đông Dương, đơn thuần chỉ là nguỵ trang việc dẫn độ và đã “chống lại những nguyên tắc của nước Anh”.[4]

Đến lúc này, những thông cáo báo chí do Cộng sản Quốc tế tài trợ và những chi nhánh đăng tải việc bắt Nguyễn Ái Quốc để thu hút dư luận khắp thế giới. Jules Cambon, đại sứ Pháp ở London, bày tỏ mối quan tâm của chính phủ Pháp đối với sự kiện này, nói rõ, Quốc là “một kẻ nguy hiểm quốc tế” và không cho phép được trả tự do. Dù Paris không có lý lẽ hợp pháp yêu cầu dẫn độ Nguyễn Ái Quốc về Đông Dương, Cambon muốn nhà cầm quyền Anh biết quan điểm của Pháp về việc này. Cambon cũng lặp đi lặp lại đề nghị của Tổng lãnh sự Pháp ở Hong Kong, Nguyễn Ái Quốc sẽ bị trục xuất theo cách “tạo điều kiện dễ dàng cho nhiệm vụ của Toàn quyền Đông Dương”. Bộ ngoại giao Anh, muốn làm hài lòng Pháp về vấn đề liên kết trong việc chống những hoạt động lật đổ, đồng ý với yêu cầu của Tổng lãnh sự Pháp, đề xuất Quốc sẽ bị trục xuất về An Nam, như Paris yêu cầu.[5]

Đề xuất của Bộ ngoại giao Anh làm nổ ra làn sóng tranh luận tại Văn phòng Thuộc địa ở London qua việc trao Nguyễn Ái Quốc cho Pháp. Một số quan chức cảm thấy ông không phạm điều gì chống lại luật pháp Anh, lý do duy nhất trục xuất chỉ vì ông là người cộng sản. Điều này, theo lời một quan chức, chẳng khác gì “quàng thòng lọng Pháp vào cổ ông ta”. Nhưng người khác cho rằng phải trao cho người Pháp. Một quan chức thuộc địa ghi nhận vào tháng 8-1931:

Cá nhân tôi ủng hộ việc trả người đàn ông này về tổ quốc ông ta như Bộ ngoại giao Anh đã đề xuất. Ông là một trong những người kích động tai hại nhất đang bị nằm trong túi, sau khi bắt Lefranc ở Thượng Hải. Chỉ vì kém may mắn chúng ta không đủ chứng cớ bỏ tù ông ta tội hoạt động cách mạng ở Hong Kong.

Chỉ vì tinh thần thượng võ nên đã nghiêng về hướng cho phép người đàn ông này đi tới Nga thay vì trao ông ta vào tay kẻ thù, nhưng tôi nghĩ đây là một trường hợp cần tước bỏ bản tính cao thượng này. Tội ác của kẻ làm cách mạng ở An Nam là những việc làm ti tiện bẩn thỉu, bao gồm các kiểu giết người, thậm chí đốt phá công sở và tra tấn người tới chết. Với những tội ác kiểu này, cá nhân Nguyễn phải chịu trách nhiệm, dù những sự việc sảy ra ông chỉ đạo từ xa chứ bản thân không tự tay nhúng vào.

Ngoài ra, nếu được thả tự do, ông ta sẽ tiếp tục xúi giục gây tội ác, tôi hoàn toàn đồng ý với Bộ ngoại giao và chính phủ Pháp, đây là lợi ích chung của văn minh Đông phương mà các chính quyền thuộc địa nên sát cánh cùng nhau, giúp đỡ lẫn nhau để triệt bỏ những kiểu tội ác này, loại tội ác có tính lây lan cao.[6]

Do yêu cầu của Bộ ngoại giao Anh, Thống đốc Hong Kong ra lệnh mới trục xuất Quốc về thẳng Đông Dương. Để chặn trước khả năng này, Loseby tới Toà Thượng Thẩm Hong Kong yêu cầu lệnh đình quyền giam giữ để bắt buộc có phiên toà công khai. Ngày 14-8 -1931, Toà Thượng Thẩm triệu tập để nghe vụ án. Trong thời gian vụ kiện kéo dài vài tuần, Loseby chống lệnh trục xuất mới của chính phủ, tuyên bố việc điều tra trục xuất đã sai thủ tục, bởi việc hỏi bị cáo về bản chất chính trị mà điều đó không nằm trong phạm vi mục đích ban đầu của cuộc điều tra. Khi Chánh án Joseph Kemp cảnh báo chính quyền Hong Kong ông có quyền chống lại lệnh trục xuất, một lệnh mới lập tức được thảo ra theo những điều khoản khác nhau của Sắc lệnh trục xuất năm 1917. Toà Thượng Thẩm thông qua sự thay đổi, lưu ý rằng mặc dù lệnh trục xuất hậu quả của nó tương đương với việc dẫn độ có thể bị chê trách về lý do chính sách, nhưng nó không trái với luật pháp Anh. Đòi hỏi của Nguyễn Ái Quốc về lệnh đình quyền giam giữ đã bị từ chối ngay sau đó, ông một lần nữa là đối tượng trục xuất về Đông Dương. Lý Sâm được lệnh thả và được phép rời Hong Kong theo cách riêng của cô.[7]

Frank Loseby đã thấy trước phán quyết của Toà Thượng Thẩm, ông lập tức gửi yêu cầu khẩn cấp tới Hội đồng Cơ mật ở London với lý lẽ quyết định này lạm dụng quyền lực hành pháp. Tiếp nhận vụ án, Hội đồng Cơ mật cho Nguyễn Ái Quốc một cơ hội. Vì yêu cầu khẩn không được xem xét suốt vài tháng, ông được chuyển từ nhà tù Victoria tới bệnh viện đường Bowen. Loseby thông báo cho nhà cầm quyền rằng nếu lệnh trục xuất về Đông Dương theo điều khoản 6 Sắc lệnh trục xuất bị huỷ bỏ, Quốc đồng ý chủ động rời Hong Kong theo cách riêng. Ông yêu cầu cho phép tạm thời tới nước Anh.

Tuy không ốm nặng, nhưng Nguyễn Ái Quốc kiệt quệ và hốc hác. Trong hồi ký, ông phàn nàn ở Hong Kong bị giam trong ngục tối, bị hành hạ, thức ăn là gạo hẩm, cá ươn, một chút thịt bò. Đôi khi, ông cũng thoáng qua sự tuyệt vọng trong giây lát vì không được thả. Ông kể bắt rệp, chấy rận là thứ tiêu khiển duy nhất. Để giết thời gian ông cũng hát hoặc làm thơ và viết thư cho bạn bè trên những mẩu giấy ông tìm được trong tù.

Theo một số nguồn tin, tại bệnh viện đường Bowen ông cũng được ở phòng tương đối tiện nghi và được ngài thư ký thuộc địa và vợ (bạn thân của bà Loseby), cũng như một số người châu Âu khác tới thăm thường xuyên. Do thức ăn trong bệnh viện không đủ, Frank Loseby đặt thêm đồ ăn từ một nhà hàng địa phương. Nguyễn Ái Quốc dùng thời gian nhàn rỗi đọc sách, viết báo cáo, viết một cuốn sách bằng tiếng Anh về triết lý bản thân mình. Không may, vợ chồng Losebys đánh mất cuốn sách này trong Thế chiến II.

Như thường lệ, Nguyễn Ái Quốc không bỏ lỡ dịp may để tuyên truyền cách mạng. Khách người Anh thường thăm nhà tù hoặc bệnh viện chăm chú nhìn nhân vật Bolsevich “lạ lùng”. Nhân viên người Trung Quốc và bạn bè của họ thỉnh thoảng cũng dừng lại, nhưng họ lễ phép hơn. Như Quốc viết trong một cuốn tự truyện:

Một hôm, một hộ lý người Trung Quốc, người được phân công chăm sóc Bác (tác giả trong cuốn sách) bí mật hỏi ông: “Bác ơi, cộng sản là gì? Người cộng sản đã làm gì để bị bắt?” Cô hộ lý biết rằng những người cộng sản không phải là bọn buôn lậu, trộm cắp, hoặc giết người, nhưng cô không thể hiểu tại sao những người cộng sản bị bắt.

Bác đáp “Đơn giản thôi, những người cộng sản hy vọng làm nó để những hộ lý Trung Quốc không phải nhận lệnh từ những người Anh cai trị họ”. Cô hộ lý nhìn Bác với cặp mắt mở to và đáp, “Thực thế ư?”[8]

Trong thời gian bị giam, Nguyễn Ái Quốc được phép gửi và nhận thư. Vài tuần sau khi bị bắt, ông gửi một bức thư cho Lâm Đức Thụ, cựu hội viên Hội Thanh Niên Cách mạng - bị các đồng chí của ông mất lòng tin vì nghi làm gián điệp cho Pháp. Quốc giải thích đang bị tù ba tuần và rất xấu hổ. Ông đau xót nói “Tôi không có cha mẹ. Ai sẽ làm chứng cho sự vô tội của tôi?” Quốc khẩn khoản nhờ người đồng sự một thời làm mọi cách để ông được tự do và thề biết ơn suốt đời.

Đề nghị của Nguyễn Ái Quốc thật viển vông. Vài tháng sau, Thụ báo cáo với viên sĩ quan Pháp mà Thụ ngầm liên lạc, Quốc đề nghị xin 1.000 đô-la Hong Kong để có thể đi tới châu Âu sau khi được thả. Khi Thụ hồi âm không có tiền giúp, Quốc yêu cầu Thụ thuyết phục vợ bán một đồ tư trang đồng thời đề nghị Thụ giúp tổ chức lại Đảng, nhưng Thụ trả lời không thể làm được, vì các đồng chí vẫn nghi ngờ ông. Dù Thụ khước từ và thực tế Nguyễn Ái Quốc phải biết Lâm Đức Thụ là kẻ phản bội, song ông vẫn liên lạc thư từ. Cuối tháng 11 -1931, ông viết cho Thụ rằng sức khoẻ của ông tồi tệ và thường ho ra máu. Ông đau xót nói rằng “nếu căn bệnh này tiếp tục, tôi sợ sẽ chết trong tù. Nhưng tôi tin ở mệnh Trời”. Ông khuyên Lâm Đức Thụ đừng thăm ông để tránh rắc rối với chính quyền.[9]

Thực vậy, đây có thể là thời gian cô đơn nhất của ông. Người tình của ông, Nguyễn Thị Minh Khai trẻ tuổi, hiện đang trong nhà tù Trung Hoa. Cha ông đã mất hai năm trước ở Nam Kỳ, trong cảnh nghèo túng. Quốc đã cố gắng giữ liên lạc qua thư từ với anh trai và chị gái. Ông Khiêm, anh trai ông, bị Pháp tống tù vì những hoạt động lật đổ năm 1914. Năm 1920, sau khi được thả, ông Khiêm bị cảnh sát Huế theo dõi, ở đó ông hành nghề bốc thuốc kiêm thầy địa lý, một công việc cho phép ông kín đáo thu xếp những hoạt động bí mật. Ông cũng nghèo khó, năm 1926 Quốc bí mật gửi một số tiền nhỏ qua sự giúp đỡ của Phan Bội Châu.

Nguyễn Thị Thanh, chị gái của Quốc, cũng gặp rắc rối với nhà cầm quyền. Bà bị bắt vì tàng trữ vũ khí năm 1918, được thả năm 1922 nhưng bị đặt dưới sự theo dõi. Bà sống ở Huế, giống như ông Khiêm - em trai, hành nghề bốc thuốc đồng thời bí mật tham gia chống Pháp. Khi cha bà mất năm 1929, bà về Kim Liên một thời gian ngắn để an ủi những người thân trong gia đình.[10]

Số phận Nguyễn Ái Quốc nằm trong tay Hội đồng Cơ mật ở London, quan chức Anh tiếp tục thảo luận vấn đề này. Quan điểm của Văn phòng Thuộc địa ủng hộ khuyến nghị của Thống đốc, ông sẽ được thả và được phép rời Hong Kong theo ý muốn của ông. Nhưng Bộ ngoại giao Anh vẫn tìm mọi cách vừa lòng Pháp, đề nghị nhà cầm quyền Hong Kong cứ giam Quốc cho tới khi Pháp thu thập được những chứng cứ buộc tội ông. Trong lúc chờ đợi, Văn phòng Thuộc địa đồng ý trì hoãn việc thả ông cho tới khi Hội đồng Cơ mật quyết định việc này.[11]

Ngày 22 tháng 12, Jacques Truelle, đại sứ mới của Pháp ở London, phúc đáp những yêu cầu của Anh về thông tin buộc tội Nguyễn Ái Quốc ở Đông Dương. Truelle nói với Văn phòng Thuộc địa, Bộ trưởng Bộ Thuộc địa ở Paris có bằng chứng mới nhất khẳng định những nghi ngờ của Pháp rằng Nguyễn Ái Quốc thực sự là đặc vụ của Cộng sản Quốc tế làm liên lạc với tất cả những đảng cộng sản ở Đông Nam Á. Ông nhấn mạnh, trong số những đảng này, có Đảng cộng sản Mã Lai, thuộc địa của Anh. Truelle giải thích, triều đình An Nam đã buộc tội Quốc là kẻ chủ mưu kích động nổi loạn xảy ra gần đây ở các tỉnh Trung Kỳ. Thoạt đầu, Toà án thành phố Vinh kết án tử hình Quốc, nhưng tháng 10-1929, Toà Thượng Thẩm ở Huế xem lại, bản án được giảm thành khổ sai chung thân. Tháng 2-1930, toà án quyết định Nguyễn Ái Quốc sẽ bị xử thêm một lần nữa sau khi bị nhà cầm quyền Pháp giữ. Truelle giải thích thêm, tại phiên toà mới này, Quốc sẽ bị buộc tội chủ trương và kích động nổi loạn chống lại chính phủ Nam triều, tội giết người, cướp phá và tuyên truyền học thuyết lật đổ chính phủ. Truelle tuyên bố, những lời buộc tội, dựa trên chứng cớ có trong một số tài liệu, có chữ ký của Quốc, hiện nằm trong tay nhà cầm quyền Pháp. Truelle quả quyết với London, những lời buộc tội đó chắc chắn sẽ được đưa ra sau khi Thống Sứ Pháp ở Trung Kỳ thông qua. Truelle trấn an đồng nghiệp Anh, nếu Nguyễn Ái Quốc bị buộc tội, thống sứ cam đoan sẽ không có bản án nặng.[12]

Cuối năm 1931, yêu cầu của Nguyễn Ái Quốc cuối cùng cũng tới Hội đồng Cơ mật ở London. Bào chữa cho ông là luật sư D. N. Pritt thuộc hãng luật gia Light & Fulton, còn đại diện cho chính phủ Hong Kong là nhà hoạt động chính trị xuất sắc Công Đảng Anh - Stafford Cripps. Theo luật sư của Quốc, Cripps nhanh chóng phát hiện những điều vớ vẩn trong vụ án gây ảnh hưởng uy tín chính phủ Hong Kong. Ông gặp Pritt với bản dự thảo giải quyết vấn đề bằng cách cho phép Nguyễn Ái Quốc rời Hong Kong “theo cách riêng của ông ta”. Nhưng cố vấn luật sư tại Văn phòng Thuộc địa trách cứ Cripps đã từ chối tranh cãi vụ án, cho ông có thiện cảm với những người làm chính trị bị kết án. Một số nhà văn thậm chí còn cho là Nguyễn Ái Quốc được thả sau khi đồng ý trở thành đặc vụ Anh.

Luật sư của Nguyễn Ái Quốc đồng ý chấp nhận đề nghị thoả hiệp. Chính phủ Anh chấp thuận yêu cầu của ông với Hội Đồng Cơ Mật, giúp ông đi đến nơi ông muốn. Nguyễn Ái Quốc bày tỏ sự mãn nguyện, chấp nhận quyết định. Do vậy cuộc dàn xếp giữa hai bên diễn ra vào buổi sáng hôm điều trần, ngày 27-6-1932. Vì thế vụ án chưa bao giờ được đem ra tranh cãi tại phiên toà công khai.[13]

Dù bây giờ ông có đủ tư cách không bị cảnh sát giam cầm, Nguyễn Ái Quốc vẫn lo sợ khả năng nhà cầm quyền Pháp cố tình bắt ông trên đường tới London. Do tàu thuỷ Liên Xô không cập cảng Hong Kong, Loseby đề nghị chính phủ thu xếp quy chế tạm thời cho ông sống tại Anh. Quan chức Anh ở Hong Kong thoạt đầu thông báo với ông, họ không phản đối sự thu xếp. Tuy nhiên, một vấn đề mới nảy sinh, khi kế hoạch ra đi của ông được đề cập với nhà cầm quyền Anh. Nguyễn Ái Quốc rất lo ngại đi trên một con tàu, qua kênh Suez, điệp viên Pháp có thể bắt ông tại Port Said (Ai Cập). Ông đề nghị cho phép tới châu Âu quá cảnh Australia và Nam Phi. Tuy nhiên, chẳng có nước nào vui lòng tiếp ông. Quan chức Hong Kong thông báo cho Loseby, không phản đối thu xếp quy chế tạm thời cho ông tại Anh trên đường tới Liên Xô. Hóa ra sau này mới biết do có sai sót về văn bản. Chính phủ Anh khởi thuỷ cho biết ông không được đến Anh, nhưng chữ “không” đã bị xoá một cách tình cờ từ bản thông báo.[14]

Buộc phải từ bỏ kế hoạch tới Anh, Nguyễn Ái Quốc tìm cách khác tới Moscow. Ông quyết định đi Singapore, lên một tàu thuỷ Liên Xô xuất phát từ đó đi Vlapostok. Tuy nhiên, lúc này nhà cầm quyền bực tức do chậm trễ tống khứ người khách gây phiền nhiễu của họ, những cuộc thương lượng về chuyến đi và nơi ở sắp tới của ông đã kéo dài vài tuần lễ, như lời một quan chức Anh nói với một quan chức mật thám Pháp: “Chẳng ai muốn ông ta”. Buổi chiều ngày 28-12-1932, ông rời bệnh viện, được trở lại sống tự do trên phố với lệnh phải ra khỏi thuộc địa Hong Kong trong vòng hai mươi mốt ngày.

Sau khi tá túc ngắn ngày ở nhà vợ chồng Losebys, Nguyễn Ái Quốc - cải trang ông đồ nho với bộ râu lún phún, thuê một buồng trọ tại Hội Thanh Niên Thiên Chúa Giáo của người Trung Quốc ở Cửu Long. Cố gắng làm giảm thiểu nguy hiểm do mật thám Pháp theo dõi, vợ chồng Losebys tung tin trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bị lao phổi trong bệnh viện. Cộng sản Quốc tế cũng góp một tay phao tin này. Tờ Daily Worker (Công nhân hàng ngày) xuất bản ở London đăng tin Quốc chết trong tù ngày 11-8-1932. Với sự giúp đỡ của bà Loseby, Quốc tìm đường lên tàu tới Singapore.

Nhưng những rắc rối vẫn chưa tha ông. Khi tới Singapore ngày 6-1-1933, ngay lập tức ông bị cơ quan nhập cư bắt và tống trở lại Hong Kong trên tàu Hà Sinh. Xuống tàu tại Hong Kong, người ta nhận ra ông và bắt giam ông với lý do nhập cảnh không có giấy tờ hợp lệ. Nhà cầm quyền quyết định bỏ qua lỗi vi phạm lệnh trục xuất - bất chấp sự phản đối của cảnh sát địa phương - lại thả ông ngày 22-1, với lệnh phải rời khỏi thuộc địa Hong Kong trong vòng ba ngày. Vợ chồng Loseby thu xếp một chỗ ở bí mật cho ông ở Tân lãnh địa, đồng thời tìm con đường khác đưa ông ra khỏi thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc ra đi với một người tháp tùng, trên tàu thuỷ Trung Hoa dự kiến rời Hong Kong đi Hạ Môn ngày 25-1-1932. Để tránh con mắt tọc mạch của mật thám Pháp, Quốc được hộ tống vào ban đêm tới một bến tàu trong bộ áo choàng toàn thân. Từ đây một chiếc xuồng máy được chính phủ giấu sẵn chở ông tới eo biển Lý Ngư Môn, sát bến cảng, nơi chiếc tàu thuỷ đang chờ ông.[15]

Tầu tới Hạ Môn - cảng nhượng địa của nước ngoài ở tỉnh Phúc Kiến, còn gọi là cảng Amoy - vào sáng hôm sau. Nguyễn Ái Quốc và người tháp tùng xuống tầu, đi tới Hội Thanh Niên Thiên Chúa Giáo Trung Quốc ở thị trấn thuộc lãnh thổ Trung Hoa. Nghỉ Tết cùng bạn bè, ông ở lại vài tuần vì quá mệt mỏi. Sau khi nhận tiền từ một người Trung Hoa giàu có quen biết Loseby, cuối cùng ông tới Thượng Hải bằng tầu thuỷ. Thành phố công nghiệp và thương mại lớn này, từng dìễn ra hoạt động mạnh mẽ của phong trào lao động cánh tả, vừa bị Tưởng Giới Thạch ra tay đàn áp tháng 4-1927, quét sạch những phần tử cấp tiến trong “vụ thảm sát Thượng Hải”. Chỉ còn lại một số ít đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc, sống lẩn quất trong thành phố tránh lực lượng an ninh Tưởng Giới Thạch. Để tránh mật thám ở tô giới Pháp, Quốc sống ở một khách sạn sang trọng đồng thời cải trang là một thương gia giàu có. Vì tiền túi eo hẹp, ông ăn một mình, tự giặt quần áo trong phòng. Người ta khuyên Quốc nên thận trọng, vì mật thám tuy đã mất tăm hơi ông, nhưng hiện giờ nghe đồn ông đang ở nam Trung Hoa, Đông Dương, hoặc Xiêm. Khi ông ở Thượng Hải, cảnh sát tô giới Pháp tăng cường truy lùng và treo giải thưởng lớn bắt ông.[16]

Nguyễn Ái Quốc không tìm thấy trụ sở Đảng cộng sản Trung Quốc địa phương hoạt động dưới vỏ bọc để bắt liên lạc với các đồng chí Trung Quốc, giúp ông tiền bạc cho chuyến đi, nhưng ông gặp may khi phát hiện ra Paul Vaillant-Couturier, đồng sự thân thiết, người đỡ đầu ông từ những ngày đầu thành lập Đảng cộng sản Pháp, thành viên đoàn đại biểu những người chống chiến tranh của Quốc Hội Pháp đang ở thăm Thượng Hải. Từ trước, qua bạn bè trong Đảng cộng sản Trung Quốc, Quốc biết trong trường hợp khó khăn nhất, ông có thể liên lạc với họ qua bà Tống Khánh Linh, vợ goá Tôn Dật Tiên. Sau khi chồng qua đời, bà Tống Khánh Linh, lúc này sống trong một biệt thự lớn ở phố Molière thuộc tô giới Pháp của thành phố, đã có mối quan hệ bí mật thân thiết với Đảng cộng sản Trung Quốc.

Không còn sự lựa chọn nào khác, Nguyễn Ái Quốc quyết định dùng cách liên lạc này. Thuê một taxi, ông yêu cầu người lái xe chở tới phố Molière, ở đó ông bí mật bỏ bức thư không ký tên vào thùng thư của bà. Như ông thuật lại sau này, suýt nữa thành một tai hoạ:

Lúc lên taxi quay về, (Quốc) thấy cảnh sát Pháp đã bao vây đường phố xung quanh đang xét hỏi những người đi đường. Người lái taxi tỏ vẻ ngập ngừng. Bác kêu to “Cứ đi!” May mắn, do taxi thuộc hãng xe sang trọng, nó không bị cảnh sát ngăn lại kiểm tra. Một lần nữa, thoát trong đường tơ kẽ tóc!

Nhờ mưu mẹo, ông liên lạc được với Vaillant-Couturier, thu xếp gặp nhau tại công viên thành phố. Sau khi bất ngờ biết rằng, trái ngược với những tin tức báo cáo, người bạn cũ của mình vẫn còn sống, Vaillant-Couturier giúp Quốc tỉếp xúc với những đại diện bí mật Đảng cộng sản Trung Quốc, người có thể thu xếp chuyến đi trên tàu thuỷ của Liên Xô đến Vlapostok. Vì cảnh sát Pháp đang canh gác bến tàu rất chặt chẽ, Quốc lên tầu ăn vận như một thương gia Trung Quốc giàu sang.[17]

Từ Vlapostok đi tàu hoả qua vùng băng giá Siberia, Nguyễn Ái Quốc đến Moscow vào mùa xuân 1934. Kế hoạch năm năm phát triển kinh tế Xô viết được thông qua tại Đại hội Đảng năm 1928, cũng như chương trình tập thể hoá và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đang tiến hành khắp đất nước. Đối với khách vãng lai và những người chỉ quanh quẩn ở Moscow, Leningrad hoặc những thành phố lớn khác, tình hình tỏ ra có nhiều sự tiến bộ hơn so với thập niên trước. Những nhà báo tới thăm Liên Xô viết nhiều báo cáo sinh động, lạc quan. Kịch tác gia George Bernard Shaw miêu tả nó là một “thử nghiệm lớn của xã hội” sau chuyến thăm Liên Xô giữa thập niên 1930. Nguyễn Ái Quốc có vẻ đồng ý, theo hồi tưởng của ông, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Liên Xô đang chuyển mình từ một xã hội nông nghiệp lạc hậu sang một cường quốc công nghiệp tiến bộ.[18]

Tuy nhiên, đối với hàng triệu nhân dân Liên Xô, thực tế lại khác xa. Khi quyết định tập thể hoá nông nghiệp, đầu thập niên 1930 Stalin ra lệnh xóa bỏ nền kinh tế nông nghiệp tư nhân. Phú nông, người Nga gọi là “kulaks” - hoặc “fists”, do bản chất tham lam keo kiệt của họ - đã bị “xóa bỏ như xóa bỏ một giai cấp”. Những người chống lại tập thể hoá sẽ bị giết hoặc đày đi Siberia. Hàng ngàn người buộc phải làm việc như nô lệ để thực hiện những dự án xây dựng đại trà như đào kênh Karelian, nối vịnh Phần Lan với Bạch Hải và sau đó hoàn thành tàu thuỷ chạy vào năm 1933. Dù có nhiều hàng hoá xếp trên các kệ trong cửa hàng mậu dịch quốc doanh ở thành thị, chính quyền vẫn trưng thu ngũ cốc của nông dân để nuôi dân thành phố hoặc xuất khẩu mua máy móc. Do đó, khủng hoảng ở nông thôn phát sinh. Nạn đói bắt đầu ở Ukraine năm 1932. Sau hai năm, có từ 5 đến 7 triệu người chết đói.

Giữa thập niên 1930, sự chống đối những nỗ lực tàn bạo của Stalin biến nước Nga thành một cường quốc kinh tế xã hội chủ nghĩa đã lan rộng mạnh mẽ trong Đảng cộng sản Liên Xô. Tại Đại hội XVII Đảng cộng sản Liên Xô năm 1934, cuộc vận động thay thế Stalin bằng Sergey Kirov, bí thư thành ủy Leningrad tăng lên mạnh mẽ. Nhưng Stalin đã củng cố vững chắc quyền lực, đè bẹp đối thủ, dùng sức mạnh đàn áp những người bị nghi ngờ đã vạch kế hoạch chống ông. Leon Trotsky buộc phải lưu vong. Những lãnh tụ khác, như Lev Kamenev và Grigory Zinoviev - một thời đứng đầu Cộng sản Quốc tế - bị cô lập. Vào tháng 12, Stalin ra lệnh ám sát Kirov, mở hàng loạt phiên toà trong toàn quốc nhằm thanh trừng nhưng đồng chí Bolsevich kỳ cựu đã từng sát cánh với Vladimir Lenin tiến hành Cách mạng năm 1917. Năm 1935, chỉ riêng ở Leningrad, 100.000 người tình nghi “kẻ thù nhà nước” bị bắt.

Bề ngoài, sự căng thẳng trong Đảng cộng sản Liên Xô hình như không ảnh hưởng đến cá nhân Nguyễn Ái Quốc. Khi tới Moscow, ông được đón tiếp như một anh hùng của Ban Bí thư Văn phòng Viễn Đông, bây giờ dưới quyền lãnh đạo của Otto Kuusinen, người cộng sản Phần Lan. Sinh viên Việt Nam đang học tại Trường Stalin - đổi tên thành Viện Nghiên Cứu Những Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc địa - nhận được tin Quốc chết “vì lao phổi” đã tổ chức lễ truy điệu ông cùng Trần Phú, Tổng bí thư Đảng cộng sản Đông Dương, chết trong nhà tù Pháp mùa thu năm 1931.

Nguyễn Ái Quốc ngay lập tức được bổ nhiệm phụ trách 144 sinh viên Việt Nam đang học tại Viện này, văn phòng nằm ở tầng 4 một ngôi nhà trên đường Moskovsky Bulvard. Ở đó ông tham gia giảng bài, viết báo, trông coi sinh viên. Nguyễn Khánh Toàn, một trong những sinh viên, nhớ lại:

Ông duy trì mối quan hệ cực kỳ thân thiết với nhóm sinh viên Việt Nam. Bình thường, buổi chiều ông đến, kể lại những kinh nghiệm cá nhân để nâng cao tinh thần cách mạng, đặc biệt vấn đề đoàn kết. Một số sinh viên trẻ tuổi, hay giận dỗi hoặc kiêu căng, thường cãi vã nhau về những chuyện vụn vặt. Bác Hồ thường là người đứng phân xử. Ông chỉ rõ cho mọi người thấy một số nguyên tắc chính nhằm chống lại thói hống hách, ích kỷ, tự coi mình là trung tâm, vô kỷ luật, vô chính phủ, cần tăng cường tính thống nhất và cần phải đặt lợi ích cách mạng lên trên hết. Ông thường khuyên chúng tôi: “Nếu anh không thể duy trì sự đoàn kết trong một nhóm nhỏ như thế này, làm sao anh có thể tính chuyện tập hợp quần chúng để chiến đấu chống bọn thực dân và cứu dân tộc một khi anh trở về nước?”[19]

Sống khép kín trong trường, Quốc không nhận thấy những thảm họa tàn khốc của hàng triệu nhân dân Liên Xô ở nông thôn. Sinh viên tại Viện được đối xử tốt hơn nhiều so với dân chúng. Họ được cung cấp quần áo, giầy dép, sống trong buồng tương đối rộng rãi trong ký túc xá, được ăn uống đầy đủ tại các nhà ăn tập thể miễn phí, ngoài ra còn được khám chữa bệnh, nghỉ hè miễn phí ở Crum và 140 rúp tiêu vặt mỗi tháng.

Dù vậy, Nguyễn Ái Quốc rất cần nghỉ ngơi. Những người quen tại Viện sau này nhớ lại, khi mới tới Moscow, trông ông hốc hác, còm nhom và ốm yếu, có lẽ do hậu quả nhiều tháng bị tù ở Hong Kong. Tháng 9-1934, ông tới Crum để chữa bệnh trong một viện điều dưỡng. Sau khi ở đó vài tuần lễ, ông trở lại Moscow vào Đại học Lenin, một trường dành cho những cán bộ cao cấp và ưu tú của các Đảng cộng sản anh em. Trường có hai khóa khác nhau, chương trình ba năm và chương trình sáu tháng. Ông vào khoá học sáu tháng với bí danh Lin - Linov theo tiếng Nga. Trong vài tháng sau đó, ông tham dự những buổi lên lớp, dạy những khoá về đạo đức, viết báo, đồng thời tiếp tục phân xử những vấn đề nảy sinh trong người Việt Nam tại những viện khác nhau ở Văn phòng Viễn Đông.

Thông tin về đời tư của ông rất ít ỏi trong những tháng đầu tiên ở Moscow. Lúc đầu, ông sống ở một phòng lớn với một nhóm cán bộ Trung Quốc, nhưng sau đó ông phàn nàn không hiểu họ. Người ta chuyển ông sang ở một phòng tập thể với các đồng chí nói tiếng Pháp. Dù vẫn còn yếu và xanh xao, ông vẫn tham gia hoạt động xã hội, dự triển lãm nghệ thuật, chương trình văn hoá và đều đặn đi thăm những nơi nổi tiếng của địa phương, trong đó có nông trang tập thể ở Ryazan. Theo một nhà viết tiểu sử Xô viết, ông tập thể dục hàng ngày để tăng cường sức lực cho thân hình mảnh dẻ, có quả tạ và một dụng cụ tập nở ngực trong phòng ở.[20]

Người ta thường nghĩ Nguyễn Ái Quốc biết cách xoay sở khôn khéo để tránh tác động cơn lốc thanh trừng của Stalin làm rung chuyển Liên Xô giữa thập niên 1930. Theo nhà văn Pháp, Jean Lacouture, Nguyễn Ái Quốc “cách xa những tranh chấp và những vụ thanh trừng xé nát Đảng cộng sản Liên Xô và Quốc tế Cộng sản”. Những người viết tiểu sử khác trước đây cũng đồng tình với nhận xét này.[21]

Tuy nhiên, mới đây người ta đưa ra những báo cáo, trong thời kỳ này Nguyễn Ái Quốc cũng bị nghi ngờ, thậm chí có thể bị lôi ra xét xử. Nguồn tin riêng ở Moscow cho biết, giữa thập niên 1930 khi sống ở Liên Xô, ông đã bị điều tra do ban chuyên án gồm toàn những người quen cũ và người đỡ đầu, Dmitri Manuilsky, Khang Sinh - chính khách xảo quyệt của Đảng cộng sản Trung Quốc - và Vera Vasilieva - người phụ trách Quốc tế Cộng sản. Không rõ có bị buộc tội hay không, mặc dù ai cũng biết ông có những ý kiến đi ngược đường lối chung đã được thông qua tại Đại hội VI Cộng sản Quốc tế năm 1928. Chính điều này có lẽ khiến ông bị Stalin nghi ngờ. Việc ông là một đồng sự gần gũi Mikhail Borodin - nạn nhân của những vụ án thanh trừng - có thể ảnh hưởng tới ông. Hơn nữa, việc ông bất ngờ được thả khỏi nhà tù ở Hong Kong tháng 12-1932 gây khuấy động sự nghi ngờ ở Moscow, nghi ông đã có thoả thuận ngầm với cảnh sát Anh để đổi lấy tự do.[22]

Có thể do sự ủng hộ của Manuilsky và Vasilieva, ông thoát khỏi sự cáo buộc. Vasilieva, người nhiều năm công tác liên lạc giữa sinh viên Việt Nam ở Moscow với Cộng sản Quốc tế, bảo vệ ông, lập luận, nếu có mắc sai lầm chẳng qua chỉ vì ông thiếu kinh nghiệm. Điều này giải thích được những phê phán khó hiểu của bà, trong một thư không đề ngày gửi giới lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương ở nam Trung Hoa trong khi Quốc còn ở Moscow, bà viết “Những vấn đề Quốc bị dính líu, chúng tôi cảm thấy trong hai năm tới ông phải tự học tập và tu dưỡng một cách nghiêm túc, không nên giao cho làm bất cứ việc gì. Sau khi ông học xong, chúng tôi có kế hoạch riêng sử dụng ông ta”.[23]

Trong lúc Nguyễn Ái Quốc ở Moscow, những đồng chí của ông chưa bị bắt đang cố gắng khôi phục cơ sở Đảng ở Đông Dương. Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản công nhận Đảng cộng sản Đông Dương là một thành viên vào tháng 4-1931, cùng tháng với vị lãnh đạo cao cấp Trần Phú bị Pháp bắt ở Nam Kỳ. Suốt vài tháng sau đó, tổ chức Đảng trong tình trạng hoàn toàn bị xáo trộn. Để giảm bớt khó khăn, Cộng sản Quốc tế ở Moscow chỉ thị các Đảng cộng sản anh em làm những gì mà họ có thể làm được để dư luận biết những gì đã xảy ra, chẳng hạn như cuộc nổi dậy Nghệ - Tĩnh. Kêu gọi công nhân ở tất cả các nước biểu tình ủng hộ các đồng chí bị áp bức ở Đông Dương. Cụ thể hơn, hơn ba mươi sinh viên Việt Nam đang theo học chương trình đào tạo khác nhau ở Moscow được chỉ thị trở về Đông Dương bằng nhiều con đường để bổ xung lực lượng cho Ban Chấp hành Trung ương mới. Phần lớn (22 trong số 35 người, theo một nguồn tin quốc gia) bị bắt trên đường đi hoặc rơi vào tay Pháp. Trong những người trở về an toàn có Lê Hồng Phong, người được Nguyễn Ái Quốc bảo trợ từ Tâm Tâm Xã, theo học trường hàng không ở Leningrad và sau đó chuyển về Trường Stalin năm 1929. Phong rời Liên Xô mùa hè năm 1931, sau khi dừng ở Berlin và Paris, cuối cùng ông về tới Long Châu, một thị trấn nằm ở biên giới thuộc tỉnh Quảng Tây ở phía nam Trung Quốc vào tháng 4-1932. Lê Hồng Phong cùng với hai đồng sự Hà Huy Tập và Phùng Chí Kiên từ Trường Stalin ở Moscow, cuối cùng cũng đến được gần Nam Ninh. Mùa hè năm 1933 ba người này thành lập Ban Chấp Hành Hải ngoại mới. Theo chỉ thị của Cộng sản Quốc tế, tổ chức mới được thành lập là cơ quan liên lạc tạm thời giữa Văn phòng Viễn Đông ở Moscow với tổ chức Đảng trong nước.[24]

Trong lúc này, những cơ sở Đảng được thành lập ở ba miền cố gắng khôi phục tổ chức trong nước. Đến giữa thập niên 1930, dân số cả ba miền Việt Nam đã hơn 18 triệu, gồm trên 4 triệu ở Nam Kỳ, 5 triệu ở Trung Kỳ và 9 triệu ở Bắc Kỳ. Ở Nam Kỳ, nhiệm vụ khôi phục đảng đặt trên vai Trần Văn Giàu, một thanh niên nhiều tham vọng, tốt nghiệp Trường Stalin, từ Moscow trở lại Sài Gòn đầu năm 1933. Ông lập tức làm hồi sinh tổ chức Đảng khắp các tỉnh miền Nam. Tuân theo đường lối đương thời ở Liên Xô, các cán bộ được chỉ thị tập trung cố gắng vào công nhân khu vực thành thị. Tuy nhiên, cuộc Đại khủng hoảng kinh tế thế giới dẫn tới mức độ thất nghiệp cao trong nhà máy, vì thế rất ít công nhân đủ can đảm tham gia.[25]

Đảng lại thu được kết quả tương đối nhiều trong nông thôn, đáng chú ý nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Tại đây dân chúng rất căm uất những đòi hỏi vô lý của bọn địa chủ tham lam và những quan chức tham nhũng. Còn tại Sài Gòn một nhóm nhỏ trí thức cộng sản tận dụng cơ hội Pháp nới lỏng hoạt động chính trị ở thuộc địa. Tờ Tranh Đấu (La Lutte), báo của Đảng ra đời với sự giúp đỡ của những người Việt Nam từng du học ở Paris, theo đường lối Lev Trotsky. Giới lãnh đạo đảng tại Sài Gòn thậm chí còn thành công trong việc đưa ứng cử viên tranh cử vào những chức vụ của hội đồng thành phố. Giữa năm 1933, Xứ uỷ mới Nam Kỳ được hình thành gồm những tiểu ban Miền Đông và Miền Tây, xây dựng một trường nhỏ để huấn luyện cán bộ. Trần Văn Giàu, hăng hái điều khiển lực lượng đằng sau những hoạt động đó, bị Pháp bắt vào tháng Mười, nhưng được thả ngay do không đủ bằng chứng.

Những báo cáo gửi Bộ Thuộc địa ở Paris bày tỏ sự thất vọng của cơ quan an ninh địa phương bất lực ngăn chặn những hoạt động của Đảng cộng sản Đông Dương. Một báo cáo viết: “Mật thám coi như vô tác dụng trước sự hình thành và phát triển nhiều sự kiện đầy nguy hiểm. Họ duy nhất chỉ có thể đưa ra cảnh báo, không dám ra tay đàn áp trừ khi có lệnh của nhà cầm quyền”. Nhưng dù sao mật thám đã đạt được một thành công. Do cuộc nổi dậy Nghệ - Tĩnh bị đàn áp, Lê Hồng Sơn - một sát thủ khét tiếng của Đảng, thành viên sáng lập Tâm Tâm Xã - đã phải chạy trốn từ nước này sang nước khác để tránh bị Pháp bắt. Bị trục xuất khỏi Burma vào tháng 7-1931, Lê Hồng Sơn tới Xiêm, sau đó tới Thượng Hải bắt liên lạc với Đảng cộng sản Trung Quốc. Nhưng Lê Hồng Sơn bị cảnh sát Pháp ở tô giới bắt. Sau khi bị tra tấn dã man, ông được trao cho Triều đình Việt Nam ở Huế, tháng 2-1933 bị tử hình tại Vinh.[26]

Những thành tích nho nhỏ của Trần Văn Giàu tương phản với hoàn cảnh những nơi khác tại Đông Dương. Tại cả Trung Kỳ lẫn Bắc Kỳ, cán bộ đảng hoạt động khó khăn do cảnh sát theo dõi gắt gao và dân chúng thờ ơ. Ở Trung Kỳ, một số ít đảng viên từ Xiêm trở về đã cố gắng phục hồi những cơ sở tổ chức Đảng bị tan rã. Một số đảng viên mới là những cựu đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương vừa được ra tù, (theo báo cáo của Pháp, chỉ riêng ở Vinh đã có hơn 2.000 người trong tù), nhưng giới lãnh đạo đảng lại nghi ngờ lòng trung thành của những cựu tù nhân này. Theo một báo cáo của Tỉnh uỷ Nghệ An, “trong một trăm đảng viên cũ, chỉ được một người trung thành với học thuyết của Đảng”. Giữa năm 1934, ở Trung Kỳ thành lập ba Ban Chấp hành miền, mỗi ban chấp hành phụ trách từ bốn đến bảy tỉnh. Ở Bắc Kỳ, hoạt động Đảng cộng sản Đông Dương hầu như không tồn tại cho đến tận 1934, khi những chi bộ đảng bắt đầu xuất hiện ở Việt Bắc, vùng rừng núi phía bắc đồng bằng sông Hồng. Sau đó, từ căn cứ cơ sở ở Trung Hoa, Lê Hồng Phong có điều kiện tái lập Ban Chấp hành Xứ uỷ Bắc Kỳ.

Trong lúc ấy, một nhóm Đảng viên ở Xiêm phụ trách giao liên ở cao nguyên Khorat - kế thừa hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở vùng này cuối thập niên 1920 - thành lập Ban Chấp hành Lâm Thời để chỉ đạo phong trào và lập một trường huấn luyện đào tạo những hội viên mới hoạt động ở Việt Nam. Sau đó, chính họ tạo ra mối liên lạc trực tiếp giữa hoạt động đảng ở Nam Kỳ và Trung Kỳ với thế giới. Nhiều ban chấp hành tương tự cũng được thành lập ở Lào và Campuchia.[27]

Giới lãnh đạo đảng đang phải khắc phục những hậu quả thảm khốc của cuộc nổi dậy Nghệ - Tĩnh đồng thời có nhiệm vụ quan trọng nhất tìm ra chiến lược mới. Giữa năm 1932, Lê Hồng Phong cùng các cán bộ ưu tú sống ở nam Trung Hoa đã dự thảo chương trình hành động mới của đảng, in li-tô (lithograph) lưu hành trong nội bộ đảng viên trung thành ở Đông Dương. Để giữ đúng tinh thần ở Moscow, giọng văn của tài liệu mang tính giáo phái và tả khuynh, chú trọng cách mạng chống phong kiến, đấu tranh chống đế quốc và nhấn mạnh sự nghi ngờ vai trò các đảng phái quốc gia dân tộc trong cách mạng Việt Nam.

Những quan điểm công khai trong tài liệu đó phản ánh đường lối của họ. Một bài báo trên tạp chí Bolsevich, cơ quan ngôn luận chính thức của Ban Chấp hành Hải ngoại mạnh mẽ phê bình thái độ tiểu tư sản, chẳng hạn như có ý kiến cho rằng cách mạng dân tộc phải xảy ra trước cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tác giả bài báo là Hà Huy Tập, vừa tốt nghiệp Trường Stalin, cũng phê bình cán bộ đảng ở Đông Dương quá chú trọng việc động viên nông dân ở nông thôn và kêu gọi lôi kéo mạnh hơn công nhân vào phong trào. Hà Huy Tập buộc tội nông dân là “sở hữu cá thể tham lam, lập trường không rõ ràng, chuyển biến chậm từ quan điểm lý thuyết vào thực tế, mất đoàn kết và chưa đầy đủ phẩm chất để chỉ đạo phong trào cách mạng”.

Nhìn bề ngoài lời phê bình này có vẻ nhắm vào những cán bộ đảng nói chung ở Đông Dương, nhưng thực tế ban biên tập báo Bolsevich chủ yếu nhằm vào quan điểm, đường lối trước đây của Nguyễn Ái Quốc. Một bài bình luận đã lưu ý “một số đồng chí nào đó” ở Đông Dương đã lập luận, phú nông và tư bản về cơ bản cũng chống đế quốc, do vậy họ có thể trở thành một bộ phận của phong trào cách mạng. Bài báo thẳng thừng cho rằng quan điểm đó được Nguyễn Ái Quốc đề cập tại hội nghị thống nhất tháng 2-1930, nhưng đã bị giới lãnh đạo đảng mới cuối năm đó bác bỏ. Tờ tạp chí nhấn mạnh Đảng cộng sản Đông Dương là đảng của giai cấp vô sản, không phải đảng của tất cả giai cấp cần lao. Mặc dù “những người tiến bộ nhất của các giai cấp khác có thể được kết nạp vào tổ chức, nhưng phải đảm bảo người vô sản chiếm đa số”. Nói về vấn đề độc lập dân tộc, tạp chí viết:

Đảng cộng sản chỉ đạo đấu tranh giai cấp chứ không phải đấu tranh dân tộc… Vì Đảng cộng sản là đảng của giai cấp vô sản, đấu tranh là để duy trì đường lối chính trị của chủ nghĩa quốc tế. Đảng chiến đấu bảo vệ học thuyết, tuyên truyền trong nhân dân và ngăn chặn sự rập khuôn theo kiểu: ủng hộ việc khôi phục đất nước, khôi phục giòng máu con rồng cháu tiên”… v.v…. Chúng ta đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc Pháp, nhưng điều này không đơn giản là ủng hộ chủ nghĩa dân tộc.[28]

Một bài báo khác, do Hà Huy Tập viết, thậm chí còn nói trắng ra:

Chúng ta chịu ơn nhiều Nguyễn Ái Quốc, nhưng các đồng chí đừng quên di sản dân tộc chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quốc và những chỉ thị sai lầm của ông về vấn đề nền tảng của phong trào cách mạng dân chủ tư sản ở Đông Dương, cũng như những lý thuyết cơ hội chủ nghĩa của ông vẫn còn đang ăn sâu vào ý thức những hội viên Hội và Tân Việt… Nguyễn Ái Quốc không hiểu đường lối cộng sản quốc tế, đã không hoà đồng ba tổ chức cộng sản Đông Dương từ đầu đến chân, không thực hiện thảo luận chiến thuật mà Cộng sản Quốc tế đã áp dụng để loại trừ những ước mơ cơ hội chủ nghĩa của những bộ phận đó. Cuốn sách nhỏ nhan đề “Cương lĩnh vắn tắt và Điều lệ vắn tắt” (tức Cương lĩnh chính trị đưa ra tháng 2-1930) và những quy chế của đảng thống nhất đã không đi theo đúng chỉ dẫn của Quốc tế Cộng sản.

Nguyễn Ái Quốc cũng bào chữa chiến thuật sai lầm và hợp tác với kẻ thù như “trung lập với giai cấp tư sản và phú nông”, “liên minh với bần nông và trung nông”…v.v… đây là những chính sách sai lầm từ tháng Một đến tháng Mười 1930 mà Đảng cộng sản Đông Dương theo đuổi, ở nhiều điểm, đi ngược với chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, cho dù là chính sách đó hăng hái chỉ đạo quần chúng trong đấu tranh cách mạng, giống như chính sách mà Xô viết Nghệ An theo đuổi, không phù hợp với đường lối của Đảng.[29]

Tháng Sáu 1934, Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập triệu tập cuộc họp ở Macao - thuộc địa Bồ Đào Nha - để tham khảo ý kiến cán bộ lãnh đạo Đảng trong nước về chính sách sắp tới và chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất. Trong nghị quyết đưa ra cuối Hội nghị, cái gọi là những nhà cải cách dân tộc chủ nghĩa - gồm Bùi Quang Chiêu, nhà báo yêu nước Huỳnh Thúc Kháng (sau này là thành viên chính phủ Hồ Chí Minh ở Hà Nội) và nhà trí thức cấp tiến Nguyễn An Ninh - tất cả đều bị buộc tội là đồng lõa với chủ nghĩa đế quốc. Bản nghị quyết buộc tội những nhân vật này là đặc biệt nguy hiểm vì họ “khoác áo người bảo vệ quần chúng lao động, kẻ thù của chính phủ, là những người tuyên truyền cải cách hiến pháp, người ủng hộ liên minh Pháp - Việt và thống nhất các tầng lớp, với mục đích độc quyền đưa quần chúng đi trệch con đường cách mạng”. Bản nghị quyết kết luận, nhiệm vụ của tất cả đảng viên là phải loại bỏ ảnh hưởng của nhóm người này, gồm những phần tử Trotskits, những hội viên Hội Thanh Niên Cách mạng cũ và những người còn lại của Đảng Tân Việt.[30]

Khi tấn công khuynh hướng “dân tộc chủ nghĩa” trong nội bộ đảng và những cố gắng khôi phục hoạt động tích cực của đảng ở nông thôn, Ban Chấp Hành Hải Ngoại ra sức phản ánh đường lối tư tưởng đang thịnh hành ở Moscow. Trong khi Ban Chấp hành cố gắng đưa đảng viên trong nước đi đúng đường lối chỉ đạo chiến lược do Liên Xô đưa ra, thì bầu không khí ở Moscow bây giờ thay đổi. Tháng 10-1934, một bài báo viết dưới bút danh “Orgwald” in trong tờ Quốc tế Cộng sản, tờ báo chính thức của Cộng sản Quốc tế (bằng tiếng Pháp). Bài báo nhan đề”Entretien avec les camarades indochinois” (Cuộc phỏng vấn với các đồng chí Đông Dương) thoạt đầu đăng ở một tạp chí khác vào tháng 7-1933, tác giả phê bình giới lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương về thái độ bè phái đối với mặt trận thống nhất. Orgwald vạch ra, điều này chống lại những người cải cách dân tộc chủ nghĩa, vì giới lãnh đạo của họ rõ ràng phản cách mạng và phải bị lột mặt nạ. Nhưng sẽ sai lầm khi kêu gọi lật đổ giai cấp tư sản, vì giai cấp tiểu tư sản và ngay cả một số người thuộc giai cấp tư sản dân tộc cũng sẵn lòng cộng tác với Đảng nếu Đảng dùng khẩu hiệu chống đế quốc.[31]

Không rõ giới lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương có nhận được bản sao bài báo đó hay không. Dù sao đi nữa, họ cũng có lý do lúng túng về đường lối hiện tại, chẳng hạn trong một bài khác nhan đề “Bức thư gửi các đồng chí Đông Dương”, người ta cho rằng do một người lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc viết, đăng ngày 5-8-1934, cũng do tờ báo trên xuất bản. Sau khi dành hết phần lớn nội dung phê bình sự yếu kém của tổ chức Đảng, sự cần thiết tăng cường kỷ luật và làm việc với quần chúng, tác giả trở lại vấn đề mặt trận thống nhất và tầm quan trọng của nó trong việc đấu tranh cách mạng. Về việc khước từ bản chất của mặt trận, bức thư tỏ ra mơ hồ, khó hiểu. Giống chương trình hành động năm 1932, (chỉ những hành động đặc biệt) - nó phê bình mạnh mẽ “những người cải cách dân tộc chủ nghĩa”, ngay cả những người che dấu tính cách dưới những khẩu hiệu “tả khuynh” và “dân tộc chủ nghĩa”. Bài báo khẳng định, những nhà cải cách đó cần phải bị phê phán không thương xót.[32]

Những quan điểm đó, được hàng ngũ lãnh đạo cao cấp ở Moscow chấp nhận chính thức, đã khiến người nhận bối rối, lúng túng. Bà Vera Vasilieva, chuyên viên về Việt Nam của Quốc tế Cộng sản, trong bức thư gửi các đồng chí Đảng cộng sản Đông Dương viết ngày 17-3-1935, khẳng định, bài báo của Orgwald và bức thư của Đảng cộng sản Trung Quốc thể hiện đường lối chính sách cơ bản, cùng với chương trình hành động của chính Đảng cộng sản Đông Dương năm 1932. Bức thư của bà Vasilieva chắc chắn được dùng làm đường lối chỉ đạo cho giới lãnh đạo đảng trong việc chuẩn bị Đại hội toàn quốc sắp tới.

Tại cuộc họp ở Macao tháng 6-1934, Ban Chấp hành Hải Ngoại thông qua kế hoạch tiến hành Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ Nhất ở Hong Kong vào tháng 1-1935. Tuy nhiên, theo nguồn tin của Pháp, Quốc tế Cộng sản đề nghị hoãn đến tháng 3 năm sau. Cuối mùa hè năm 1934, giới lãnh đạo đảng bắt đầu soạn thảo tài liệu để thảo luận tại Đại hội, họ dự kiến diễn ra ở Macao. Các chỉ thị được gửi tới toàn thể đảng viên đề cử đại biểu tới Macao trước ngày 15-3. Giới lãnh đạo đảng hy vọng Moscow sẽ cử đoàn đại biểu Cộng sản Quốc tế chính thức tới dự Đại hội. Đầu tháng 8-1934, đoàn đại biểu Đảng cộng sản Đông Dương gồm Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai (được thả khỏi nhà tù ở Quảng Đông, hoạt động dưới tên Vân), và Hoàng Văn Nọn (đảng viên tỉnh Cao Bằng) đến Moscow tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản VII, dự kiến diễn ra mùa hè 1935.[33]

Do Lê Hồng Phong đi Moscow, Hà Huy Tập bây giờ là cán bộ đảng cao cấp chuẩn bị Đại hội toàn quốc. Sinh ở tỉnh Nghệ An, Tập vào Đảng Tân Việt, sau đó chạy sang Hội Thanh Niên Cách mạng. Khi học ở Trường Stalin, ông ra sức trau dồi lý luận, lớn tiếng phê bình những khuyết điểm về mặt tư tưởng của Hội. Mật thám Pháp miêu tả ông là người tự kiêu, quỷ quyệt và “một kẻ cực đoan”. Chẳng mấy chốc Tập va chạm với các đồng chí trong quan hệ, họ đặt biệt danh “ông Lùn” vì chiều cao một mẩu. Nhưng quan hệ căng thẳng đặc biệt giữa Hà Huy Tập với Trần Văn Giàu. Tháng 9-1934, Giàu tới Macao, một phần để báo cáo tình hình Nam Kỳ và một phần tham dự công việc chuẩn bị Đại hội. Trần Văn Giàu coi thái độ nóng nảy của Tập là một kẻ hãnh tiến, còn Tập lại nghi ngờ thái độ kiêu căng, làm việc theo ý mình của Giàu. Cuối cùng, Tập bắt đầu lo ngại Trần Văn Giàu là gián điệp của Pháp, đã báo cáo những nghi ngờ trong bức thư gửi cho Moscow. Chỉ sau này, khi nhà cầm quyền Pháp lục soát nơi ở của Giàu, Hà Huy Tập mới thừa nhận sự nghi ngờ chẳng có căn cứ.[34]

Hoá ra mối nguy hiểm xuất phát từ chỗ khác. Một cán bộ Đảng làm nghề đầu bếp ở Macao, Nguyễn Văn Trâm, ăn cắp một số tiền lớn trong quỹ Đảng cộng sản Đông Dương và chạy sang Hong Kong. Vì Trâm được giao nhiệm vụ tìm địa điểm cho Đại hội ở Macao, giới lãnh đạo đảng buộc phải thay đổi nơi họp, sợ Trâm tiết lộ địa điểm cho gián điệp Pháp đang hoạt động mạnh tại thuộc địa Bồ Đào Nha. Hà Huy Tập cũng nghi ngờ người thứ hai, Nguyễn Hữu Cần, đã báo cáo cho Lãnh sự Pháp ở đó về những hoạt động của Đảng cộng sản Đông Dương. Để giảm thiểu thiệt hại, Tập ra chỉ thị tất cả những chi bộ đảng ở Đông Dương và Xiêm phải cực kỳ chú trọng tới an ninh và cử Trần Văn Giàu trở lại Nam Kỳ để tái tổ chức hệ thống Đảng cộng sản Đông Dương ở đó. Ông ra sức tung hoả mù với mật thám bằng cách tung tin giả cho Cần, phàn nàn Đảng đang gặp rất nhiều khó khăn nên không thể họp Đại hội toàn quốc như dự định.[35]

Đại hội đảng toàn quốc dự định khai mạc ngày 18-3-1935, nhưng do sợ lộ và cũng do một số đại biểu chậm trễ trên đường đi, tới phút chót nó được hoãn đến 27-3-1935. Tham dự đại hội, ngoài Hà Huy Tập, còn có Hoàng Đình Giong, Phùng Chí Kiên và mười đại biểu khác. Không có đại diện Cộng sản Quốc tế hoặc những đảng cộng sản khác tới dự.

Đại biểu tới Hội nghị Macao đại diện cho toàn thể tám trăm đảng viên hoạt động ở Đông Dương và Xiêm. Phần đông là người Kinh, một số ít như Hoàng Đình Giong và Hoàng Văn Nọn là người dân tộc thiểu số miền núi, hoặc Hoa Kiều. Đa số còn tương đối trẻ, trong số 12 hay 13 đại biểu, chỉ có vài phụ nữ. Nguyễn Thị Minh Khai, người tình của Quốc và trợ lý một thời của ông tại Văn Phòng Phương Nam ở Hong Kong cũng có mặt, người ta cho rằng trong giới lãnh đạo đảng không phân biệt giới tính.

Không có thống kê chính xác, song tỷ lệ đảng viên xuất thân từ công nhân hoặc nông dân đang tăng lên, mặc dù giới lãnh đạo chủ yếu là những người xuất thân từ thành phần Nho học, nhiều người đã từng học trong hệ thống giáo dục Pháp - Việt và giờ đây đang là những người cách mạng chuyên trách. Như chúng tôi trình bày, Nguyễn Ái Quốc luôn phàn nàn những đảng viên không được học hành thường gặp khó khăn trong việc tiếp thu tư tưởng phức tạp của học thuyết Marxist - Leninist, đôi khi chịu áp lực quá sức. Vội đánh giá chống lại việc xem thường đảng viên xuất thân từ nông thôn đặc biệt mạnh mẽ trong nội bộ giới lãnh đạo, những người thừa hưởng kiến thức học được ở Moscow cũng như thái độ theo lệ cổ của tầng lớp Nho học Việt Nam. Công nhân và nông dân tuy rất hữu dụng, nhưng cũng chỉ là phương tiện để họ dễ dàng thâm nhập vào nhà máy và nông thôn để tuyên truyền cho sự nghiệp.

Tuy làn gió thay đổi đã phát ra từ Moscow, những quyết định đưa ra tại Hội nghị Macao không thay đổi chiến lược hiện tại của đảng. Nghị quyết chính tr?