CHƯƠNG IX (tt)
dịch giả: lâm hoàng mạnh - nguyễn học
CHƯƠNG IX (tt)
ại Đông Nam Á, quân đội Nhật ở Đông Dương kiểm soát tương đối vững chắc, nhưng việc lật đổ chính phủ Vichy ở Pháp sau chiến dịch đổ bộ vào Normandy tháng 6-1944 khiến hàng ngũ quan chức quân sự và dân sự Pháp ở Đông Dương muốn ngả sang phía phong trào Nước Pháp Tự do của Charles de Gaulle, vì thế Tokyo nghi ngờ hơn về lòng trung thành trong tương lai của Toàn quyền Jean Decoux trong liên minh với Nhật Bản. Chính quyền chiếm đóng Nhật Bản ở Đông Dương tăng cường tranh thủ lòng trung thành dân chúng địa phương với chế độ của họ.
Trong lúc ấy, các đồng chí của Hồ Chí Minh cố gắng mở rộng căn cứ phong trào cách mạng khắp miền phía bắc Đông Dương. Năm 1942 và đầu 1943, cán bộ Việt Minh bắt đầu xây dựng những căn cứ du kích, mở rộng ảnh hưởng chính trị của Mặt trận ở các tỉnh miền núi bao quanh đồng bằng sông Hồng. Trong lúc ấy, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về hình thành Mặt trận Việt Minh đã tới tay các đảng viên miền nam khoảng năm 1942 hoặc 1943. Họ bắt đầu xây dựng lại phong trào một cách cần mẫn ở các tỉnh khác nhau dọc duyên hải Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long.
Những cán bộ đảng khác cố gắng xây dựng “an toàn khu” nhỏ cho Ban Thường Vụ, (gồm Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt và Hoàng Văn Thụ), ở Bắc Ninh, cách đông bắc Hà Nội 25 km. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, Pháp đã bắt gần hết những cán bộ đảng trong vùng, nhưng khi họ trở lại thì Ban Chấp hành đã lập ra được một “đơn vị tác chiến” nhỏ ở Hà Nội để khởi đầu công tác tuyên truyền trong phong trào người lao động ở đây. Cho đến cuối năm 1942, hơn một ngàn công nhân đã gia nhập Hội Cứu Quốc địa phương. Những tổ chức tương tự cũng được lập ra cho thanh niên và phụ nữ. Một đơn vị du kích nhỏ được thành lập ở sân bay Gia Lâm, sát ngay phía bắc thành phố, như là bước đầu tiên để tạo ra an toàn khu cho giới lãnh đạo đảng trong vùng.
Từ những căn cứ ngoại thành Hà Nội, Ban Thường vụ theo sát tình hình chung trong vùng và tình hình thế giới, đồng thời duy trì liên lạc với tất cả những tổ chức đảng khắp Đông Dương. Ngay sau khi Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng tháng 12-1941, Tổng bí thư Trường Chinh đưa ra một thông cáo phân tích tình hình thay đổi cục diện trên thế giới có thể ảnh hưởng đến vận mệnh của nhân dân Việt Nam như thế nào, đảng phải ứng phó ra sao. Trong bài “Chiến tranh Thái Bình Dương và nhiệm vụ cấp bách của Đảng”, ông tuyên bố, trong trường hợp quân đội Quốc Dân Đảng Trung Hoa can thiệp vào Đông Dương, lực lượng Việt Minh sẽ đón tiếp và giúp đỡ họ, đồng thời cảnh báo, họ không nên đến như một kẻ xâm lược. Ông nghĩ điều tương tự khi Anh và Mỹ cũng quyết định xâm chiếm Đông Dương, trong trường hợp đó Đảng sẽ vui lòng có những nhượng bộ về nguyên tắc để có được sự giúp đỡ của họ. “Nếu họ đồng ý giúp đỡ cách mạng ở Đông Dương”, ông nói, “chúng ta có thể chấp nhận cho họ những ưu đãi kinh tế”. Nhưng nếu họ đến để trợ giúp phong trào Nước Pháp Tự do của Charles de Gaulle khôi phục quyền cai trị của Pháp tại khu vực này, “chúng ta sẽ phản đối mãnh liệt và tiến hành cuộc chiến đấu của chúng ta để giành độc lập”. Nếu quân đội Anh và Mỹ kéo tới địa phương, ông chỉ thị, cán bộ đảng huy động sự ủng hộ của nhân dân tạo được chính quyền cách mạng, bước vào những cuộc thương lượng với Lực lượng Đồng Minh vừa kéo đến. Ông cảnh báo “Chúng ta phải cảnh giác chống lại ảo tưởng cho rằng Tưởng Giới Thạch và quân đội Anh - Mỹ sẽ mang lại tự do cho chúng ta. Trong cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc, hiển nhiên chúng ta cần tìm kiếm đồng minh - thậm chí đồng minh tạm thời, dao động hoặc có điều kiện - cuộc đấu tranh phải đạt được kết quả không ít hơn những cố gắng của chính chúng ta”.
Để kết luận, Trường Chinh phê bình những toan tính của những phần tử “cánh tả” hăng tiết vịt trong Đảng, những người này muốn phát động nổi dậy toàn dân khi Trung Hoa kéo quân vào. Ông cảnh báo “Những điều kiện cho một cuộc nổi dậy ở Đông Dương vẫn chưa chín muồi”. Phong trào ở khu vực nông thôn phát triển mạnh mẽ hơn ở thành phố và ở Việt Nam mạnh hơn ở Lào và Campuchia. Trường Chinh nhấn mạnh, trong trường hợp những điều kiện chín muồi ở một địa phương nào đấy, một chính quyền nhân dân lâm thời có thể được thành lập ở đó trước khi tổng khởi nghĩa.[27]
Đầu năm 1943, triển vọng can thiệp vào Đông Dương của Lực lượng Đồng Minh tăng lên. Để chuẩn bị cho khả năng này, cuối tháng 2-1943, Trường Chinh triệu tập cuộc họp Ban Thường Vụ tại làng Võng La, phía tây bắc Hà Nội. Theo quan điểm của Ban Chấp hành, mặc dù phong trào cách mạng vẫn còn một số thiếu sót, nhưng cũng có những tiến bộ lớn. Do vậy, Ban Chấp hành quyết định bắt đầu kế hoạch tổng khởi nghĩa. Tăng cường nỗ lực ở tất cả các vùng để xây dựng lực lượng chính trị và quân sự của phong trào. Mở rộng phong trào công nhân, bởi vì thiếu sự tham gia của nhân dân thành thị khó có thể thành công ở khu vực sinh tử của kẻ thù. Ban Chấp hành kêu gọi mở rộng các tổ chức công nhân, mở rộng mặt trận dân chủ thu hút kiều dân Pháp có thiện cảm với phong trào Nước Pháp Tự do và Hoa Kiều, cũng như tất cả những người Việt Nam yêu nước.[28]
Trong khi Ban Thường vụ đang thu xếp công việc, những người lãnh đạo đảng ở hai căn cứ địa Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai tổ chức hội nghị riêng tại Lũng Hoàng, huyện Hoà An, sát tây bắc Cao Bằng. Để chống lại việc Pháp tăng cường đàn áp phong trào, họ quyết định ghép hai căn cứ địa và mở một đường giao liên về đồng bằng sông Hồng coi như giai đoạn đầu tiên trong việc kết hợp Việt Bắc với phong trào cách mạng ở nơi khác trong nước, cũng như thành lập những phương tiện liên lạc vững chắc với Ban Thường vụ. Sau khi kết thúc hội nghị, những đơn vị du kích - từng rút về phía biên giới để tránh càn quét của Pháp - được lệnh trở về căn cứ ban đầu tại Bắc Sơn - Võ Nhai. Họ bắt đầu kéo quân xuống phía nam tới Tuyên Quang và Vĩnh Yên, một thị trấn sát vùng đồng bằng sông Hồng, cách Hà Nội 40 km về phía tây bắc. Để tạo thuận lợi cho việc tiến về phía nam, những đơn vị Cứu Quốc Quân của Chu Văn Tấn trong vùng, bây giờ chia thành hai đội, tiến dọc hai bên bờ sông Cầu, con sông chảy vào đồng bằng sông Hồng từ vùng núi phía bắc.
Trong lúc ấy, những chi đội du kích ở Cao Bằng theo hướng Bắc Cạn và Lạng Sơn kéo về phía nam. Tháng 8-1944, những nhóm nhỏ tinh nhuệ do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, tiến lên “như vết dầu loang” (lời Võ Nguyên Giáp) tạo thành những căn cứ địa mới, tiến hành công tác tuyên truyền ở phía nam và vùng rừng núi giáp phía bắc Thái Nguyên, sát đồng bằng sông Hồng. Ở một hẻm núi giữa rừng gần làng Cốc họ liên kết với những chi đội Cứu Quốc Quân của Chu Văn Tấn đang kéo về phía tây Bắc Sơn - Võ Nhai. Những đội viên đầu tiên của căn cứ giải phóng tương lai cuối cùng cũng đã gặp nhau.
Hoá ra, niềm tự tin phản ánh trong những quyết định đó quả là hơi sớm. Đến mùa hè năm 1943, chính quyền thực dân Pháp rất lo ngại khi biết khả năng một cuộc can thiệp sắp tới của quân đội Quốc Dân Đảng Trung Hoa vào vùng này, họ biết rõ mức độ phát triển cộng tác giữa chính quyền Trung Hoa và những người Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đang sống lưu vong ở nam Trung Hoa. Mùa thu năm 1943, Toàn quyền Decoux tung ra một chiến dịch quân sự tiễu trừ lực lượng kháng chiến ở Việt Bắc, đưa lực lượng Pháp đến vùng này. Pháp tăng cường tuần tra, đặt giải thưởng lớn cho ai cung cấp tin tức về vị trí của những người lãnh đạo kháng chiến. Để dễ dàng kiểm soát, Pháp dồn dân địa phương vào khu vực giám sát. Vài chục cán bộ cộng sản bị bắt, đồng thời những người khác buộc phải chạy tới những vùng hẻo lánh xa hơn.[29]
Những vấn đề tương tự cũng gặp phải khi xây dựng phong trào ở Hà Nội. “Đơn vị tác chiến” của Ban Thường Vụ có nhiệm vụ thúc đẩy tuyên truyền cách mạng trong nhân dân thành thị, cũng dừng hoạt động vào mùa xuân 1943. Giới lãnh đạo đảng cố gắng thành lập một Ban Chấp Hành riêng cho thành uỷ Hà Nội, nhưng nỗ lực này cũng bị cơ quan an ninh Pháp phá ngang. Suy thoái kinh tế trong chiến tranh dẫn tới giảm bớt lực lượng lao động trong tất cả các thành phố, khiến hoạt động của Đảng gặp khó khăn. Việc buôn bán kém đi do chiến tranh, trong khi thuế má cao, chính quyền nặng tay trưng thu hàng hoá. Dù nhiều công nhân Việt Nam khốn đốn bởi kỷ luật lao động khắc nghiệt của Nhật, tuy có thiện cảm với sự nghiệp cách mạng, nhưng sợ tham gia biểu tình và lãn công. Tháng Tám, Hoàng Văn Thụ bị Pháp bắt do điệp viên hai mang phản bội, bị xử tử tháng 5-1943. Trường Chinh suýt bị bắt tại một trạm kiểm tra của Pháp may nhờ cải trang thành đốc công trực tiếp sai khiến nông dân trong những cánh đồng lúa gần đó.
Tuy nhiên, giữa năm 1944, điều kiện nổi dậy bắt đầu cải thiện. Ở Việt Bắc, Pháp cũng đạt được một số thành công, làm giảm bớt hoạt động của Việt Minh. Nhưng cuối cùng lại đưa đến sự tập trung lực lượng du kích trong các căn cứ địa kháng chiến, cán bộ Đảng bắt đầu thành lập những chi bộ bí mật, tìm mọi cách tránh sự theo dõi của kẻ thù. Các chi bộ này trở thành cơ sở phát triển phong trào nhanh. Sự phát triển tương tự cũng đang xảy ra ở nông thôn tại Trung Kỳ và Nam Kỳ. Cùng thời gian này, tình hình kinh tế tồi tệ khắp Đông Dương dẫn đến bất mãn tăng cao ở thành thị, các vụ đình công tăng lên. Dù những mục đích đình công đơn thuần kinh tế hơn chính trị, nhưng sự xáo động này tạo thuận lợi cho công tác tuyển mộ của Đảng, đồng thời sinh viên và tầng lớp trung lưu có thiện cảm cùng thúc đẩy sự nghiệp.[30]
Lòng tin bùng phát, Đảng cộng sản ba tỉnh ở vùng biên giới mở một cuộc họp vào tháng 7-1944 để thảo luận đề nghị của Võ Nguyên Giáp phát động chiến tranh du kích, nhằm tạo ra một căn cứ địa giải phóng. Một số người tham dự lo ngại, liệu căn cứ địa này có chống nổi cuộc phản công mạnh của Pháp hay không. Họ cũng đưa câu hỏi liệu lực lượng du kích đã sẵn sàng chuẩn bị tiến hành một cuộc kháng chiến lâu dài chống lại cả Pháp và Nhật chưa. Cuối cùng hội nghị tạm thời đồng ý với đề nghị của Giáp, đồng thời bảo lưu việc ý kiến, liệu những hoạt động du kích nên tung ra ngay bây giờ hay để chậm lại cho đến thời gian sau. Cuộc họp chưa nhất trí việc có nên bắt đầu xây dựng một quân đội giải phóng chính quy hay không? Ban đầu Giáp đề xuất quy trình theo sáng kiến riêng của ông, Vũ Anh (một uỷ viên ưu tú Ban chấp hành) gạt bỏ đề xuất đó.
Giữa tháng 9-1944, Vũ Anh và Võ Nguyên Giáp đến Tĩnh Tây đón Hồ Chí Minh rồi cùng trở về Pác Bó. Giáp báo cáo những nghị quyết đưa ra tại hội nghị tháng 7-1944, phác thảo một kế hoạch. Hồ Chí Minh chỉ rõ, ý kiến đề xuất tung ra chiến dịch tiến công ở Việt Bắc chỉ dựa vào tình hình địa phương và đã không tính đến tình hình những nơi khác trong nước. Ông cho rằng ném tất cả lực lượng vào một cuộc khởi nghĩa quy mô rộng lớn sẽ đưa đến rủi ro thoái trào lớn hơn cuộc khởi nghĩa cuối 1943. Dù phong trào đang phát triển mạnh, nhưng chưa có khu vực nào trong nước mà lực lượng của Đảng sẵn sàng tung ra đấu tranh có vũ trang để ủng hộ cuộc nổi dậy ở Việt Bắc. Vì thế kẻ thù có thể tập trung lực lượng chống lại các chiến sĩ của ta ở vùng biên giới, mà lực lượng của chúng ta, trong mọi trường hợp, còn thiếu những đơn vị vũ trang thường trực đủ mạnh để làm điểm tựa. Ông kết luận “Thời kỳ cách mạng hoà bình đã qua, nhưng thời cơ tổng khởi nghĩa vẫn chưa tới”. Hồ Chí Minh cảm thấy đấu tranh chính trị không còn hiệu quả, nhưng khởi nghĩa vũ trang vẫn còn khá nguy hiểm. Cuộc đấu tranh phải bắt đầu chuyển hướng từ giai đoạn đấu tranh chính trị sang giai đoạn bạo lực, nhưng tại thời điểm này, những hoạt động chính trị vẫn phải tiếp tục ưu tiên.[31]
Hồ Chí Minh động viên đồng chí trẻ tuổi. Tuy bác bỏ đề nghị của Giáp thành lập quân đội giải phóng nhân dân, Hồ Chí Minh đồng ý thành lập những đơn vị đầu tiên của quân đội tương lai đó. Ông nhấn mạnh “nếu không đủ mạnh, chúng ta sẽ bị tiêu diệt không kịp trở tay,” như Giáp hồi tưởng. Ngày hôm sau, Hồ đề xuất thành lập những đơn vị mới tạm thời mang tên “Đội Tuyên Truyền Giải Phóng Quân”, vì nhiệm vụ trước tiên là tuyên truyền chính trị cho quần chúng để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa tương lai.
Võ Nguyên Giáp và Vũ Anh ở lại hơn một ngày tại Pác Bó để nghiên cứu tình hình, vạch kế hoạch cho những đội tuyên truyền vũ trang mới. Hồ khuyên: “Bí mật, luôn luôn bí mật. Địch nghĩ ta ở đằng tây thì ta đang ở đông. Đánh bất ngờ, rút ngay khi địch chưa kịp trở tay”. Khi trở lại căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, Giáp bắt đầu thành lập đơn vị đầu tiên mới. Ba mươi tư chiến sĩ của đơn vị đầu tiên được cán bộ lãnh đạo lựa chọn kỹ càng và gồm một số chiến sĩ tốt nghiệp chương trình đào tạo ở Hoa Nam. Từ Pác Bó, Hồ Chí Minh gửi thư chúc mừng, thư viết trên mẩu giấy nhỏ giấu trong bao thuốc lá:
Đội tuyên truyền Việt Nam Giải Phóng Quân là người anh em thân thiết của toàn dân tộc. Tôi hy vọng nhiều đơn vị khác sẽ sớm ra đời. Dù bây giờ còn non trẻ nhưng tương lai rực rỡ đang chờ đón. Đây là hạt nhân của đoàn giải phóng quân trong tương lai, chiến đấu trên các chiến trường từ bắc xuống nam của đất nước Việt Nam.
Việc thành lập đơn vị đầu tiên của đội vũ trang tuyên truyền ngày 22-12-1944, lực lượng vũ trang cách mạng tương lai - Việt Nam Giải phóng Quân - bắt đầu thành hình. Đội vũ trang tuyên truyền đại diện cho những đơn vị quân đội thường trực mới non trẻ đầu tiên của phong trào. Nó sẽ cung cấp những lực lượng du kích được tổ chức và chỉ đạo tại cấp huyện, cũng như những đơn vị dân quân tự vệ được tuyển mộ tại địa phương dưới sự kiểm soát của Đảng. Đúng hai ngày sau, những đơn vị mới thành lập đã chiến thắng trong trận tấn công vào những đồn Pháp ở làng Phai Khắt và Nà Ngần khiến kẻ thù phải sửng sốt trước sức mạnh cuộc tấn công và địch hoàn toàn bị tiêu diệt. Những người chiến thắng không những tự hào về thắng lợi mà còn thu được một số vũ khí, trong khi 70 lính địch thương vong. Tin tức chiến thắng lan nhanh khắp Việt Bắc như đám cháy rừng.
Trở lại Pác Bó, Hồ Chí Minh tiếp tục thúc đẩy phong trào theo cách riêng. Tháng Mười, ông viết “Thư gửi đồng bào toàn quốc”, trong đó phân tích tình hình hiện tại và nói “cơ hội giải phóng nhân dân đang đến gần, chỉ trong vòng một năm hoặc một năm rưỡi. Thời cơ đang thuận lợi. Chúng ta cần phải nhanh chóng hành động!”[32]
Ngày 11-11-1944, một máy bay trinh sát Mỹ do trung uý Rudolph Shaw lái, bất ngờ trục trặc động cơ khi bay trên vùng núi dọc biên giới Trung - Việt. Shaw nhảy dù an toàn, chính quyền Pháp đóng gần đó theo dõi tai nạn này, điều động lính tuần tra tìm kiếm Shaw. Tuy nhiên, những đội viên một đơn vị Việt Minh tìm được Shaw, quyết định giải Shaw tới chỗ Hồ Chí Minh. Lực lượng Việt Minh dẫn viên phi công Mỹ vượt núi rừng tới Pác Bó, ban đêm đi, ban ngày nghỉ trong hang để tránh địch. Cuối cùng phải mất một tháng mới tới, với khoảng cách chỉ khoảng 75 cây số.
Trong toán hộ tống Shaw, không có ai biết tiếng Anh để nói chuyện với Shaw - theo lời kể của Shaw, ông nói “Việt Minh! Việt Minh!” Người Việt Nam đáp “America! Roosevelt!” Nhưng khi ông tới Pác Bó, Hồ Chí Minh đón tiếp nồng nàn bằng tiếng Anh: “Ngài có khoẻ không, ngài phi công! Ngài là người nước nào?” Theo lời kể, Shaw bị xúc động đến mức ôm chặt Hồ và nói “Khi tôi nghe tiếng nói của ông, tôi cảm thấy dường như tôi đang nghe tiếng nói của cha tôi ở Mỹ”.[33]
Đối với Hồ Chí Minh, việc viên phi công Mỹ bị bắn rơi là ngẫu nhiên. Ngay từ khi Hoa Kỳ bước vào chiến tranh tháng 12-1941, ông đã thấy sự ủng hộ của Hoa Kỳ cho phong trào như là một con bài có thể sử dụng trong cuộc đấu tranh chống lại đội quân chiếm đóng Nhật Bản và thực dân Pháp. Sau khi được thả khỏi nhà tù ở Liễu Châu mùa thu năm 1943, ông dùng nhiều thời gian đọc sách tại thư viện Văn phòng thông tin chiến tranh (OWI), ý thức được những tin tức Tổng thống Roosevelt không dính đến chủ nghĩa thực dân châu Âu và đang tìm cách trả lại những thuộc địa Đông Nam Á nền độc lập của họ sau khi kết thúc chiến tranh. Roosevelt rõ ràng có ý định chống lại vai trò của Pháp ở Đông Dương, có lần ông nhấn mạnh: “Pháp đã bòn rút Đông Dương suốt một trăm năm. Nhân dân Đông Dương có quyền được hưởng những gì đó tốt hơn thế”. Dù Hồ Chí Minh ý thức được Hoa Kỳ là xã hội tư bản, ông luôn bày tỏ sự ngưỡng mộ về lời cam kết của Hoa Kỳ đối với những nguyên tắc dân chủ và cảm thấy bản thân Roosevelt có thể dẫn dắt nước Mỹ theo đường lối kinh tế lớn lao và công bằng xã hội.[34]
Về phần mình, quan chức Hoa Kỳ tại Trung Hoa hiểu về Hồ Chí Minh trong một thời gian dài trước khi được thả khỏi tù. Mùa thu 1942, tin tức tuyên bố trên báo chí Trung Hoa, (rò rỉ do những nguồn tin gần gũi với Đảng cộng sản Đông Dương ở Trung Hoa), đã nói đến vụ bắt giam một người An Nam tên là “Hồ Chih-chi”, có quan hệ với “chính phủ lâm thời” thân Đồng Minh ở Đông Dương, được thành lập ở Liễu Châu với sự giúp đỡ của chính phủ Trung Hoa. Khi quan chức sứ quán Mỹ liên lạc với đại diện địa phương của phong trào Nước Pháp Tự do, vị đại diện người Pháp hạ thấp sự thật của câu chuyện và phủ nhận một chính phủ như thế tồn tại. Tuy vậy, đại sứ Mỹ Clarence Gauss đánh điện cho Bộ Ngoại Giao ngày 31-12-1942, báo cáo vụ bắt giam, chỉ thị nhân viên tòa sứ quán xem xét kỹ vấn đề. Tuy nhiên, do thiếu sự cộng tác của chính quyền Trung Hoa họ không thu được mấy kết quả. Tháng Sáu, Washington yêu cầu cập nhật tình hình, Đại sứ quán Mỹ báo cáo đơn giản mức độ chừng mực xác định phong trào kháng chiến ở Đông Dương không có tầm quan trọng đặc biệt.
Nhưng nếu Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Trùng Khánh không muốn làm gì cả đối với một “người An Nam” không tên tuổi thì những quan chức Mỹ khác ở Trung Hoa có quan điểm khác. Mùa hè năm 1943, Chu Ân Lai, trưởng Văn phòng Liên lạc Đảng cộng sản Trung Quốc gặp Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ (OSS) ở địa phương đề nghị giúp đỡ thả Hồ với lý do Hồ có thể giúp đỡ Đồng Minh. Những quan chức Văn phòng thông tin chiến tranh (OWI) - nơi Hồ Chí Minh từng đề nghị làm phiên dịch cho cơ quan này - thảo luận với những quan chức Đại sứ quán Hoa Kỳ, đã đồng ý đặt vấn đề với chính phủ Trung Hoa tìm cách thả và thu xếp để ông cộng tác.
Không rõ người Mỹ có đề xuất việc này không, và nếu có, liệu có tác động đến quyết định của Trương Phát Khuê thả tự do trong giới hạn cho Hồ Chí Minh, vẫn còn chưa có câu trả lời. Dù sao đi nữa, việc này chưa dẫn đến bất cứ sự thu xếp tức khắc để Hồ cộng tác với những quan chức Mỹ ở Hoa Nam. Tháng 11-1943, chi nhánh Việt Nam của Hội phản đế quốc tế, từ Tĩnh Tây, viết thư đề nghị Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Trùng Khánh giúp đỡ trả hoàn toàn tự do cho “Hu Chih-ming” để tham gia hoạt động chống Nhật và, nếu cần thiết, giúp ông trở về Việt Nam.
Philip D. Sprouse, cán bộ Đại sứ quán ghi nhận tên này là “một người bị bắt” năm trước. Nhưng Sprouse hình như đã bị thuyết phục bởi những đại diện “Nước Pháp Tự do” ở Trùng Khánh rằng cái gọi là “chính phủ lâm thời Đông Dương” thành lập ở Liễu Châu chỉ đơn giản là một mánh khoé của chính phủ Trung Hoa để thúc đẩy lợi ích của chính họ trong vùng này. Đại sứ Gauss chuyển lời yêu cầu tới Washington, bằng một bức thư chỉ rõ, do Pháp phủ nhận sự tồn tại một tổ chức như thế, nên ông “không trả lời” bức thư đó. Báo cáo của đại sứ Gauss được cất vào kho lưu trữ và bị lãng quên ở Washington.[35]
Mùa xuân năm 1944, miếng mồi giúp đỡ của Hoa Kỳ đã khêu gợi sự quan tâm của những đại diện Việt Minh đang sống ở nam Trung Hoa. Tháng 4-1944, đại diện Việt Minh ở Côn Minh gặp quan chức Pháp tại lãnh sự quán “Nước Pháp Tự do” để thu xếp một cuộc gặp nhằm thảo luận chính sách hậu chiến của Pháp ở Đông Dương, nhưng sau những tiếp xúc ban đầu, họ đã thất bại. Bị Pháp cự tuyệt, họ quay sang phía Mỹ, gặp những quan chức địa phương của Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ và Văn phòng thông tin chiến tranh, tìm sự giúp đỡ bằng cách viết một bức thư gửi đại sứ Mỹ Gauss ở Trùng Khánh. Bức thư khẩn khoản yêu cầu Hoa Kỳ viện trợ cho cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam giành độc lập đồng thời đề nghị sát cánh với Đồng minh chiến đấu chống lại quân đội chiếm đóng Nhật ở Đông Dương. Ngày 18-8, sĩ quan Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ gửi bức thư này tới tướng William Langdon, lãnh sự Mỹ tại Côn Minh, kèm lời bình, sẽ có “rắc rối đáng kể ở Đông Dương sau chiến tranh nếu không có một phương án mạnh mẽ của chính phủ tự trị có hiệu lực tại quốc gia này từ những ngày đầu”. Langdon đồng ý gặp nhóm này ngày 9-9. Ông hứa sẽ chuyển thư tới đại sứ Hoa Kỳ, bày tỏ sự ủng hộ của Mỹ đối với những khát vọng nhân dân Việt Nam, nhấn mạnh “người phát ngôn cao nhất của chính phủ Hoa Kỳ đã nhiều lần tuyên bố đảm bảo sự quan tâm của chính phủ Mỹ về an sinh chính trị và tiến bộ của những dân tộc bị áp bức ở phương Đông, nhân dân An Nam có thể tự tin về điều đó”. Nhưng Langdon thận trọng về mặt ngoại giao khi trả lời đòi hỏi sự thông cảm của Mỹ, nhấn mạnh “nhân dân An Nam là công dân thuộc Pháp, nước đang chiến đấu sát cánh với Hoa Kỳ… chống lại phe Trục. Sẽ không khôn ngoan… nếu Hoa Kỳ một mặt hy sinh sinh mạng, của cải cứu giúp Pháp thoát khỏi cảnh làm nô lệ Đức Quốc Xã và mặt kia lại làm xói mòn đế chế của Pháp”.
Phạm Việt Tú, thủ lĩnh phái đoàn Việt Nam, hứa với Langdon, Việt Minh không có ý định đánh Pháp mà chỉ đánh Nhật và đề nghị Mỹ giúp đỡ cho mục đích này. Nhưng ông hy vọng Mỹ sẽ ủng hộ quyền tự trị cho nhân dân Việt Nam sau khi kết thúc chiến tranh. Langdon không hứa, nhấn mạnh, Charles de Gaulle khi tới thăm Washington, D.C., vào tháng Bẩy, đã nói với báo chí, chính sách của Pháp là đưa những dân tộc thuộc địa Pháp tới chính phủ tự trị. Nếu người Việt Nam có phàn nàn gì chống lại người Pháp, họ nên trực tiếp gặp Pháp.[36]
Mưu mẹo của những đại diện Việt Nam ở Côn Minh tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ vì thế một lần nữa bất thành. Quan chức Mỹ còn ít hiểu biết về những nhóm dân tộc chủ nghĩa Việt Nam hoạt động trong vùng, một số tỏ vẻ hoài nghi về tính hiệu quả do chủ nghĩa bè phái kinh niên luôn đi kèm hoạt động của họ. Dù nhân viên Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ đệ trình một báo cáo thiện ý trong cuộc họp, Langdon và đại diện Văn phòng thông tin chiến tranh vẫn rất nghi ngờ. Đại diện Văn phòng thông tin chiến tranh nhấn mạnh, những nhóm dân tộc chủ nghĩa Việt Nam ở nam Trung Hoa tỏ ra có ít kinh nghiệm trong việc điều hành một chính phủ hiện đại (ông thừa nhận không phải lỗi của họ). Ngay cả Langdon còn phản đối, bằng cách gửi thông điệp tới Washington báo cáo, những nhóm Việt Nam ở nam Trung Hoa “không có tầm quan trọng thực tế” ở Đông Dương. Tháng 12-1944, một báo cáo của Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ, trích nguồn tin của Pháp, nhấn mạnh, Hội Vì Độc Lập Đông Dương (Mặt trận Việt Minh) “thiếu sự ủng hộ của nhân dân” và “chỉ được mẽ ngoài to lớn gồm một số ít trí thức Đông Dương và những phần tử bất mãn khác ở thuộc địa”.[37]
Hồ Chí Minh không trực tiếp dính vào những sự kiện này, nhưng có lẽ cũng liên lạc với Phạm Việt Tú và các đồng sự của ông. Có thể ông đã đề xuất gặp những quan chức Mỹ ở Côn Minh. Nhiều tháng sau khi được thả khỏi tù hồi tháng 9-1943, Hồ thận trọng vun đắp tình bạn và sự tin tưởng với những sĩ quan Mỹ tại chi nhánh Văn phòng thông tin chiến tranh ở Liễu Châu. Tháng 8-1944, cơ quan này có lẽ tìm cách thu xếp cho Hồ Chí Minh tới San Francisco. Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ ở Côn Minh đòi hỏi ý kiến chỉ dẫn từ Bộ Ngoại giao về yêu cầu của Văn phòng thông tin chiến tranh cấp visa cho Ho Ting-ching nào đó (được miêu tả là một người Trung Hoa sinh ở Đông Dương) tới Mỹ để thông báo tin tức ở Việt Nam. Philip Sprouse, bây giờ được chuyển về Washington, thụ lý vấn đề và viết một bản ghi nhớ về “Mr. Hồ”, miêu tả những hoạt động của ông. Sprouse phỏng đoán rằng “Mr. Hồ” cùng là một người đã được Quốc Dân Đảng ở Côn Minh thuê để tuyên truyền bằng tiếng Việt vào Đông Dương. Yêu cầu đó được Chi nhánh Viễn Đông Bộ Ngoại giao ủng hộ, nhưng lại bị những người thân châu Âu phản đối, những người này đủ khôn ngoan hiểu rằng điều đó sẽ gây những rắc rối với Pháp. Văn phòng Thông tin Chiến tranh tranh cãi về tư cách đại diện của Hồ, cho rằng những hoạt động của ông ở Mỹ sẽ được kiểm soát chặt chẽ, nhưng cuối cùng, yêu cầu đó cũng bị bác bỏ.[38]
Tại sao Hồ Chí Minh muốn tới Mỹ ở thời điểm đặc biệt này vẫn còn chưa rõ ràng. Mùa hè năm 1944, tình hình chung ở chiến trường Thái Bình Dương đã tăng lợi thế cho Đồng minh, như Hồ đã tiên đoán trước đây, thời điểm kết thúc chiến tranh có dấu hiệu vào năm tới. Lẽ ra trong tình thế này, Hồ muốn ở trong nước để chỉ đạo cuộc chiến đấu chống lại người Pháp. Trương Phát Khuê không chấp thuận để ông trở lại Đông Dương, Hồ nhìn thấy visa như một dịp may để gây ảnh hưởng tình hình ở Mỹ, có thể qua yêu cầu trực tiếp gửi tới Nhà Trắng, chuẩn bị cho ông về nước vào một thời điểm thích hợp.
Nếu sự ủng hộ của Mỹ cho Mặt trận Việt Minh là cái giá tối hậu, thì sự xuất hiện trung uý Shaw tại ngưỡng cửa nhà Hồ Chí Minh cuối năm 1944 là một tấm vé của ông tham gia sổ số. Khi Shaw đề nghị Hồ giúp ông đến được biên giới Trung Hoa, Hồ đồng ý và nhấn mạnh ông cũng dự định tới Trung Hoa vì công việc. Shaw lúc này mời Hồ đi cùng ông tới Côn Minh, nơi đặt đại bản doanh Không Lực Hoa Kỳ số 14. Vài ngày sau, Hồ Chí Minh và hai đồng sự trẻ hộ tống Shaw vào Trung Hoa, Hồ vẫn còn mặc bộ quân phục Quốc Dân Đảng đã sờn, mang theo giấy tờ tuỳ thân mà Trương Phát Khuê đã cấp trước khi ông rời Liễu Châu. Sau khi vượt qua biên giới Trung Hoa, Shaw báo cho văn phòng Cơ quan Trợ giúp Không lực Mặt đất (AGAS) ở Côn Minh, một chi nhánh đảm trách việc giúp đỡ tìm kiếm phi công Đồng Minh bị rơi trong vùng, để cứu hộ và đưa đi tiếp. Quan chức Cơ quan Trợ giúp Không lực Mặt đất gửi điện cho Shaw, mời ông và Hồ Chí Minh cùng tới Côn Minh. Chính quyền Trung Hoa ở địa phương quyết định đưa Shaw tới Côn Minh bằng máy bay, gạt Hồ ở lại, nhưng Hồ Chí Minh quyết tâm sử dụng dịp may hiếm có để gặp quan chức Mỹ ở Côn Minh, vì thế ông quyết định tiếp tục đi bộ, cải trang là viên thanh tra đi dọc tuyến đường sắt Hà Nội - Côn Minh do Pháp xây dựng.[39]
Trên đường tới Côn Minh, Hồ và hai người tháp tùng dừng chân tại Di Lương, một thị trấn nhỏ trên tuyến đường sắt, nơi Hoàng Quang Bình, một trong các đồng chí ông gặp bốn năm trước trong thời gian trú ở Côn Minh, hiện vẫn làm nghề cắt tóc. Trong hồi ức, Bình nhớ lại, Hồ Chí Minh trông ốm yếu, gày gò hốc hác và ăn uống kém. Bộ quân phục của ông có nhiều chỗ vá và sờn, đôi giày vải mỏng cũng đầy lỗ thủng. Cả nhóm đi bộ suốt ngày, ban đêm ngủ nhờ chỗ những người tốt bụng và thường ngủ ngoài trời hoặc những chỗ bẩn thỉu. Hồ vừa bị lây bệnh từ những người đi đường, tới nhà Bình ông dường như hoàn toàn suy sụp. Chỉ có đầu óc ông vẫn còn tỉnh táo. Khi nghe kể, Bình và các đồng sự khước từ lời mời gia nhập tổ chức của cơ quan Đồng Minh Hội - nhiều người trong tổ chức là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, Hồ trách Bình, khuyên ông nên gia nhập Đồng Minh Hội, sau đó lôi kéo những người ủng hộ trở thành đảng viên của Đảng.[40]
Sau vài ngày tá túc tại Di Lương, để Hồ Chí Minh hồi sức, cả nhóm tiếp tục đi chặng cuối của chuyến đi. Tuy nhiên, ngay khi họ đến Côn Minh, khoảng những tuần đầu năm 1945, họ biết tin trung uý Shaw đã về tới Mỹ bằng máy bay. Hồ Chí Minh trọ ở nhà Tống Minh Phương, một trong những đại diện Việt Minh ở địa phương, người viết thư cho Đại sứ Gauss tháng Tám trước đó. Cựu sinh viên Đại học Hà Nội tới Côn Minh năm 1943, Phương mở một quán cà phê cạnh trụ sở Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ, dùng quán này che giấu những hoạt động bí mật của Đảng. Bây giờ chắc ông đã thông báo cho Hồ đề xuất tiếp cận với Mỹ bị thất bại.[41]
Hồ quyết định liên lạc với văn phòng địa phương của Cơ quan Trợ giúp Không lực Mặt đất hy vọng những quan chức ở đó, như để trả ơn việc ông đưa Shaw tới Trung Hoa, sẽ thu xếp cho ông gặp tướng Claire Chennault, tư lệnh Tập đoàn Không lực số 14 ở Côn Minh. Ông cũng liên lạc với văn phòng địa phương Cơ quan Tình báo Chiến lược Mỹ, vì những quan chức tại đó hứa giúp đỡ Phương và đại diện Việt Minh trong việc soạn thảo thư gửi đại sứ Gauss. Có lẽ bấy giờ Hồ Chí Minh hy vọng việc ông giúp đỡ người Mỹ có thể khiến Mỹ công nhận phong trào của ông và giúp đỡ quân sự cho Việt Minh.
Hồ Chí Minh đến Côn Minh thật là đúng thời điểm may mắn như được trời phù hộ. Suốt vài tháng gần đây, văn phòng địa phương Cơ quan Trợ giúp Không lực Mặt đất có quyền mở rộng hoạt động cứu phi công Đồng Minh, thu thập tin tức tình báo hoạt động của Nhật Bản ở Đông Dương. Trong số những nguồn có giá trị nhất là một nhóm nhỏ công dân Phương Tây (gọi tắt GBT, nhóm bao gồm L. L. Gordon, người Canada; Harry Bernard, người Mỹ và Frank Tan, người Mỹ gốc Trung Quốc). Cả ba người trước đây từng làm ở một công ty xăng dầu tại Sài Gòn và có thể sử dụng mối quen biết để thu thập những tin tức có giá trị về hoạt động của Nhật Bản ở Đông Dương. Tuy nhiên, ngày tháng 9 tháng 3 năm 1945, nguồn tin này bị cạn đi do Nhật nghi ngờ lòng trung thành của Pháp ở Đông Dương, đột ngột tuyên bố bãi bỏ chính quyền Vichy ở Đông Dương, chuyển giao quyền kiểm soát đất nước cho chính quyền bù nhìn của vua Bảo Đại. Hầu hết người nước ngoài ở Đông Dương bị bắt giam hoặc phải chạy đi nơi khác và nhóm GBT chạy sang nam Trung Hoa.
Bị mất nguồn tin tình báo quan trọng ở Đông Dương, quan chức Mỹ ở Trùng Khánh chỉ thị những đơn vị tình báo ở nam Trung Hoa tìm kiếm những kênh thông tin mới, thậm chí từ những nhóm Việt Nam chống Pháp. Trước đây, người Mỹ được lệnh từ chối tiếp xúc những nhóm như thế do lệnh của Nhà Trắng cấm quan chức Mỹ dính líu tới những hoạt động chính trị ở Đông Dương. Tuy nhiên, bây giờ lệnh mới từ Washington cho phép họ làm việc với bất cứ nguồn tin nào có thể.
Giữa tháng Ba, đại uý thủy quân lục chiến Charles Fenn, người mới đây thuyên chuyển từ Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ sang Cơ quan Trợ giúp Không lực Mặt đất để điều hành nhóm GBT, được tin một “ông già người An Nam” (lúc đó, Hồ mới 54, nhưng trông già trước tuổi) đến Côn Minh sau khi cứu phi công Mỹ bị rơi, có lẽ đã liên lạc với một nhóm yêu nước, có khả năng hữu ích tiến hành những hoạt động tình báo ở Đông Dương. Charles Fenn sinh ở Ireland, cựu nhà báo, được cử tới Côn Minh do kiến thức cũng như sự hiểu biết về châu Á và biết tiếng Trung. Fenn hăm hở tìm nguồn mới cung cấp tin tức tình báo Đông Dương để thay thế nhóm GBT. Fenn đề nghị thu xếp một cuộc họp giữa ông với Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh lúc này dùng nhiều thời gian ở Cơ quan Thông tin Chiến tranh đọc mọi thứ trên đời từ tạp chí Thời Báo tới Bách khoa toàn thư Mỹ. Dù Fenn được báo trước Hồ có quan hệ với cộng sản, cuộc họp được thu xếp ngày 17-3. Như Fenn ghi lại trong nhật ký:
Hồ đi cùng một người trẻ hơn tên là Fam. Hồ không như tôi mong đợi. Thứ nhất ông không thực sự “già”: chùm râu bạc gợi đến tuổi tác, nhưng gương mặt ông hoạt bát, có đôi mắt sáng và hàm răng trắng bóng. Chúng tôi nói chuyện bằng tiếng Pháp. Hình như ông từng gặp Hall, Blass, và de Sibour (những sĩ quan của Cơ quan Tình báo Chiến lược ở Côn Minh), nhưng chẳng giải quyết được gì. Tôi hỏi ông ta cần gì ở họ. Ông nói - chỉ cần công nhận nhóm ông (Hội Việt Minh hoặc Hội Độc lập). Tôi nghe loáng thoáng Hội này là cộng sản và hỏi Hồ về điều đó. Hồ nói người Pháp gán tất cả những người An Nam nào muốn độc lập là cộng sản. Tôi nói với ông ta về công việc của tôi, hỏi liệu ông có vui lòng giúp đỡ chúng tôi không. Ông nói họ có thể làm được nhưng không có điện đài và người vận hành. Chúng tôi thảo luận dùng một điện đài, một máy phát điện và một điện báo viên. Hồ nói máy phát điện khá ồn - bọn Nhật luôn ở quanh đấy. Liệu chúng tôi có thể sử dụng kiểu máy chạy bằng pin, như người Trung Quốc đang dùng không? Tôi giải thích những máy đó khá yếu khi làm việc ở khoảng cách xa, đặc biệt khi pin yếu. Tôi hỏi ông muốn gì để trả ơn giúp đỡ chúng tôi. Ông nói cần vũ khí và thuốc chữa bệnh. Tôi nói với ông, vũ khí khó đấy, vì đụng đến người Pháp. Chúng tôi thảo luận vấn đề Pháp. Hồ khẳng định Hội Độc Lập chỉ chống Nhật. Tôi ấn tượng cách nói chuyện dứt khoát của ông, sự điềm tĩnh giống kẻ tu hành, trừ những chuyển động của những ngón tay màu nâu nhăn nheo. Fam ghi chép. Chúng tôi thoả thuận sẽ gặp nhau lần tới. Họ viết tên bằng chữ Hán, dịch ra chữ La Mã là Fam Fuc Pao và Ho Tchih Ming.
Fenn hội ý với những đồng nghiệp của ông tại Cơ quan Trợ giúp Không lực Mặt đất và tất cả họ đồng ý chuẩn bị đưa “già Hồ” (ông chính thức mang bí danh “Lucius”, nhưng người Mỹ thân mật gọi là “già Hồ”) trở lại Đông Dương cùng với nhân viên điện đài người Trung Quốc. Ba ngày sau họ gặp lại:
Cuộc gặp thứ hai với những người An Nam tiến hành ở quán café “Indo - China” trên đường Thanh Bộ. Hình như chủ quán là bạn của họ. Chúng tôi ngồi ở tầng lầu, uống cafe phin kiểu Pháp, đậm và khá ngon. Căn phòng không có người nhưng Hồ nói khách hàng có thể sẽ vào bất chợt. Chúng tôi thoả thuận dùng những thuật ngữ: người Trung Quốc gọi là “bạn”, người Mỹ “anh em”, người Pháp “trung gian”, người Nhật “chiếm cứ”, người An Nam “thổ dân”. Hồ lưu ý tới việc nhận hai người Trung Quốc rất khó khăn, vì một trong hai người là Trung Quốc gốc Mỹ dễ bị nhận diện. Nhóm của Hồ tỏ ra nghi ngờ người Trung Quốc này. Vì không có nhân viên điện đài người An Nam, phải cử nhân viên điện đài người Trung Quốc tất nhiên không tránh được. Nhưng thay vì lấy Frank Tan, ông chỉ nhận một người, sau đó chúng tôi sẽ thả dù một sĩ quan Mỹ xuống. Liệu chính tôi đi được chứ? Nếu đồng ý, tôi sẽ đi. Hồ bảo, nhóm ông sẽ nồng nhiệt đón tiếp tôi. Sau đó chúng tôi thảo luận vấn đề tiếp tế. Fam gợi ý “thuốc nổ mạnh” mà Hall đã từng nói với ông ta. Tôi cố gắng giải quyết mọi chuyện dần dần, nhưng chúng tôi thoả thuận, sẽ thả vũ khí nhẹ, thuốc chữa bệnh và thêm điện đài nữa. Nhân viên điện đài của chúng tôi có thể đào tạo một số người của Hồ sử dụng máy. Hồ cũng muốn gặp Chennault. Tôi đồng ý thu xếp việc này nếu ông đồng ý không đề nghị Chennault một thứ gì khác: tiếp tế hoặc lời hứa ủng hộ. Hồ đồng ý. Ông già lần này mặc quần vải kiểu Trung Hoa và áo cài cúc ở cổ, màu vàng nhạt chứ không phải màu xanh da trời. Đôi săng - đan da của ông thường thấy ở Đông Dương. Râu ông điểm bạc, nhưng lông mày nâu nhạt, xám ở đuôi mắt, tóc ông vẫn còn đen nhưng thưa, bắt đầu hói. Fam mặc âu phục, gò má cao, cằm bạnh. Cả hai người nói nhỏ, thỉnh thoảng cất lên tiếng cười. Chúng tôi cảm thấy hài lòng vui vẻ với nhau.[42]
Sau cuộc gặp mặt, Fenn kiểm tra với đồng nghiệp về Việt Minh, phát hiện mặc dù người Pháp gán cho họ cái nhãn cộng sản, nhưng người Trung Hoa chỉ đơn thuần coi họ là bọn người lắm mưu nhiều mẹo. Khi Fenn đề nghị tổng hành dinh ở Trùng Khánh lời khuyên, ông nhận được chỉ thị: “Hãy tạo một mạng lưới, bất chấp mọi chuyện”, nhưng cảnh báo những hoạt động tình báo không được dính líu vào hoạt động chính trị giữa Pháp và dân bản xứ.
Vài ngày sau, Fenn thu xếp để Hồ Chí Minh gặp tướng Claire Chennault tại đại bản doanh Không Lực số 14, nhưng cảnh báo Hồ một lần nữa không gợi ý một yêu cầu giúp đỡ chính thức. Hồ tới gặp, mặc bộ quân phục ka - ki cũ sờn, mặc dù Fenn để ý thấy ông đã thay một chiếc khuy bị khuyết ở cổ áo. Theo thói quen, Chennault ăn mặc chỉnh tề trong bộ quân phục đẹp, ngồi sau chiếc bàn lớn. Chennault bảnh bao, tự phụ về tướng mạo của mình. Chennault nổi tiếng với vai trò tư lệnh đoàn “Phi Hổ” gồm những phi công tình nguyện giúp đỡ quân đội Quốc Dân Đảng chống lại bọn xâm lược Nhật cuối thập niên 1930. Chennault cám ơn Hồ Chí Minh đã cứu trung uý Shaw. Theo Fenn, không có trao đổi về vấn đề chính trị. Hồ giữ lời hứa không yêu cầu giúp đỡ và - theo lời khuyên của Fenn, ông ca ngợi tinh thần trách nhiệm của Chennault với đoàn “Phi Hổ”, nhưng lúc cuối chuyến thăm ngắn ngủi, Hồ đề nghị Chennault tặng bức ảnh có chữ ký. Fenn nhớ lại:
Không có cái gì mà Chennault thích hơn là tặng ảnh mình. Vì thế ông ấn chuông và Doreen (thư ký của Chennault) bước vào. Lúc ấy có một cô gái khác mang tập ảnh cỡ 8x10. Chennault nói “Ông chọn đi”. Hồ lấy một tấm ảnh, đề nghị Chennault vui lòng ký tên vào bức hình. Doreen đưa chiếc bút Parker 51 và Chennault viết phía dưới bức ảnh “Bạn chân thành của ông, Claire L. Chennault”. Và tất cả chúng tôi ra về trong bầu không khí tươi mát của Côn Minh.[43]
Như thế, Hồ Chí Minh đã xây dựng mối quan hệ với những quan chức quân sự quan trọng ở Côn Minh. Nhưng ông vẫn còn muốn được Hoa Kỳ công nhận chính thức tính hợp pháp Mặt trận Việt Minh, đại diện hợp pháp của nhân dân Việt Nam, để nhận được nhiều hơn sự giúp đỡ cho phong trào. Khi ông chuẩn bị về nước, ông đề nghị Charles Fenn cho sáu khẩu súng tự động Colt.45 mới còn trong bọc giấy, những khẩu súng này Fenn nhận được từ những người bạn ở Cơ quan Tình báo Chiến lược Mỹ.
Cuối tháng 3-1945, Hồ Chí Minh cùng với một nhân viên điện đài mới bay trên một máy bay nhỏ của Mỹ tới thị trấn Bài Tây. Bài Tây cách thị trấn Tĩnh Tây tỉnh Quảng Tây chừng 110 km về phía bắc, tại đây có đại bản doanh mới Bộ chỉ huy Chiến khu 4 của Trương Phát Khuê kể từ khi Nhật chiếm Liễu Châu trong “cuộc tấn công số 1” ở Nam Trung Hoa tháng 11 năm 1944. Mục tiêu của Hồ tại Bài Tây là bắt liên lạc lại với những thành viên Đồng Minh Hội rèn nó thành một vũ khí hữu ích phục vụ cho Mặt trận Việt Minh. Sau khi Hồ rời Liễu Châu tháng 8-1944, Đồng Minh Hội gần như tan rã vì Trung Quốc không quan tâm và do vài thành viên không cộng sản cầm đầu trở về tỉnh Vân Nam. Với sự giúp đỡ của Lê Tống Sơn, đại diện Việt Minh, theo Bộ chỉ huy Chiến khu IV về Bài - Tây, Hồ cố gắng tái tổ chức Đồng Minh Hội bằng cách lập ra một “Uỷ ban hành động” mới do những người ủng hộ ông nắm quyền. Để làm giảm bớt nghi ngờ của những người lãnh đạo tổ chức dân tộc chủ nghĩa, ông cho họ xem bức hình có chữ ký của Chennault và tặng mỗi người một khẩu Colt tự động. Tuy nhiên, vài ngày sau, tướng Tiêu Văn, ngày càng không tin Việt Minh, đã giải tán “Uỷ ban hành động” của Hồ và bầu ra một ban chấp hành mới lẫn lộn cả những thành viên cộng sản và không cộng sản, kể cả Hồ Chí Minh. Hồ bây giờ rời Bài Tây đi Tĩnh Tây trên đường tới Pác Bó.[44]
Trong khi Hồ Chí Minh ở Bài Tây cố gắng hồi sinh Đồng Minh Hội, một sĩ quan tình báo Mỹ đến Côn Minh gia nhập một đơn vị thuộc Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ. Đại uý Archimedes “Al” Patti đã phục vụ ở chiến trường châu Âu đến tận tháng 1-1944, sau đó ông thuyên chuyển về Washington, D.C., được bổ nhiệm về Tổ chuyên trách Đông Dương trực thuộc Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ. Vẻ ngoài một người đàn ông phóng khoáng, tự tin, Patti có những hiểu biết sâu về lịch sử, không tin Pháp và các di sản hợp pháp ở các thuộc địa. Đọc những tài liệu lưu trữ ở Washington, D.C, trước hết ông ý thức được những hoạt động của Mặt trận Việt Minh và lãnh tụ bí ẩn của nó, Hồ Chí Minh. Tháng 4-1945, ông đến Côn Minh làm phó cho đại tá Paul Helliwell, cầm đầu Cơ quan Tình báo Chiến lược địa phương, chỉ đạo những hoạt động tình báo ở Đông Dương. Ông nhanh chóng nhận thấy chính sách của Mỹ đối với Đông Dương luôn thay đổi, quan chức Mỹ tại đây rất bối rối trước việc liệu có nên trợ giúp “Nước Pháp Tự do” hay không và trợ giúp bao nhiêu, quan chức Mỹ được quyền dính líu với những nhóm kháng chiến Việt Nam ở mức độ nào. Tại cuộc họp diễn ra ngay sau khi Patti tới, hoạt động phong trào Việt Minh được đem ra bàn, đại diện Cơ quan Trợ giúp Không lực kể rằng “ông già” Hồ Chí Minh đồng ý giúp đỡ cơ quan ông tổ chức một mạng lưới tình báo ở Đông Dương. Một người khác nói thêm, Hồ có chút hiểu biết công việc chiến tranh tâm lý với cơ quan tuyên truyền Trung Hoa khi cộng tác với Văn phòng Thông tin Chiến tranh.[45]
Với Patti, phong trào Hồ Chí Minh dường như là một cỗ xe tự nhiên cho hoạt động của ông ở Đông Dương. Bất cứ cố gắng nào của Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ sử dụng tích cực Việt Minh có thể gặp phải những vấn đề với cả Trung Hoa và Pháp, Patti cảm thấy được che chở bởi những chỉ thị mới đây của Washington cho phép dùng bất cứ nguồn tình báo nào để thu thập tin tức hoạt động của Nhật Bản ở Đông Dương. Điều ông bây giờ cần là cơ hội gặp được Hồ Chí Minh, vừa rời Côn Minh về nước. Tình cờ, vài ngày sau khi tới Côn Minh, Patti tiếp vị khách Vương Minh Phương. Sau những chào hỏi ban đầu, Phương tự giới thiệu mình là thành viên Mặt trận Việt Minh do “tướng” Hồ Chí Minh lãnh đạo, tế nhị mời chào giúp đỡ sự nghiệp Đồng Minh đổi lấy giúp đỡ quân sự và công nhận mặt trận là tổ chức chính trị duy nhất đại diện cho lợi ích của nhân dân Việt Nam. Khi Patti hỏi có cách nào tìm tướng Hồ, Phương trả lời Patti có thể liên lạc với Tĩnh Tây, Hồ Chí Minh đang dừng chân tại đó trên đường trở về Đông Dương.
Patti thảo luận với đại tá Richard Heppner, cấp trên của ông, Trưởng đại diện Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ ở Trùng Khánh. Trong thời bình, đại tá Richard Heppner là một luật sư giỏi giang, có những mối quan hệ với nhiều nhân vật cao cấp trong chính quyền Roosevelt. Heppner thoạt đầu lưỡng lự. Patrick Hurley, một chính trị gia cựu trào bang Oklahoma, người vừa thay thế Clarence Gauss, làm đại sứ Mỹ tại Trung Hoa, đã thành người ủng hộ Tưởng Giới Thạch và bị những sĩ quan Cơ Quan Tìmh Báo Chiến Lược ở Diên An làm bực mình trong việc dàn xếp hợp tác giữa Tưởng và phe cộng sản Trung Hoa. Hurley cũng cảnh báo Heppner, cả Pháp và Trung Hoa sẽ khó chịu khi phát hiện tình báo Mỹ tiếp xúc với Việt Minh, đặc biệt với Hồ Chí Minh, người mà tình báo Pháp đã xác định chính xác là Nguyễn Ái Quốc. Tuy nhiên, ngày 26 tháng 4, Heppner nhận được bức điện của tướng Albert C. Wedemeyer, tư lệnh lực lượng Mỹ tại chiến trường Trung Hoa, cho phép ông đưa điệp viên của Cơ quan Tình báo Chiến lược vào Đông Dương thu thập tin tức tình báo và tiến hành công tác phá hoại kho tàng Nhật trong vùng này. Heppner thông báo cho Patti, vấn đề tranh thủ Hồ Chí Minh vào nỗ lực Đồng Minh vẫn con bỏ ngỏ để xem xét, đồng thời cảnh báo Patti đừng xa lánh Pháp hoặc Trung Hoa.
Ngày hôm sau, Patti đến sân bay huyện Thiên Bảo, phía bắc Tĩnh Tây, sau khi hội ý với đại diện Cơ Quan Trợ Giúp Không Lực địa phương, ông đi đến Tĩnh Tây, tại đây ông gặp một liên lạc Việt Minh tại một nhà hàng địa phương và được đưa đến gặp Hồ Chí Minh tại một làng nhỏ cách tỉnh lỵ khoảng 10 cây số. Sau khi nhã nhặn giới thiệu với khách danh tính và quan điểm của mình, Hồ miêu tả tình hình Đông Dương và vạch ra phong trào của ông có thể giúp đỡ nhiều dịch vụ hữu ích cùng tin tức cho Đồng Minh nếu tổ chức của ông được cung cấp vũ khí hiện đại, đạn dược và phương tiện thông tin liên lạc. Tại thời điểm này, Hồ thừa nhận phong trào chỉ dựa vào một lượng nhỏ vũ khí cướp được từ kẻ thù. Patti không có bất cứ cam kết nào, nhưng hứa sẽ xem xét vấn đề. Theo ý kiến bản thân, Patti rất vui.[46]
Một tuần sau, Hồ Chí Minh trở lại Pác Bó sau chuyến đi vất vả qua những khu rừng dọc biên giới. Nhóm đi cùng ông toàn bộ 40 người, kể cả nhân viên điện đài Mỹ, Mac Shinn và Frank Tan, thành viên nhóm GBT bị thui chột. Được Fenn lựa chọn, cả hai người hy vọng, là người Mỹ gốc Á, họ bớt được những con mắt thu hút của gián điệp hơn là người Mỹ chính gốc. Từ Pác Bó, Mac Shinn bắt đầu báo cáo về Côn Minh và Cơ quan Tình Bao Chiến lược Hoa Kỳ bắt đầu thả đồ tiếp tế, bao gồm thuốc tây, một bộ điện đài và nhiều vũ khí xuống vùng hoang vu quanh Pác Bó. Đổi lại, Hồ và các đồng chí của ông cung cấp cho Mỹ những dịch vụ hữu ích, gồm tin thời tiết, cứu vài phi công Mỹ bị rơi ở bắc Đông Dương, đưa họ trở lại Trung Hoa. Cuối cùng, Hồ đã xây dựng được sự nối kết - tuy mỏng manh - với quân Đồng Minh.
Lúc này, thắng lợi của Đồng Minh trên chiến trường Thái Bình Dương chỉ còn là vấn đề thời gian. Quân đội Mỹ đang tiến sát những hòn đảo Nhật Bản, những cuộc không kích bằng máy bay ném bom B-29 phá hoại tan tành những thành phố lớn của Nhật Bản. Đồng Minh cũng đang hình thành kế hoạch can thiệp vào Đông Dương, phối hợp với lực lượng Quốc Dân Đảng Trung Hoa đang di chuyển về phía nam. Quan điểm này được Nhà Trắng ủng hộ mạnh mẽ.
Tại Đông Dương, tình hình tiến triển quá nhanh chóng. Thời tiết không thuận lợi một số vùng rộng lớn trong nước dẫn tới mất mùa đáng kể trong vụ thu hoạch lúa thu năm 1944, dẫn đến các đầu nậu đầu cơ và tích trữ thóc gạo. Chính quyền chiếm đóng Nhật Bản lại làm vấn đề thêm tồi tệ hơn khi họ chở gạo về Nhật và bắt nông dân ở Bắc Việt Nam nhổ lúa trồng cây có dầu, lạc, bông và đay. Giờ đây khi nạn đói hoành hành, bọn Nhật không chịu mở kho thóc quốc gia cứu trợ hoặc tăng việc chở gạo từ đồng bằng Cửu Long mầu mỡ tới những khu vực đang bị đói kém ở Trung Bộ và Bắc Kỳ. Chính quyền Jean Decoux tỏ ra thờ ơ và vô trách nhiệm nên chẳng giúp đỡ được bao nhiêu.
Mùa đông năm ấy, chính quyền từ chối cắt giảm thuế, tăng hạn mức gạo bắt buộc mỗi nông dân phải bán cho chính phủ. Dù nông dân đã chuyển sang trồng những cây lương thực, như khoai lang hoặc sắn, nhưng nguồn lương thực cạn nhanh chóng. Khi giá cả toàn bộ nhu yếu phẩm bắt đầu tăng chóng mặt, nạn đói cũng bắt đầu đe doạ khu vực thành thị. Đến giữa mùa đông, hàng ngàn người chịu cảnh đói, số người chết đói tăng lên nhanh chóng. Nông dân phải chống đói bằng cách ăn rễ cây, cỏ dại, thậm chí cả vỏ cây, đồng thời dân thành thị phải bán những thứ đồ quý giá trong gia đình để mua gạo và rau với giá cả cao vót do lạm phát. Xác người chết bắt đầu xuất hiện dọc quốc lộ, những nông dân đói đi lang thang ăn xin hoặc tụ tập gần những kho thóc được quân đội Nhật canh giữ nghiêm ngặt.
Dù bi kịch này tác động đến nhân dân Việt Nam như thế nào đi nữa thì cuộc khủng hoảng là một cơ hội trời cho đối với Việt Minh. Họ lập luận, bây giờ do mâu thuẫn, nên chính quyền Pháp hoặc Nhật không đếm xỉa gì đến lợi ích của nhân dân Việt Nam. Giữa mùa đông năm ấy, cán bộ Việt Minh xúi giục nông dân phá các kho thóc ở khắp các tỉnh Bắc Kỳ, Trung Kỳ, chiếm kho thóc chia cho những người bị đói. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, điều đó cũng quá muộn, con số người chết đói lên tới hàng trăm ngàn. Xác người chết nằm la liệt ven đường ở nông thôn, trong khi những người thân còn lại trong gia đình chỉ còn da bọc xương.[47]
Mùa đông này, Pháp cố gắng quét sạch những căn cứ du kích Việt Minh ở vùng núi phía bắc đồng bằng sông Hồng. Sau những chiến thắng ban đầu trong trận Phai Khắt và Nà Ngần, những đơn vị tuyên truyền vũ trang của Võ Nguyên Giáp bây giờ hành quân về phía bắc tới biên giới Hoa - Việt, chiếm những làng bản của người thiểu số dọc đường. Khi người Pháp đưa lực lượng tuần tra tới, quân nổi dậy rút về căn cứ Hoàng Hoa Thám giữa Cao Bằng và Bắc Cạn, ở đó Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh, Phạm Văn Đồng trong Ban Chấp hành liên tỉnh, vạch kế hoạch hành quân về phía nam để giải phóng Hà Nội và đồng bằng sông Hồng khỏi tay quân đội chiếm đóng Nhật Bản.
Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, chấm dứt nửa thế kỷ thống trị của Pháp tại Việt Nam. Nhật huỷ bỏ chính quyền thuộc địa, thay thế nó bằng chính quyền bù nhìn triều đình do hoàng đế Bảo Đại đứng đầu dưới sự thống trị vững chắc của họ. Việc làm của Nhật ngẫu nhiên đã mở ra toàn bộ khu vực bắc đồng bằng sông Hồng trước cuộc nổi dậy cách mạng. Tổng bí thư Trường Chinh đã lường trước nước cờ, tổ chức cuộc họp một ngày trước đó với một số uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương ở làng Đình Bảng, cách đông bắc Hà Nội 25 cây số, thảo luận tình hình. Trong khi đảo chính đang diễn ra, Ban Chấp hành Trung ương chỉ thị ra lệnh chuẩn bị cao độ cho một cuộc tổng khởi nghĩa sắp tới. Bản chỉ thị tuyên bố, có một số yếu tố thuận lợi để khởi nghĩa thành công, bao gồm khủng hoảng chính trị do đảo chính, nạn đói tăng mạnh và khả năng Đồng Minh can thiệp, rồi kết luận đấu tranh vũ trang bây giờ sẽ được coi là ưu tiên cao nhất. Do vậy, bản chỉ thị kêu gọi mở rộng căn cứ du kích, mở rộng cơ sở chính trị Mặt trận Việt Minh, tập hợp những lực lượng vũ trang cách mạng khác nhau vào Việt Nam Giải Phóng Quân.
Tuy thế, Trường Chinh vẫn thận trọng cho rằng Đảng phải chờ đợi cho tới khi nào điều kiện trong nước và thế giới chín muồi, vì bản thân lực lượng cách mạng vẫn còn chưa được chuẩn bị đầy đủ để tiến hành khởi nghĩa thành công. Chỉ khi nào những yếu tố đó chín muồi, những người ủng hộ ông sẽ được chuẩn bị hành động. Ban Chấp hành Trung ương giả định Đồng Minh sẽ can thiệp. Lực lượng của đảng được lệnh tấn công hậu cứ địch, tiến hành tổng khởi nghĩa ngay khi lực lượng Đồng Minh đổ bộ vào Đông Dương và bắt đầu tiến quân. Nhưng bản chỉ thị nhấn mạnh, ngay cả khi chính phủ Nhật đầu hàng trước khi cuộc can thiệp xảy ra, “tổng khởi nghĩa của chúng ta có thể nổ ra và thành công”.[48]
Trước khi rời Côn Minh, Hồ Chí Minh gửi phía Hoa Kỳ bản giải thích sự kiện đảo chính 9 tháng 3. Trong bản giải thích ký tên “Lực”, hiện nay còn trong Cục lưu trữ Mỹ, ông tuyên bố, điều này đã đặt dấu chấm hết sự thống trị của Pháp ở Đông Dương, sự thống trị bắt đầu từ 87 năm trước đây. Ông kết luận, “Như thế, con sói thực dân Pháp cuối cùng bị con linh cẩu phát - xít Nhật nuốt chửng”. Lực thú nhận, trong tình hình thế giới, đây là “sự kiện thời khắc” duy nhất, nhưng ông tuyên bố nó sẽ có “một sự chịu đựng nghiêm trọng trong chiến tranh thế giới nói chung, ở Đông Dương, Pháp, Nhật Bản và Trung Quốc nói riêng”. Mục đích của Hồ viết báo cáo, để thuyết phục chính quyền Roosevelt tấn công Nhật ở Đông Dương, cái mà ông gọi là “Nhật chỉ còn con đường duy nhất là rút lui”. Theo lối diễn đạt màu mè, ông phát biểu “từ Nhật tới New Guinea, quân đội Nhật trông giống như một con rắn dài mà cổ của nó ở Đông Dương. Nếu Đồng minh đánh mạnh vào cổ nó, con rắn s