← Quay lại trang sách

CHƯƠNG X NHỮNG NGÀY THÁNG TÁM

dịch giả: lâm hoàng mạnh - nguyễn học

CHƯƠNG X

những ngày tháng tám

gày 14 tháng 8 năm 1945, tiếng súng im lặng trên toàn châu Á. Chính phủ Nhật Bản tuyên bố đầu hàng, tướng Mỹ Douglas MacArthur đến vịnh Tokyo đưa những điều kiện hoà bình của Đồng Minh cho đại diện triều đình Nhật Bản trên chiến hạm Missouri.

Tại vùng rừng núi Tân Trào, các nhà lãnh đạo Việt Minh đợi chờ tin tức Tokyo đầu hàng và bắt đầu hành động. Ngày 16-8-1945, khai mạc Hội nghị Nhân Dân Toàn Quốc, những đơn vị Việt Nam Giải Phóng Quân của Võ Nguyên Giáp, cùng thiếu tá Allison Thomas và toán Con Nai, bắt đầu di chuyển về phía nam hướng tới đồng bằng sông Hồng. Cũng ngày hôm đó, những cuộc nổi dậy của nhân dân nổ ra ở các huyện lỵ nông thôn khắp Bắc Việt Nam. Một số hành động mang tính tự phát, một số khác do những đơn vị Việt Minh ở địa phương thực hiện. Ở những vùng chính quyền bị đạp tan hoàn toàn, những “Uỷ ban giải phóng nhân dân” được thành lập. Chính quyền mới thay thế chính quyền cũ, những phần tử thù địch bị đánh đập và một vài trường hợp bị đánh đến chết.

Chính nạn đói ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ vẫn tiếp diễn từ mùa đông năm ngoái cho đến nay đã góp sức mạnh cho lực lượng cách mạng nổi dậy. Chính phủ của Thủ tướng Trần Trọng Kim, do Hoàng đế Bảo Đại bổ nhiệm sau khi Nhật đảo chính tháng Ba, đã cố gắng giải quyết khủng hoảng bằng cách dừng việc bắt phải bán gạo cho chính quyền Nhật, đặt giá trần và tìm cách tăng vận chuyển ngũ cốc từ các tỉnh miền Nam ra, cải thiện các phương tiện vận tải. Các hội chống đói được thành lập cung cấp ngũ cốc cho người nghèo. Vụ lúa xuân được mùa đã giúp giảm bớt nạn đói, nhưng những trận mưa lớn giữa mùa hè khiến sông Hồng và các chi lưu của nó gây ngập lụt. Nhiều gia đình nông dân sống trong vùng đất trũng đồng bằng sông Hồng buộc phải bỏ nhà cửa vườn tược chạy lên đê tránh lụt. Nạn đói lan rộng là cơ hội vàng cho Việt Minh kích động những nông dân căm phẫn trong vùng chiếm kho thóc. Tuy trong một thời gian ngắn ngủi, sự cải thiện chút xíu cũng đã giảm bớt khốn khổ của dân chúng. Hơn một triệu người, gần mười phần trăm dân số Bắc Kỳ, đã bị chết đói chỉ trong vòng sáu tháng đầu năm 1945.[1]

Một số ví dụ khác, những người nổi dậy đụng độ với quân đội chiếm đóng Nhật Bản. Khi những đơn vị Việt Nam Giải Phóng Quân của Giáp, mang vũ khí Mỹ, mặc đồng phục, tiến vào tỉnh lỵ Thái Nguyên sáng ngày 19-8-1945, một cuộc biểu tình quần chúng lớn nổ ra ở trung tâm tỉnh lỵ chào đón những người mới đến, uy hiếp tinh thần binh lính Bảo An khiến họ nộp súng cho những người tấn công. Chính quyền Việt Nam và những quan chức đầu tỉnh tuyên bố đầu hàng, nhưng quân đội Nhật Bản vẫn kháng cự mạnh ở đại bản doanh tại trung tâm tỉnh lỵ. Khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng biết tin bọn Nhật ngoan cố chống cự, ra lệnh cho Giáp để một bộ phận ở lại Thái Nguyên bao vây quân Nhật, đồng thời đem những phần quân đội còn lại tiến về thủ đô Hà Nội. Tình hình tương tự cũng diễn ra ở tỉnh Tuyên Quang kế bên.[2]

Ở Hà Nội, ngày 11-8-1945, tin đồn Nhật Bản sắp đầu hàng đã bắt đầu lan truyền, sau khi quả bom nguyên tử thứ hai thả xuống Nagasaki hai ngày trước đó. Những uỷ viên Xứ uỷ Bắc Kỳ dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Khang nhanh chóng chuẩn bị khởi nghĩa chiếm thành phố từ tay quân Nhật. Trên thực tế, họ đã chuẩn bị việc này từ vài tháng trước. Dù chỉ có khoảng 50 đảng viên ở thủ đô, vài ngàn dân tham gia Hội Cứu Quốc của Việt Minh khi vỡ mộng với những chính sách vô ích của chính phủ Trần Trọng Kim đưa ra. Cuối năm 1944, phần lớn những hoạt động là tuyển mộ những đơn vị chiến đấu, vạch kế hoạch đánh chiếm các cơ quan chính phủ, lập đơn vị danh dự thực hiện ám sát, khủng bố nhằm vào những quan chức và những người ủng hộ chế độ. Ở nhiều làng xung quanh, các đơn vị tuyên truyền vũ trang được hình thành chuẩn bị thời điểm khi được lệnh tiến vào Hà Nội khuấy động nhân dân thành thị và trợ giúp lực lượng nội thành cướp chính quyền.[3]

Tình hình kinh tế tồi tệ trong tất cả khu vực thành thị diễn ra có lợi cho những người nổi dậy. Sản xuất công nghiệp tụt giảm trong hai năm gần đây, đồng thời nạn lạm phát - cũng góp một phần do việc chính quyền quân phiệt Nhật Bản in thêm tiền để chi tiêu cho nhu cầu của họ - cũng tăng lên nhanh chóng. Trong vài tháng, tỷ giá đồng bạc Đông Dương từ 0,25 đô la giảm xuống dưới 0,10 đô la Mỹ. Theo đánh giá, giá cả sinh hoạt tăng lên ba lần so với lúc bắt đầu chiến tranh. Do giá sinh hoạt gia tăng, nạn thiếu hụt thực phẩm vẫn tiếp tục trầm trọng, nhiều người thuộc tầng lớp trung lưu ở Hà Nội cũng như các thành phố lớn khác ngả sang Việt Minh, thậm chí một số người bắt đầu mua “trái phiếu cách mạng” của Việt Minh để lấy lòng chính quyền cách mạng mới.

Trong hai tuần lễ đầu tháng Tám, giới lãnh đạo đảng ở Hà Nội tìm cách thâm nhập những đơn vị quân đội chính phủ đóng ở thủ đô, bắt liên lạc với Phan Kế Toại, Khâm sai đại thần ở Bắc Kỳ. Phan Kế Toại, theo báo cáo, người có thiện cảm bí mật với lực lượng cách mạng (con trai ông tham gia tích cực trong Mặt trận Việt Minh), gặp Nguyễn Khang ngày 13-8-1945 và đề nghị Việt Minh tham gia chính phủ Bảo Đại, bây giờ đang chuẩn bị đàm phán với phe Đồng Minh chiến thắng. Nhưng Khang từ chối, khuyên vua Bảo Đại nên thoái vị, trao chính quyền cho chính phủ cộng hoà mới. Phan Kế Toại không phải là người được uỷ thác, nhưng đồng ý chuyển thư tới triều đình ở Huế. Cùng ngày, Thủ tướng Trần Trọng Kim, cảm thấy nhục nhã về sự không hợp pháp của chính phủ đương thời, đau đớn vì bản thân thiếu kinh nghiệm, (trước khi được bổ nhiệm làm thủ tướng, ông chỉ là nhà sử học có quan điểm chính trị ôn hoà), đã từ chức ở Huế và trao quyền cho một uỷ ban được thành lập làm chính phủ lâm thời cho tới khi lực lượng Đồng Minh tới. Những người chủ nghĩa dân tộc không cộng sản thành lập Uỷ ban Cứu Quốc làm đại diện của chính phủ tại Hà Nội.[4]

Tin Tokyo đã chấp nhận những điều kiện hoà bình của Đồng Minh bay đến Hà Nội ngày 15-8-1945. Chính quyền chiếm đóng Nhật Bản lập tức trao quyền lực cho chính phủ lâm thời Việt Nam. Chiều hôm đó, các uỷ viên Xứ uỷ Bắc Kỳ họp tại ngoại thành Hà Đông tìm ra cách ứng phó với những sự kiện trong tuần. Dù Xứ uỷ Bắc Kỳ không nhận được lệnh của Hồ Chí Minh tại Tân Trào, nhưng chỉ thị tháng 3-1945 của đảng đã nhấn mạnh tầm quan trọng sáng kiến địa phương tận dụng cơ hội tốt nhất khoảng trống quyền lực tạo ra tại thời điểm do Nhật Bản đầu hàng. Xứ uỷ Bắc Kỳ ra lệnh tổng khởi nghĩa khắp các tỉnh đồng bằng sông Hồng để chuẩn bị cho một cuộc tấn công sắp tới vào thủ đô. “Uỷ ban Khởi nghĩa Quân sự” gồn năm người được thành lập do Nguyễn Khang trực tiếp lãnh đạo. Sáng hôm sau, Khang đạp xe vào Hà Nội, gặp những người lãnh đạo cơ sở phối hợp hành động. Nhưng không có chỉ thị từ Tân Trào, họ vẫn không dám quyết định dứt khoát cướp chính quyền khi nào và như thế nào.[5]

Đêm 16-8-1945, nhân dân Hà Nội thấp thỏm trong bóng đêm chờ số phận của họ. Đèn đường ở trung tâm phố xá bị tắt, bóng đêm bao phủ thành phố chuẩn bị cho cuộc không tập có thể xảy ra. Ánh sáng le lói phát ra từ những khách sạn và nhà hàng tương phản sắc nét với bóng đen bao phủ thành phố. Bất thình lình, trong bóng đêm yên lặng vang lên tiếng súng lục nổ. Một đội Việt Minh xông vào một rạp chiếu bóng cạnh hồ Hoàn Kiếm, bắt dừng chiếu phim và nhảy lên diễn thuyết. Viên sĩ quan Nhật đang xem phim bỏ chạy ra khỏi rạp bị bắn gục trên phố. Xác ông ta nằm bất động nhiều giờ trên đường.

Hy vọng ứng phó với sự biến đổi nhanh chóng của tình hình, những người lãnh đạo Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ - cơ quan bù nhìn được Pháp lập ra hai thập niên trước đây - triệu tập họp hội đồng tại Phủ Toàn quyền nằm ở tây bắc thành phố vào ngày 17-8-1945. Cuộc họp chủ yếu gồm những người thân Nhật của Đảng Đại Việt, chiếm đa số trong Uỷ ban Cứu Quốc vừa lập ra bốn ngày trước đó. Họ kêu gọi nhân dân biểu tình ủng hộ chính phủ Bảo Đại. Trong khi đó, những đơn vị Việt Minh ở ngoại thành - theo lệnh Uỷ ban Khởi nghĩa Quân sự - bắt đầu hành động, chiếm chính quyền ở địa phương và thành lập Uỷ ban Nhân dân Cách mạng. Những đơn vị tự vệ, chỉ có gậy gộc, dáo mác gồm những người khoẻ mạnh, đã chuẩn bị tiến vào thành phố sáng hôm sau.[6]

Những sự kiện khuấy động xảy ra ở ngoại ô dâng cao đến mức tác động đến nội thành. Chiều ngày 17 tháng 8, trong khi Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ vẫn còn họp ở Phủ Toàn quyền, một cuộc mít tinh khác được tổ chức tại Nhà Hát Lớn - nhà hát opera kiểu Pháp xây dựng đầu thế kỷ XX ở trung tâm Hà Nội -. Cuộc mít tinh được tổ chức theo lời kêu gọi các đảng phái chính trị, những nhóm trung thành với Chính phủ lâm thời Trần Trọng Kim vừa lập ra. Đám đông ước tính 20.000 người, tập hợp thành từng khối phía trước Nhà Hát Lớn để thị uy. Nhưng khi cuộc mít tinh mở màn, những người biểu tình thân Việt Minh hành động theo lệnh của Ban Chấp hành Thành ủy đảng bắt đầu hô to những khẩu hiệu đòi độc lập dân tộc, chính quyền về tay nhân dân. Lập tức, những tự vệ xung kích tiến vào toà nhà, trèo lên tầng hai, hạ lá cờ quẻ ly của hoàng đế trên ban công và treo lá cờ đỏ sao vàng của Mặt trận Việt Minh. Nguyễn Khang nhảy lên diễn đàn dựng trước Nhà Hát Lớn, tuyên bố Nhật đầu hàng, kêu gọi những người biểu tình ủng hộ cuộc khởi nghĩa sắp tới. Cuộc mít tinh kết thúc trong hỗn loạn, đám đông biến thành dòng người đội mưa kéo tới Bắc Bộ Phủ, cách đó mấy toà nhà. Những dòng người khác tiếp tục kéo tới Phủ Toàn quyền, tới khu trung tâm buôn bán của thành phố.

Tối hôm đó, khi thành phố chìm trong tình thế căng thẳng và trong cái nóng oi ả của mùa hè, đảng bộ thành phố họp tại một địa điểm bí mật ở ngoại ô vạch kế hoạch cho ngày hôm sau. Được Nguyễn Khang khích lệ, Thành ủy quyết định ngày hôm sau sẽ tuồn vũ khí vào nội thành, những đội tự vệ xung kích sẽ án ngữ những vị trí quan trọng cho cuộc khởi nghĩa dự kiến nổ ra ngày 19 tháng 8. Đảng bộ Hà Nội ước tính, có hơn 100.000 người ủng hộ Việt Minh hoặc ít nhất cũng một nửa dân thành phố. Để tăng cùng sức mạnh, lực lượng tự vệ ngoại thành được lệnh thâm nhập nội thành. Đêm ngày 18-8-1945, các uỷ viên Uỷ ban Khởi nghĩa Quân sự âm thầm lọt vào Hà Nội để chỉ đạo hành động.

Đông đảo quần chúng nhân dân bắt đầu tập hợp thành từng khối trước quảng trường Nhà Hát Lớn vào sáng sớm. Nhiều nông dân từ những làng xung quanh Hà Nội như Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên, được những đội tuyên truyền vũ trang Việt Minh huy động, bắt đầu tràn vào thành phố trước khi trời rạng. Những người trong thành phố, như công nhân, học sinh sinh viên, người buôn bán và viên chức chính phủ vì hiếu kỳ mà tham gia sự kiện sắp xảy ra. Theo một người tham dự kể lại, đàn ông mặc áo nâu, chân đi dép cao su (dép râu), còn phụ nữ mặc áo nâu, chít khăn vuông, chân đất. Trên đường phố là cả một rừng cờ đỏ, mỗi điểm bây giờ giống như ngôi sao vàng ở giữa. Vì là ngày chủ nhật, tất cả các cửa hiệu cũng như các chợ đều đóng cửa.

Gần trưa, buổi lễ bắt đầu trước cửa Nhà Hát Lớn. Sau một phút im lặng tưởng niệm những người đã hy sinh trong cuộc đấu tranh giành độc lập, ban nhạc cử quốc ca, lá cờ đỏ sao vàng kéo lên. Sau đó một uỷ viên đảng bộ Hà Nội xuất hiện trên ban công, tuyên bố cuộc tổng khởi nghĩa bắt đầu. Ngay sau đó, đàm đông chia thành vài dòng người, tiến về những vị trí quan trọng trong thành phố: Toà Thị Chính, Sở Cảnh Sát, Bắc Bộ Phủ. Nói chung không có sự chống cự, nhưng có một vài đụng độ nhỏ. Khi khối dân chúng do Nguyễn Khang dẫn đầu tiến đến Bắc Bộ Phủ, một đơn vị Bảo An Binh dàn quân chống cự, nhưng sau một hồi đấu lý với một đội tự vệ xung kích của Việt Minh, viên sĩ quan đầu hàng. Những thành viên Việt Minh kết thành một hàng rào sắt trước mặt Bắc Bộ Phủ, lá cờ Việt Minh nhanh chóng được kéo lên cột cờ. Những dòng người khác tiến đến trụ sở Bảo An Binh, nhà tù thành phố, các dinh thự công sở thành phố và chiếm chúng.

Chính phủ lâm thời và quân Nhật chẳng hề chống cự. Sau khi thương lượng với Việt Minh, chính quyền chiếm đóng Nhật Bản đồng ý quân đội Nhật Bản không can thiệp. Uỷ ban Cứu Quốc lập ra vài ngày trước đó bất lực - trên thực tế, đã tan rã trước khi màn đêm buông xuống. Đến cuối chiều, Hà Nội đã nằm trong tay lực lượng cách mạng trong một cuộc chính biến không đổ máu, chính quyền Việt Minh gửi thư tới những đơn vị các nơi thông báo thắng lợi và đưa ra những phuơng hướng hành động tiếp theo: “Nếu có thể, hãy hành động như ở Hà Nội. Nhưng chỗ nào quân Nhật chống cự, hãy tấn công quyết liệt. Bằng tất cả mọi giá phải cướp được chính quyền”.

Những sự kiện vài ngày qua, làm nức lòng nhân dân Hà Nội, từng phải chịu đựng suốt nhiều năm khó khăn về kinh tế, sự chiếm đóng của quân đội Nhật Bản. Không lo quân cảnh Nhật tấn công, các đám đông đi quanh đường phố phất cờ, hô to khẩu hiệu đòi độc lập, yêu cầu triều đình bù nhìn từ chức. Rất ít người biểu tình biết rõ về Việt Minh. Nhưng với số đông còn lại, chẳng hiểu Việt Minh là ai và tại sao lại có thể đại diện cho dân tộc, nhưng cuộc chiến tranh Thái Bình Dương đã kết thúc, viễn cảnh tống cổ người Pháp ra khỏi đất nước cũng quá đủ để họ ăn mừng.

Tin tức thắng lợi ở thủ đô lan nhanh khắp Bắc Kỳ, chắc chắn tạo thuận lợi cho Việt Minh cướp chính quyền ở những nơi khác. Lực lượng cách mạng đã gạt sang bên sự chống cự yếu ớt của chính quyền địa phương hoặc quân Nhật và ở vô số làng mạc, thị trấn, việc cướp chính quyền hầu như không gặp chống cự. Đến ngày 22-8-1945, cờ đỏ sao vàng tung bay khắp Bắc Kỳ và những huyện phía trên vùng cán xoong (ám chỉ Thanh Hoá). Hôm sau Việt Minh thương lượng ngừng bắn, tất cả lực lượng quân đội Nhật bỏ vũ khí đầu hàng ở Thái Nguyên.

Ở các tỉnh Trung Kỳ chạy dọc phía nam bờ biển, tình hình có đôi chút khó khăn. Phong trào cách mạng chưa được tổ chức tốt ở các tỉnh Trung Kỳ và không có căn cứ địa giải phóng để thu nạp hội viên mới cũng như nhận chỉ thị. Khoảng cách địa lý xa khiến thông tin liên lạc với ban lãnh đạo Việt Minh ở phía bắc khó khăn hơn mặc dù những đảng bộ đã nhận được chỉ thị tháng 3-1945 từ Ban Thường Vụ, nhưng phải mất vài ngày mới nhận được thư từ Tân Trào, thậm chí những tin tức nóng hổi về những sự kiện đang diễn ra ở Hà Nội.

Trong hoàn cảnh này, lãnh đạo đảng bộ địa phương quyết định hành động theo sáng kiến riêng. Trọng tâm của họ là kinh đô Huế, nơi Đảng bộ đã chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa từ khi nhận được chỉ thị tháng Ba. Nhưng dân chúng vùng này không ủng hộ cách mạng như ở phía bắc. Cố đô Huế, thành phố của những quan lại cai trị hơn là của công nhân hoặc người buôn bán. Tuy một số người dân - đặc biệt học sinh, sinh viên, thợ thủ công, tiểu thương - ngả về cách mạng, nhưng cũng có một số đảng phái chính trị ủng hộ chế độ cũ, thậm chí ủng hộ cả Nhật Bản. Do đó, cán bộ đảng phải tập trung cố gắng ở vành đai nông thôn, nơi ủng hộ Việt Minh khá mạnh.

Ngày 21-8-1945, vua Bảo Đại ở Huế nhận được bức điện của chính phủ mới ở Hà Nội yêu cầu ông thoái vị. Lãnh đạo đảng địa phương hình như không biết rõ cái gì phải làm, nhưng khi Tố Hữu - nhà thơ cách mạng trẻ tuổi - thay mặt Việt Minh tới Huế, Đảng bộ tỉnh bắt đầu hoạt động. Lực lượng Việt Minh chiếm chính quyền ở nông thôn quanh Huế, bắt đầu tổ chức những đơn vị tự vệ nông dân. Sau đó, ngày 22-8, hơn 100.000 người tụ tập ở Ngọ Môn chứng kiến Uỷ ban Khởi Nghĩa địa phương cướp chính quyền. Giống như ở Hà Nội, hầu như không có sự chống cự của chính phủ địa phương hay quân Nhật.

Đối với Việt Minh, Nam Kỳ quả là khó nhằn. Sau khi cuộc khởi nghĩa 1940 bị đàn áp, Xứ uỷ Nam Kỳ hầu như tan vỡ. Phần đông ban lãnh đạo đảng chết, hoặc bị tù còn những người ủng hộ Đảng bị mất tinh thần. Trong khi đó, những phần tử không cộng sản lại thu được thành công dưới sự chiếm đóng của Nhật, khuyến khích phát triển phong trào dân tộc chủ nghĩa trực tiếp chống lại phương Tây được phản ánh quan điểm của Tokyo theo Học thuyết Monroe, dựa trên khẩu hiệu “Châu Á của người châu Á”. Chính quyền Jean Decoux cố gắng duy trì ảnh hưởng bằng cách nuôi dưỡng những phần tử ôn hoà có quan hệ với tầng lớp trung lưu tương đối giàu có tại Sài Gòn và những thị xã lớn ở đồng bằng Cửu Long.

Trước nguy cơ bị tiêu diệt, các đảng viên cố gắng khôi phục lại phong trào trong hoàn cảnh hỗn loạn. Đi đầu trong những cố gắng này là cựu học viên Trường Stalin Trần Văn Giàu, bị tù trong thời gian khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940, nhưng đã vượt ngục mùa hè năm sau. Trong hoàn cảnh không có bất cứ thông tin liên lạc từ ban lãnh đạo đảng ở miền Bắc, Xứ uỷ Nam Kỳ phải tuân theo tinh thần Hội nghị VI từ năm 1939, chuẩn bị tổng khởi nghĩa trong tương lai, đồng thời vận dụng nó vào hoàn cảnh hiện tại ở Nam Kỳ. Không có những căn cứ rừng núi như ở Việt Bắc, Giàu quyết định tập trung mọi nỗ lực của Đảng vào thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, đồng thời xây dựng sức mạnh ở nông thôn chuẩn bị tổng khởi nghĩa khi kết thúc chiến tranh Thái Bình Dương. Dù hoạt động của Đảng không thắng được những đối thủ dân tộc chủ nghĩa như những nơi khác trong nước, Giàu cố gắng nâng cao tinh thần các đồng chí bằng cách dẫn ra những tấm gương cách mạng Bolsevich để dẫn đến tác dụng rằng một dân tộc nhược tiểu được huấn luyện và có kỷ luật có thể giành chính quyền trong tình hình nước sôi lửa bỏng. Bởi thế ông bắt đầu vạch kế hoạch khởi nghĩa ở thành thị cùng sự giúp đỡ của nông dân từ ngoại thành thâm nhập vào thành phố.[7]

Đầu năm 1945 Đảng đã hình thành một phong trào bí mật trong công nhân tại Sài Gòn với hơn 70 chi bộ, gồm 3.000 công nhân. Sau khi Nhật đảo chính tháng Ba lật đổ Pháp ở Đông Dương, Xứ uỷ Nam Kỳ tận dụng cơ hội kiểm soát một tổ chức thanh niên do Nhật đỡ đầu mang tên Đội Thanh Niên Xung Phong.

Dưới sự lãnh đạo của Phạm Ngọc Thạch, (con trai Phạm Ngọc Thọ, người che chở Hồ Chí Minh ở Qui Nhơn trong chuyến đi về nam sau khi tham gia vụ nông dân bạo động năm 1908) - dưới vỏ bọc Đội Thanh Niên Xung Phong để phục vụ Đảng, cố gắng huy động thanh niên yêu nước phụng sự cho sự nghiệp cách mạng. Đội này có một cái gì đó mang hơi hướng phong trào Hướng đạo ở phương Tây, mặc quần áo đồng phục, hát những bài hát của đội và hoạt động mang tính tập thể. Đội Thanh Niên Xung Phong phát triển nhanh chóng trong thời kỳ mùa xuân và mùa hè năm 1945 ở trường học, nhà máy và làng quê. Đến tháng 8-1945, Đội Thanh Niên Xung Phong có hơn một triệu đoàn viên, chủ yếu ở các tỉnh Nam Kỳ.[8]

Sau cuộc đảo chính tháng Ba, Nhật Bản duy trì kiểm soát cai trị Nam Kỳ vì những lý do chiến lược. Ngày 14 tháng 8 chính quyền chiếm đóng Nam Kỳ cho phép vua Bảo Đại bổ nhiệm một cựu trào dân tộc chủ nghĩa Nguyễn Văn Sâm làm phó vương của triều đình tại Nam Kỳ. Những người không cộng sản thành lập Mặt trận Quốc gia Thống Nhất để lấp lỗ trống sau khi quân Nhật ra đi. Ngày 16-8-1945, Ban Chấp hành Mặt trận Quốc gia Thống Nhất nhận quyền lực tại Sài Gòn trong một cuộc đảo chính không đổ máu, trong lúc chờ Phó vương tới.

Trước hai nguy cơ, viễn cảnh Pháp quay lại và việc mọc ra chính quyền Việt Nam không cộng sản tại Sài Gòn, Trần Văn Giàu cố gắng lật ván cờ. Nghe tin Nhật Bản đầu hàng ngày 14-8-1945, ông họp bàn với Xứ uỷ Nam Kỳ lập ra Uỷ ban Khởi Nghĩa và chuẩn bị một cuộc khởi nghĩa. Nhưng một số uỷ viên - chắc hẳn nhớ lại sự thất bại năm 1940 - tỏ ý nghi ngờ lực lượng cách mạng không đủ sức cướp chính quyền. Không những thiếu vũ khí trang bị cho lực lượng bán vũ trang được tổ chức trong hàng ngũ công nhân tiến bộ và đa số thành viên Đội Thanh Niên Xung Phong, giới lãnh đạo đảng ở Nam Kỳ không nhận thức được ý định của các đồng chí của họ ở miền Bắc. Cuối cùng, Ban Chấp hành quyết định dừng cuộc khởi nghĩa cho đến khi nào nhận được tin tức về tình hình ở Hà Nội. Trong khi đó, họ tiến hành “khởi nghĩa thử” cướp chính quyền ở một số nơi ở nông thôn, đồng thời tìm cách xây dựng cơ sở phong trào Việt Minh trong hàng ngũ nhân dân khắp các tỉnh ở Nam Kỳ.

Khi tin tức Cách mạng tháng Tám ở Hà Nội đến Sài Gòn, ngày 20-8-1945, Trần Văn Giàu yêu cầu mở cuộc họp với Ban chấp hành Mặt trận Quốc gia Thống Nhất. Hai ngày sau, tại cuộc họp, ông lập luận, Mặt trận gồm nhiều đảng phái có mối ràng buộc nguy hiểm với chế độ chiếm đóng Nhật Bản, chắc chắn không được chính quyền Đồng Minh chấp nhận là đại diện hợp pháp cho ý nguyện của dân tộc Việt Nam. Ông cho rằng, chỉ có Mặt trận Việt Minh, mới được sự ủng hộ hoàn toàn của Đồng Minh - có thể làm được việc này. Trong khi đang họp, có tin vua Bảo Đại đề nghị chính quyền cách mạng ở Hà Nội thành lập một chính phủ mới để thay thế chính quyền Trần Trọng Kim. Bất đắc dĩ, những người dân tộc chủ nghĩa phải đồng ý, sau đó đồng ý cộng tác với Việt Minh. Mặt trận quốc gia thống nhất bị giải tán, thay thế bằng Uỷ ban Nam Bộ do Trần Văn Giàu làm chủ tịch.

Trong khi đó, Giàu tiến hành “khởi nghĩa thử” ở Tân An, một thị trấn cách Sài Gòn về phía tây - nam hơn 10 cây số ở đồng bằng Cửu Long. Cuộc khởi nghĩa không gặp phải bất cứ kháng cự nào của quân Nhật. Thành công này giúp Giàu thuyết phục những người nghi ngờ trong Xứ uỷ chấp thuận tổng khởi nghĩa cướp chính quyền tại Sài Gòn vào ngày 25-8-1945. Chiến dịch này được tiếp nối bởi những cuộc khởi nghĩa nhỏ, lẻ tẻ ở nông thôn. Ông lập luận, thành công “chắc chắn chín mươi phần trăm”, nhưng phải hành động trước khi quân đội Đồng Minh kéo tới. Đêm đó, kế hoạch thông qua lần cuối, sáng ngày 25-8-1945, các đội tự vệ xung kích chiếm tất cả cơ quan quan trọng của chính phủ và các nhà máy, xí nghiệp, đồng thời hàng ngàn nông dân đã tập hợp sẵn sàng ở ngoại thành, tràn vào thành phố hoà cùng nhân dân nội thị hô to khẩu hiệu “Đả đảo đế quốc, đả đảo thực dân Pháp, Việt nam của người Việt nam” “Tất cả chính quyền về tay Việt Minh”. Đến giữa buối sáng, thành phố hầu như nằm trong tay những người khởi nghĩa. Dù những đơn vị cách mạng được lệnh tránh những đối đầu với quân Nhật, nghe nói có cả những vụ thảm sát người châu Âu trên đường phố Sài Gòn. Đến trưa ngày 25-8-1945, Uỷ ban Nam Bộ với 6 thành viên là Việt Minh đã tuyên thệ nhậm chức Chính phủ lâm thời Nam Kỳ. Ngày hôm sau, Đài phát thanh Việt Minh loan tin cách mạng thành công ở “thành phố Sài Gòn”.[9]

Trong khi làn sóng cách mạng mạnh mẽ tràn qua từ Bắc xuống Nam, Hồ Chí Minh chuẩn bị rời căn cứ du kích Tân Trào về Hà Nội. Dù ông đang chia sẻ niềm vui hân hoan chung những sự kiện long trời lở đất đang diễn ra trên toàn quốc, chắc chắn ông cũng nhận thức được những thử thách khốc liệt ở phía trước, câu nói nổi tiếng của Lenin cảnh tỉnh các đồng chí của ông: “Giành được chính quyền là vấn đề khó, nhưng giữ được chính quyền lại còn khó hơn”.

Sáng ngày 22-8-1945, ông về tới Thái Nguyên, vừa đi bộ, vừa đi ô tô qua phà đò, khi màn đêm buông xuống cũng là lúc ông đến. Đây là chuyến đi thật gian khổ đối với ông - ông vẫn còn chịu hậu quả trận ốm nặng vừa qua - một số đoạn đường phải nằm trên cáng. Hôm sau, được một nữ cán bộ địa phương đưa đi, ông tiếp tục đi ô tô theo Quốc lộ 3 xuống đồng bằng và qua sông Hồng - nước chảy xiết do những trận mưa lớn mùa hè - đến phía bắc ngoại thành Hà Nội. Nạn lụt đang hoành hành, nước vẫn mênh mông trên những cánh đồng lúa và làng mạc, khiến ông phải xót thương: “Chúng ta phải làm gì để cứu nhân dân khỏi đau khổ và đói?”

Sáng ngày 25-8-1945, tại làng Gạ ở ngoại thành, Hồ gặp Võ Nguyên Giáp và Trần Đăng Ninh, từ Hà Nội lên đón và báo cáo tình hình thủ đô. Ngay sau đó, Trường Chinh tới. Buổi chiều hôm đó, Trường Chinh và Hồ lên xe về thành phố. Qua cầu Long Biên, qua những đường phố bây giờ tràn ngập cờ, biểu ngữ Việt Minh và đến thẳng khu phố Tầu, xe dừng trước một ngôi nhà ba tầng ở Hàng Ngang, chủ nhân là người ủng hộ Việt Minh. Căn nhà này được sử dụng làm chỗ ở tạm thời cho một số cán bộ Đảng. Phòng của Hồ Chí Minh ở tầng trên cùng. Đây là lần đầu tiên sau 55 năm Hồ Chí Minh đặt chân lên Hà Nội.[10]

Chiều đó, Hồ Chí Minh triệu tập họp Ban Thường Vụ Đảng tại chỗ ở mới. Trong khi hội nghị họp, những chi đội đầu tiên Việt Nam Giải Phóng Quân bắt đầu từ Thái Nguyên tiến về, sau những cuộc thương lượng kéo dài với chính quyền Nhật, qua cầu tiến vào thành phố. Cuộc họp diễn ra ở tầng hai, nơi Giáp và Ninh làm chỗ ngủ. Như Võ Nguyên Giáp miêu tả, phòng được dùng làm phòng ăn và phòng khách không có bàn. Hồ làm việc tại bàn ăn, với chiếc máy chữ quen thuộc đặt trên chiếc bàn nhỏ vuông phủ vải xanh ở một ở góc. Sau đêm đầu tiên, ông từ tầng ba đi xuống, ngủ trên chiếc giường gấp bằng vải bạt để có thể xếp gọn về ban ngày, đồng thời những người ở cùng ngả lưng trên xô pha hoặc hai chiếc ghế băng kê sát nhau. Đối với gia nhân và hàng xóm, Hồ và các đồng chí của ông đơn giản chỉ là “mấy người họ hàng từ quê ra chơi”.[11]

Chủ đề chính tại cuộc họp, cần phải tuyên bố thành lập chính phủ lâm thời. Ban Thường vụ khẳng định, Uỷ ban Giải phóng Dân tộc lập ra tại Tân Trào do Hồ làm chủ tịch, sẽ là chính phủ lâm thời cho đến khi một chính phủ chính thức được bầu. Tại cuộc họp, Hồ đề nghị Chính Phủ lâm thời nên mở rộng cho một số nhân sĩ và thành viên chính phủ mới, nên có mặt tại cuộc tuần hành quần chúng để tuyên bố độc lập dân tộc. Ông thúc giục, tất cả những điều này phải được làm xong trước khi lực lượng chiếm đóng Đồng Minh kéo vào.

Tình hình biến chuyển quá nhanh đến nỗi trong khi Hồ Chí Minh đang thành lập chính phủ mới, thì những nhóm quân nhân nước ngoài đã tới Hà Nội. Theo Hội nghị Potsdam diễn ra ở ngoại ô Berlin vào cuối tháng 7 và đầu tháng 8-1945, Đồng Minh thoả thuận chia Đông Dương thuộc Pháp thành hai vùng riêng biệt để tiếp nhận đầu hàng của quân đội Nhật, khôi phục luật pháp và trật tự trong nước. Do Mỹ tích cực tham gia vào việc tiếp nhận đầu hàng của quân đội hoàng gia Nhật Bản, nên những nơi khác ở châu Á, quân đội Mỹ không tham gia. Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở lên, nhiệm vụ này giao cho quân đội Quốc Dân Đảng Trung Hoa. Phía nam giao cho quân đội Anh. Do sự cương quyết của Mỹ, nên Pháp không được tham gia công việc này.

Do chiến tranh Thái Bình Dương kết thúc mau lẹ như một tia chớp, những đơn vị chủ yếu của lực lượng chiếm đóng không thể tới Đông Dương trong vòng vài tuần lễ. Nhưng một toán tiền trạm người Mỹ, sĩ quan Pháp đã tới sân bay Gia Lâm và ở tại khách sạn Metropole, Hà Nội. Khách sạn Metropole là một khách sạn sang trọng xây dựng theo kiến trúc Pháp, nằm đối diện trực tiếp với Bắc Bộ phủ và một khối nhà phía đông Hoàn Kiếm. Trong đoàn khách mới đến có đại uý Archimedes Patti, sĩ quan Cơ quan Tình báo Chiến lược Mỹ, người đã tranh thủ sự cộng tác Hồ Chí Minh thời gian họ ở Tĩnh Tây bốn tháng trước đây.

Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng, Patti được bổ nhiệm đứng đầu toán “Mercy” (Nhân Từ) bay tới Hà Nội để tiếp nhận tù binh Đồng Minh bị Nhật giam ở các trại tập trung, cũng như cung cấp tin tức tình báo về Đông Dương. Jean Sainteny - một thời cầm đầu phái bộ quân sự Pháp - bây giờ đại diện của chính phủ “Nước Pháp Tự do” của tướng Charles de Gaulle ở Trung Hoa, yêu cầu được tham gia toán của Patti, với lý do để bảo vệ những người Pháp bị kẹt lại. Dù cả chính phủ Trung Hoa và Mỹ không muốn Pháp đóng một vai trò chính thức nào trong việc đầu hàng của Nhật, song cuối cùng Sainteny cũng kiếm được phép đi theo đoàn Patti đến Hà Nội, công việc chỉ đóng khung tham gia những hoạt động nhân đạo.

Ngay khi yên vị tại khách sạn Metropole, Patti mở những cuộc nói chuyện với chính quyền chiếm đóng Nhật Bản. Ông cũng liên lạc đại diện Mặt trận Việt Minh, cũng như những nhóm đại diện cho Pháp kiều ở thành phố, nhiều người khiếp sợ khả năng những cuộc tấn công vào người châu Âu. Chiều ngày 26 tháng 8, bất ngờ Patti nhận được lời mời tới gặp Hồ Chí Minh. Ông lái xe vòng vèo tới nơi ở của Hồ ở phố Hàng Ngang. Sau khi màn chào hỏi và bữa ăn ngon gồm riêu cá, gà kho, thịt lợn, bánh nếp và hoa quả, hai người hội đàm dài về tình hình hiện tại. Hồ phàn nàn về toán người Pháp có mặt - theo lệnh Sainteny, vừa chiếm Phủ Toàn quyền - cảnh báo Patti về mục đích thật việc này có đúng theo lời phát biểu của Sainteny, chỉ quan tâm đến điều kiện của Pháp kiều ở Đông Dương. Ông bày tỏ mối quan tâm về quan điểm của chính phủ Trung Hoa và Anh, nhấn mạnh Anh đã chia sẻ quyền lợi với Pháp trong việc duy trì những thuộc địa ở châu Á, trong khi chính phủ Trung Hoa muốn bán đứng lợi ích của người Việt Nam để thu lợi cho chính họ.

Hồ cũng thăm dò Patti về tương lai Đông Dương. Thừa biết những quan sát viên chính trị lão luyện cho ông là đặc vụ lão làng của Quốc tế Cộng sản, Hồ phản đối việc này và quả quyết ông chỉ là một người “dân tộc và xã hội chủ nghĩa tiến bộ”, đi theo cộng sản Moscow và Trung Quốc chỉ vì hoàn cảnh đưa đẩy. Nhưng Patti, theo ý kiến bản thân, không được giao nhiệm vụ quyền bàn về những vấn đề chính trị địa phương. Đối với Hồ Chí Minh, đây là một tin tức tốt. Ngay trước khi Patti ra về, Hồ nhận được một tin Nguyễn Văn Sâm, Phó vương Nam Kỳ, đã đệ đơn lên triều đình Huế xin từ chức. Lúc 3 giờ 30 phút chiều, Patti cáo từ, về chỗ ở mới tại biệt thự Gautier sang trọng trên một phố đầy cây và yên tĩnh gần hồ Hoàn Kiếm.

Tại biệt thự Gautier, Patti nhận thư của Jean Sainteny, mời ông đến Phủ Toàn quyền để hội đàm. Sainteny, thừa biết người Mỹ đã có tiếp xúc với Hồ Chí Minh, bày tỏ mong muốn có một cuộc gặp với những người lãnh đạo Việt Nam. Patti đồng ý chuyển thư. Cuối ngày ông nhận được hồi âm, Võ Nguyên Giáp đồng ý gặp Sainteny và Patti vào sáng hôm sau. Rõ ràng phía Việt Nam hy vọng sự có mặt của người Mỹ làm tăng sức mạnh trong lần gặp gỡ đầu tiên với một quan chức Pháp kể từ khi kết thúc chiến tranh. Sáng hôm sau Giáp tới dinh trong bộ quần áo trắng với chiếc mũ cũ, ngay lập tức Sainteny phàn nàn về việc Việt Minh đã lơ là trong việc bảo vệ luật pháp, trật tự và tính mạng của những người Pháp. Giáp phản bác, ông đến đây không phải để giải thích các hành động của người Việt mà để tiếp xúc với đại diện “tân chính phủ Pháp”.

Sainteny lúc này trở nên ôn hoà, hứa với Võ Nguyên Giáp, chính phủ Pháp sẽ có cách ứng xử có lợi những đòi hỏi của nhân dân “An Nam”. Nhưng ông từ chối đi vào chi tiết, bóng gió doạ, không dựa vào Pháp, số phận nhân dân Bắc Việt Nam có thể bị quân đội chiếm đóng Trung Hoa định đoạt. Cuộc họp kết thúc không đi đến đâu.[12]

Trong khi Hồ Chí Minh bắt đầu cuộc thương lượng đầy sóng gió với Pháp về số phận mới của nhân dân Việt Nam sau chiến tranh, chính phủ Việt Minh vẫn tiếp tục thương lượng với triều đình Huế về việc Bảo Đại thoái vị. Ngày 20- 8-1945, Bảo Đại thông báo sẵn sàng thoái vị theo đề nghị của nhóm yêu nước ở Hà - Nội và kêu gọi Hà Nội thành lập Tân Chính Phủ. Nhưng Hồ và các đồng chí của ông quyết định ra tay trước hành động của Bảo Đại bằng cách cử một đoàn đại biểu đến Huế yêu cầu Bảo Đại thoái vị để ủng hộ nước Cộng Hoà Việt Nam mới. Đoàn đại biểu, gồm nhà tổ chức lão thành công nhân Hoàng Quốc Việt, người đồng chí có tuổi của Hồ, Nguyễn Lương Bằng và Trần Huy Liệu - nhà báo, nhà tuyên truyền của Đảng - đến Huế ngày 29 tháng 8. Sau khi dự mít tinh quần chúng trước Ngọ Môn để giải thích những ý định của Việt Minh, họ gặp vua Bảo Đại ngày hôm sau ở Hoàng Thành. Trần Huy Liệu, một đảng viên nổi tiếng của Đảng cộng sản Đông Dương, thay mặt đoàn đại biểu nói: “Thay mặt nhân dân, thay mặt Hồ Chí Minh tôn kính, vị chủ tịch của Uỷ ban Giải Phóng, đã cho chúng tôi một vinh dự tới gặp Hoàng thượng để tiếp nhận chính quyền Hoàng Triều”.

Bảo Đại, chưa từng nghe tên Hồ Chí Minh nhưng ngờ rằng chủ tịch mới có thể là nhà lão thành cách mạng Nguyễn Ái Quốc, ông chính thức làm lễ thoái vị. Sau đó, theo yêu cầu của đoàn đại biểu, ông nhắc lại điều này ngay tại buổi chiều trước những người nghe trong buổi lễ ngắn ngủi trước Ngọ Môn, cổng vào Hoàng thành, nơi lá cờ đỏ sao vàng tung bay. Sau khi nhận ấn hoàng đế, Trần Huy Liệu chuyển lời Hồ Chí Minh mời Bảo Đại tới Hà Nội tham gia thành lập chính phủ mới. Bảo Đại đồng ý tham dự với tư cách thường dân của nước cộng hoà non trẻ. Nói chung, bầu không khí quanh lễ tiếp nhận thoái vị có vẻ là hội hè hơn là làm người ta kinh sợ, mặc dù một số người dự cũng thấy thất vọng vì nhà vua thoái vị, dù hành động này là tự nguyện.

Không phải tất cả cận thần của Bảo Đại được đối xử lịch sự như thế. Hai nhân vật nổi bật chống đối Đảng cộng sản Đông Dương, nhà báo - nhà chính trị ôn hoà Phạm Quỳnh, thượng thư Ngô Đình Khôi, bị bắt ngay ở Huế và bị hành quyết đầu tháng Chín. Ở tỉnh Quảng Ngãi, xa hơn về phía nam, Tạ Thu Thâu một Trotskyst lão thành, một trong những người phê phán mạnh mẽ Đảng cộng sản Đông Dương, bị Việt Minh bắt và cùng chung số phận.[13]

Ngày 27-8-1945, Hồ Chí Minh họp Uỷ ban Giải Phóng Dân Tộc, chẳng bao lâu trở thành chính phủ lâm thời mới, tại Bắc Bộ phủ. Theo phong cách ăn mặc riêng, Hồ xuất hiện tại cuộc họp trong chiếc áo chàm miền núi, quần soóc nâu sờn, dép cao su, mũ cát. Vấn đề bàn trong cuộc họp là thông qua danh sách chính thức tân chính phủ và thảo luận lời văn Tuyên Ngôn Độc Lập. Hồ từng ngồi làm việc trong căn phòng nhỏ kém ánh sáng phía sau căn nhà trên phố Hàng Ngang, đánh máy nhiều lần sửa đi sửa lại bản thảo. Bây giờ ông sẵn sàng đưa nó cho các đồng chí của ông xem. Như Hồ Chí Minh nói với họ sau này, đây là “những giây phút hạnh phúc nhất” đời ông.[14]

Tại cuộc họp, Hồ đề nghị chính phủ mới nên mở rộng thành phần cơ bản bao gồm tất cả các tầng lớp nhân dân, nhân sĩ tiến bộ trong nước và chính sách của chính phủ phải nhằm đạt được sự thống nhất rộng rãi trong nhân dân. Đề xuất của ông được nhất trí thông qua, vài uỷ viên Việt Minh còn đề nghị từ chức để dành chỗ cho những đảng phái chính trị khác. Sau khi Hồ Chí Minh được bầu làm chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ông tiếp từng thành viên chính phủ mới và quyết định trụ sở là Bắc Bộ Phủ.

Hai ngày sau, đài phát thanh công bố tên những thành viên chính phủ mới. Ngoài chức vụ chủ tịch, Hồ Chí Minh kiêm Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao. Võ Nguyên Giáp giữ chức Bộ trưởng Nội Vụ, Phạm Văn Đồng giữ chức Bộ trưởng Tài Chính, Chu Văn Tấn giữ chức Bộ trưởng Quốc Phòng và Trần Huy Liệu giữ chức Bộ trưởng Bộ Tuyên Truyền. Những quan chức cao cấp khác từ Đảng Dân Chủ - một đảng bù nhìn đại diện cho trí thức tiến bộ thành lập dưới sự che chở của Mặt trận Việt Minh năm 1944, trong số những người bổ nhiệm có một người theo đạo Thiên Chúa Giáo, vài nhân sĩ không đảng phái. Khoảng một nửa bộ trưởng trong chính phủ mới là uỷ viên Mặt trận Việt Minh.[15]

Suốt mấy ngày sau đó, Hồ Chí Minh làm việc miệt mài tại một phòng nhỏ ở Bắc Bộ Phủ, chau chuốt bản Tuyên Ngôn Độc Lập dự kiến sẽ đọc vào ngày 2 tháng 9. Ông đã chuyển đến ở một biệt thự nhỏ trên phố Bonchamps, nhưng vẫn tiếp tục ăn với các đồng chí của ông ở phố Hàng Ngang. Giới lãnh đạo đảng quyết định buổi lễ sẽ tổ chức tại Quảng trường Puginier, một quảng trường rộng gần Phủ Toàn quyền. Thành phố trở lại vẻ sinh hoạt bình thường, mặc dù những cuộc biểu tình của nhân dân ủng hộ chính phủ mới diễn ra gần như suốt ngày. Cờ đỏ sao vàng bắt đầu tung bay trước nhà và cửa hàng, trong khi những đơn vị tự vệ Việt Minh canh gác công sở. Người ta gỡ bỏ những miếng che đèn đường từng sử dụng để che ánh sáng trong thời gian cuối chiến tranh, khu vực buôn bán trở lại sầm uất thay cho bóng tối. Có ít người nước ngoài trên đường phố, vì đa số người Pháp bị nhốt sau đảo chính tháng 3-1945 vẫn chưa được thả khỏi nhà tù và quân đội Tưởng Giới Thạch vẫn chưa tới. Quân đội Nhật nói chung ở ngoài mắt công chúng, mặc dù trong một vài trường hợp có sự đối đầu giữa những đơn vị Nhật và Việt Minh, nhưng tránh được ở phút cuối cùng qua những cuộc thương lượng kịp thời.

Từ mờ sáng ngày 2-9-1945, nhân dân bắt đầu tập trung đông ở quảng trường Puginier, sau này đổi tên thành Quảng trường Ba Đình. Nhiều năm sau Võ Nguyên Giáp mô tả lại không khí ngày hôm đó:

Hà Nội lộng lẫy trong rừng cờ đỏ. Một thế giới của cờ, đèn lồng và hoa. Những lá cờ đỏ tung bay phấp phới trên nóc nhà, cây và quanh hồ.

Cờ đuôi nheo treo dọc đường phố, mang khẩu hiệu bằng các thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Trung Quốc và Nga: “Việt Nam của người Việt Nam”, “Đả đảo chủ nghĩa thực dân Pháp”, “Độc lập hay là chết”, “Ủng hộ Chính phủ lâm thời”, “Ủng hộ chủ tịch Hồ Chí Minh”, “Chào mừng phái bộ Đồng minh”, v.v…

Nhà máy, cửa hàng lớn nhỏ tất cả đều đóng cửa. Chợ búa vắng tanh… Toàn thành phố, già trẻ, đàn ông và đàn bà đổ ra đường… Một dòng người đủ mầu sắc chảy tới Quảng Trường Ba Đình từ tất cả các ngả.

Công nhân trong sơ mi trắng, quần xanh đứng thành hàng ngũ, tràn đầy mạnh mẽ và tin tưởng… Hàng trăm hàng ngàn nông dân từ ngoại thành đổ vào. Tự vệ mang gậy tầm vông, kiếm hoặc hoặc mã tấu. Một số ít người thậm chí mang cả giáo cổ bằng đồng và thanh long đao lấy từ đồ thờ ở chùa chiền. Phụ nữ nông dân ăn mặc quần áo lế hội, một số mặc áo tứ thân, vấn khăn vàng, thắt lưng màu hoa lý…

Sống động nhất là thiếu nhi… Các cháu hành quân từng bước theo còi của người phụ trách, hát vang những bài ca cách mạng.[16]

Chính giữa quảng trường, đội danh dự đứng nghiêmm trong nắng hè chói trang, trước một khán đài bằng gỗ mới dựng lên hôm trước. Đây là khán đài mà chủ tịch sẽ tự giới thiệu bản thân, giới thiệu tân chính phủ và đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Khi giờ lễ đến gần, Hồ Chí Minh băn khoăn về bộ quần áo ông sẽ mặc, đề nghị các cộng sự tìm bộ quần áo thích hợp cho sự kiện này. Cuối cùng ai đấy cho ông mượn bộ quần áo ka-ki và chiếc áo vét cao cổ với đôi dép cao su trắng.

Buổi lễ dự kiến khai mạc lúc 2 giờ chiều, nhưng vì đoàn người diễu hành đổ về trên các ngả đường cho nên Hồ Chí Minh và nội các đến chậm mấy phút do đoàn xe Mỹ phải khó khăn lắm mới vượt qua được biển người. Sau khi tất cả đã lên khán đài, Võ Nguyên Giáp tân Bộ trưởng Nội Vụ, giới thiệu Hồ Chí Minh với quần chúng. Hồ Chí Minh phát biểu ngắn gọn nhưng đầy xúc động:

“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Sau đó Hồ Chí Minh miêu tả những tội ác mà chế độ thực dân Pháp đã gây ra cho Việt nam, cuối cùng người Việt nam đã phải đứng lên đánh đuổi Pháp dành lại độc lập dân tộc. Hồ Chí Minh kết luận: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Giữa bài phát biểu, Hồ đã dừng lại hỏi “Tôi nói đồng bào có nghe rõ không?” Theo lời Giáp kể, hàng triệu người đã reo lên như tiếng sấm “Có”. Buổi lễ kết thúc bằng sự giới thiệu những thành viên chính phủ. Võ Nguyên Giáp và Trần Huy Liệu tóm tắt và tuyên thệ lời thề độc lập. Sau đó mọi người rời khỏi lễ đài, đám đông giải tán, một số người phấn chấn khi phi đội máy bay Mỹ P-38S bay qua đầu. Những lễ kỷ niệm Ngày Độc Lập cũng diễn ra tại một ngôi chùa và Nhà Thờ Công Giáo. Tối hôm đó, tân chủ tịch gặp gỡ, tiếp đoàn đại diện các tỉnh.

Những công dân Pháp chứng kiến sự kiện này với vẻ lo lắng. Có khoảng 15.000 người Pháp sống ở Hà Nội lúc cuối chiến tranh và nhiều người đã phòng bị tự vũ trang để chuẩn bị cho những ngày khó khăn sắp tới. Có gần 5.000 tù nhân Pháp đang bị giam ở Hoả Lò, Patti nói, họ âm thầm chuẩn bị nổi dậy cầm vũ khí khi binh sĩ “Nước Pháp Tự do” đổ bộ vào Đông Dương.[17]

Ngày 3-9-1945, mặc bộ quân phục ka-ki đã sờn, đi đôi giầy vải xanh ông thường dùng ở Việt Bắc, chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp nội các đầu tiên tại phòng họp ở tầng dưới Bắc Bộ Phủ. Đại hội Quốc Dân tổ chức tại Tân Trào đã thông qua một loạt những biện pháp - mang tên “mười chính sách lớn” - đã được Tổng Bộ Việt Minh thảo ra trước đây. Một số điểm đề cập những hoạt động cần thiết phải tăng cường sức mạnh lực lượng vũ trang để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu trong tương lai với Pháp hoặc với lực lượng chiếm đóng Đồng minh, một số điểm khác liên quan tới tới vấn đề tạo ra một hệ thống chính trị mới, đưa những biện pháp cải thiện kinh tế quốc dân, xây dựng mối quan hệ với những nước khác trong khu vực và thế giới thế giới.[18]

Mở đầu, Hồ Chí Minh giải thích vấn đề cấp bách nhất là nạn đói khủng khiếp - đặc biệt, làm sao để giảm bớt được hậu quả nạn đói. Dù khủng hoảng có thể giảm bớt đôi chút từ đầu mùa hè do vụ lúa chiêm được mùa, nhưng tình hình tệ thêm nữa vào tháng Tám, khi nước sông Hồng gây ra lụt lội, ngập úng những cánh đồng lúa vùng trũng khắp đồng bằng sông Hồng. Sinh viên các trường Đại học Hà Nội tổ chức những đội quân hàng ngày mỗi buổi sáng dậy sớm đem chôn những xác chết chất đống trên đường phố trong 24 giờ qua. Tại cuộc họp, chính phủ mới đưa ra một loạt những biện pháp khẩn cấp chiến đấu với nạn đói, bao gồm một chiến dịch khuyến khích nhân dân tiết kiệm, giảm bớt tiêu thụ thực phẩm. Để làm gương, Hồ tuyên bố cứ mười ngày, ông nhịn ăn một ngày. Số thực phẩm tiết kiệm chia cho người nghèo. Trong những tuần lễ sau, chính phủ thông qua một số chính sách bổ xung để tiết kiệm gạo và tăng sản xuất. Đất công, chiếm hơn 20 phần trăm toàn bộ đất canh tác ở tỉnh Bắc Kỳ và Trung Kỳ, được trưng thu chia đều cho dân nghèo từ 18 tuổi trở lên. Cấm làm bún và nấu rượu, giảm thuế nông nghiệp sau đó bỏ hoàn toàn, mở các trạm tín dụng nông nghiệp tại xã cung cấp cho nông dân tín dụng dễ dàng, đất hoang ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ phải được khai phá, trồng trọt.[19]

Chính phủ cũng chú ý tới một số vấn đề khác. Một trong những lo âu đầu tiên của Hồ Chí Minh, như ông bày tỏ tại cuộc họp ngày 3 tháng 9, trình độ dân trí thấp ở Việt Nam. Theo một nguồn tài liệu, năm 1945, 90 phần trăm dân Việt Nam mù chữ, là bản cáo trạng chính sách giáo dục của Pháp trong một xã hội nơi tỷ lệ người biết đọc biết viết từng có truyền thống cao nhất ở châu Á. Bây giờ sắc lệnh ban ra đòi hỏi tất cả người Việt Nam phải biết đọc biết viết chữ quốc ngữ trong vòng một năm. Sắc lệnh mang ảnh hưởng Nho giáo mạnh mẽ viết: “Ai chưa biết đọc biết viết chữ quốc ngữ thì phải học. Vợ học chồng. Em học anh. Già học trẻ. Bố mẹ học con. Con gái và đàn bà đều phải học chăm chỉ hơn”. Các lớp học xoá nạn mù chữ được mở ra để dậy học sinh trong độ tuổi từ thiếu nhi đến người già. Dù thiếu giáo viên và cơ sở học hành (nhiều nơi chùa chiền, bệnh viện và chợ được biến thành trường học), chương trình xoá nạn mù chữ có tác dụng trông thấy: đến mùa thu năm 1946, hơn 2 triệu người Việt nam đã được xoá nạn mù chữ.[20]

Tại cuộc họp nội các, Hồ Chí Minh đưa ra vấn đề chuẩn bị tổng bầu cử để thành lập một chính phủ chính thức dựa trên tự do dân chủ. Ngày 8 tháng 9, ban hành sắc lệnh tuyên bố cuộc tổng tuyển cử bầu ra quốc hội lập hiến sẽ được tổ chức trước, sau hai tháng sẽ ban hành dự thảo hiến pháp mới của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Mọi công dân trên 18 tuổi có quyền đi bầu. Các sắc lệnh sau này tuyên bố quyền bình đẳng giữa các dân tộc và tự do tín ngưỡng. Ngày 13-10-1945, ban hành sắc lệnh tuyên bố bãi bỏ chế độ quan lại truyền thống, thành lập các uỷ ban nhân dân và hội đồng nhân dân thông qua bầu cử tại tất cả các tỉnh ở Bắc Kỳ.[21]

Chính phủ mới tập trung những nỗ lực giải quyết vấn đề kinh tế như giảm thuế, cải thiện điều kiện làm việc, chia đất cho người nghèo. Bãi bỏ các loại thuế do Pháp đặt ra: thuế đất, thuế thân - những khoản thuế này chiếm 3/4 thuế thu nhập thương niên của chính phủ - bãi bỏ thuế sản xuất muối và rượu, các loại thuế buôn bác khác cũng lập tức bị bãi bỏ, đồng thời chính thức cấm tiêu thụ thuốc phiện và lao động khổ sai. Công bố ngày làm việc tám giờ và người chủ phải cho người làm thuê biết những lý do, báo trước một thời gian cho họ trước khi bị sa thải. Ở nông thôn, việc thuế đất được lệnh cắt giảm 25 phần trăm và tất cả những món nợ lâu năm bị xoá bỏ.

Tuy nhiên, chính phủ không quốc hữu hoá cơ sở công nghiệp hoặc thương mại, không tham vọng chương trình cải cách ruộng đất bằng cách tịch thu ruộng đất của người giàu chia cho người nghèo. Lúc đó, chỉ có ruộng đất của bọn thực dân Pháp và bọn tay sai người Việt mới bị tịch thu. Trong những bài báo và phát biểu trong thời gian chiến tranh Thái Bình Dương, Hồ Chí Minh đã nói rõ, sau khi cuộc tổng khởi nghĩa thành công, xã hội Việt Nam bước vào giai đoạn đầu tiên, tức giai đoạn dân chủ nhân dân theo quá trình cách mạng của Lenin. Giai đoạn đó nổi bật là sự thành lập chính phủ mặt trận thống nhất mở rộng, đại diện cho khối đoàn kết toàn dân và những chính sách cải cách ôn hoà trong kinh tế và xã hội.

Quyết định chính phủ lâm thời thể hiện bộ mặt ôn hoà trước nhân dân Việt Nam, một nước cờ mà Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông tính toán nhằm thu hút sự ủng hộ của tất cả các tầng lớp nhân dân để tập trung vào nhiệm vụ then chốt trước sự đe doạ của chủ nghĩa đế quốc nước ngoài. Dù những nỗ lực của Hồ nhằm tránh xúc phạm những người ôn hoà, tuy nhiên chính phủ không phải lúc nào cũng kiểm soát được những phần tử quá khích ở địa phương muốn ghi điểm cá nhân hoặc thúc đẩy đấu tranh giai cấp. Trong một số trường hợp, những người giàu hoặc hoặc quan lại bị đánh, bị bắt hoặc thậm chí bị thủ tiêu. Ở một số làng ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, những hội đồng vừa được bầu ra đã tuyên bố ngang ngược bãi bỏ những phong tục lễ nghi truyền thống và tịch thu tài sản của những người giàu. Để tránh phức tạp, chính phủ cử những đảng viên chủ chốt xuống cơ sở để đảo ngược lại những biện pháp đó, làm giảm đi tinh thần hăng hái của những phần tử cách mạng quá khích.

Trong khi Hồ Chí Minh đang chau chuốt nét bút cuối cùng cho bản Tuyên Ngôn Độc lập thì những đơn vị đầu tiên quân Tưởng Giới Thạch vượt qua biên giới, đang tiến về Hà Nội. Dưới mắt nhiều người Việt Nam, quân Tưởng là một lũ khố rách áo ôm, bộ quân phục màu vàng lôi thôi, rách rưới, đồ dùng của họ treo lủng lẳng ở hai đầu đòn gánh đặt trên vai, chân sưng do bệnh phù thũng vì thiếu dinh dưỡng. Nhiều người trong số họ mang theo vợ con.

Đó không phải là đám lính thiện chiến của quân đội Quốc Dân Đảng. Vì những lý do chính trị, Tưởng Giới Thạch đã bỏ kế hoạch sử dụng đám lính thiện chiến ở tỉnh Quảng Tây của Trương Phát Khuê làm lực lượng chính chiếm đóng Đông Dương. Tưởng Giới Thạch chỉ thị Lư Hán, tư lệnh tỉnh Vân Nam, cử Quân Đoàn I xuôi sông Hồng về Hà Nội. Trong khi đó, tướng Tiêu Văn, người đỡ đầu Hồ Chí Minh một vài tháng trước đây ở Liễu Châu, chỉ huy những đơn vị tỉnh Quảng Tây của Trương Phát Khuê vượt biên giới tại Lạng Sơn. Lư Hán được bổ nhiệm làm tư lệnh lực lượng chiếm đóng, khoảng 180.000 quân, còn Tiêu Văn được cử làm cố vấn chính trị. Trong hành trang của họ có Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh và những thành viên khác phong trào dân tộc chủ nghĩa sống lưu vong nhiều năm ở nam Trung Hoa.

Ngày 9 tháng 9, bộ phận chính của quân đội tướng Lư Hán vào Hà Nội. Archimedes Patti miêu tả cảnh này:

Suốt đêm, quân Lư Hán đổ vào thành phố. Chúng tôi nghe rõ tiếng bước chân, tiếng động cơ rồi tiếng quát tháo. Sáng hôm sau, đập vào mắt chúng tôi là một cảnh tượng gây sốc thực sự. Chất lượng “quân đội” Trung Hoa biến đổi một cách thảm hại. Các đơn vị “tinh nhuệ” hôm qua đã biến thành đội quân “thổ phỉ”.

Tôi chứng kiến cảnh tượng trên khắp phố xá là cảnh hỗn loạn, lính Tàu đi lại lang thang vô mục đích. Trên các hè phồ, lề đường, vườn hoa, ngổn ngang quân lính và thân nhân của của họ, các dụng cụ gia đình lẫn lộn với quân trang quân dụng. Một số đám đang đun chè uống, xếp đồ đạc, thậm chí giặt giũ.[22]

Đối với Hồ Chí Minh, bề ngoài của đội quân này không quan trọng bằng mục đích của nó. Vẻ ngoài họ được cử đến để chấp nhận sự đầu hàng quân đội Nhật Bản, bảo vệ luật pháp, lập lại trật tự ở Đông Dương cho tới khi chính quyền dân sự mới thành lập. Nhưng chính phủ Trùng Khánh đã nhìn thấy trước chính phủ nào ở Đông Dương, Trung Hoa đóng vai trò gì tại đó sau hậu chiến? Dù tại Hội nghị Cairo năm 1943, Tưởng Giới Thạch đã hứa với tổng thống Roosevelt, Trung Hoa không có ý định chiếm Việt Nam, hình như ngay hồi ấy đã có nghi ngờ chính phủ Tưởng Giới Thạch định thao túng tình hình địa phương để duy trì ảnh hưởng ở Việt Nam. Tiếp theo chính quyền chiếm đóng Trung Hoa phản ứng như thế nào đối với những dã tâm của Pháp khôi phục sự cai trị thuộc địa ở Việt Nam dưới chính quyền của họ? Dù một số sĩ quan quân đội Trung Hoa, như tướng Trương Phát Khuê, có tư tưởng chống Pháp, nhưng những người khác có thể bị mua chuộc để tiến hành thoả hiệp với Pháp để mở rộng lợi ích của Trung Hoa. Đây là mối quan tâm Hồ Chí Minh đã bày tỏ với Patti trong cuộc gặp ngày 26-8-1945.

Thậm chí trước khi phát động Cách mạng tháng Tám, giới lãnh đạo đảng đã tính đến việc nên bàn bạc với Đồng Minh như thế nào. Tại cuộc họp Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Tân Trào giữa tháng Tám, Hồ Chí Minh đã giải thích cho các đồng chí của ông về sự phức tạp của vấn đề và chính phủ lâm