← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XII HÙM XÁM VÀ VOI RỪNG

dịch giả: lâm hoàng mạnh - nguyễn học

CHƯƠNG XII

hùm xám và voi rừng

rả lời phỏng vấn của nhà báo David Schoenbrun tờ New York Times mùa hè năm 1946, Hồ Chí Minh đã cảnh báo, nếu cuộc xung đột toàn diện nổ ra giữa Việt Nam và Pháp, Việt Minh sẽ núp vào rừng già giống con hùm xám và sau đó ra khỏi hang ổ vào ban đêm để xé con voi rừng Pháp thành từng mảnh. Điều ông nói chính là đặc tính cuộc chiến tranh du kích Đông Dương.

Hồ nói là làm. Khi Pháp mở chiến dịch càn quét ở Hà Nội và những thành phố công nghiệp khác ở Bắc Kỳ và Trung Bộ Việt Nam, Hồ và những đồng chí của ông bỏ trụ sở tạm thời đặt ở một hang động ở Hà Đông, cách Hà Nội chừng 20 km phía đông thủ đô, sau đó sơ tán đến căn cứ địa Tân Trào, giữa rừng Việt Bắc, để sẵn sàng cuộc chiến đấu lâu dài. Với sự khích lệ Hồ Chí Minh, Việt Nam đã đưa những yếu tố thích hợp mô hình chiến tranh nhân dân của Trung Quốc vào chiến lược của mình ngay từ đầu năm 1941. Ngày 22 tháng 12, chỉ ba ngày sau khi nổ súng ở thủ đô, chính phủ Việt Nam ra tuyên bố nói rằng cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn. Lời tuyên bố này báo trước kịch bản nhắm thẳng học thuyết quân sự của Mao Trạch Đông. Trong giai đoạn đầu tiên, lực lượng Việt Nam sẽ cố gắng phòng thủ để xây dựng những khu đồn trú nhỏ ở rừng núi; trong giai đoạn hai, khi sức mạnh hai bên tương đương, lực lượng cách mạng từ trong rừng núi bất ngờ tấn công vào những đồn bốt quân thù; và giai đoạn ba sẽ là tổng phản công, lúc đó Việt Minh sẽ tung ra cuộc tổng tấn công cuối cùng đẩy quân địch xuống biển.[1]

Ngay cả phải rút lui, Việt Nam đã gửi một tín hiệu rõ ràng cho Pháp biết cuộc chiến đấu này sẽ rất khốc liệt. Khi những quan chức chính phủ bỏ Hà Nội lên Tây Bắc, những đơn vị tự vệ vẫn duy trì kháng cự trên những phố hẹp của khu phố Tầu, với hơn ba mươi ngàn dân của thành phố. Tại đây họ kháng cự mãnh liệt chống những cố gắng của Pháp đánh đuổi họ. Tướng Valluy dự kiến dùng máy bay tấn công quét sạch những người phòng thủ, nhưng Morlière chọn lựa cách đánh chiếm dần từng phố để kiểm soát khu vực mà không gây đổ nát. Chiến dịch tiến hành chậm và người Pháp đã phải trả giá bằng thương vong. Mãi đến giữa tháng 1-1947, cuối cùng quân Pháp chiếm được chợ Đồng Xuân sát ngay khu phố Tầu, trong lúc đó những đơn vị Việt Minh, cùng nhiều dân thường, vượt sông Hồng rời bỏ thành phố. Ngay cả khi rời bỏ thành phố, quân đội Việt Minh viết bằng than hoặc phấn trắng lên tường Hoàng thành cổ “Chúng tôi sẽ trở về”.[2]

Trong hồi ký về cuộc rút lui này, lãnh sự Mỹ O'Sullivan báo cáo về Washington, quân đội Việt Nam chiến đấu“dũng cảm và ngoan cường chưa từng thấy”, tương tự quân đội Nhật Bản trong chiến tranh Thái Bình Dương. Ông ước tính hàng trăm người Việt Nam bị thương vong. Khoảng một trăm lính Pháp bỏ mạng và bốn mươi lăm thường dân châu Âu chết, hai trăm người mất tích. Sau khi bình định được ngoại thành, quân Pháp bắt đầu tiến vào nông thôn, họ thấy Việt Nam đã tiến hành chủ trương tiêu thổ kháng chiến, không cho kẻ thù kiếm được thực phẩm. Ở những nơi khác trong nước, những đơn vị tự vệ Việt Minh kìm chân quân Pháp trong thành phố để rút lực lượng chủ lực về nông thôn.

Hồ Chí Minh có lẽ chưa bỏ ý định tìm kiếm hoà bình. Ngay trong ngày đầu nổ súng, Việt Minh đã rải truyền đơn thông báo với “nhân dân Pháp” về nguyện vọng của chính phủ ông được sống hoà bình trong khối Liên hiệp Pháp và chiến tranh bùng nổ là do “những tên thực dân phản động đã đánh mất danh dự nước Pháp, chia rẽ hai dân tộc bằng cách khiêu chiến”. Chỉ cần Pháp công nhận Việt Nam độc lập, thống nhất lãnh thổ, sự hợp tác và hiểu biết lẫn nhau giữa hai dân tộc sẽ được vãn hồi ngay lập tức. Ngày hôm sau, đài phát thanh Việt Minh bắt đầu liên tục phát đi những lời kêu gọi nối lại thương lượng. Ngày 23 tháng 12, Hồ viết cho Marius Moutet, bộ trưởng hải ngoại và tướng Henri Leclerc, đề xuất một cuộc họp hai bên. Moutet và Leclerc vừa rời Paris tới Đông Dương thị sát tình hình theo lệnh của chính phủ Blum. Vài ngày sau, Hồ chính thức đề nghị ngừng bắn và họp hội nghị hoà bình mới ở Paris trong khuôn khổ hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 trước đây.[3]

Nhưng Pháp chưa vội kết thúc đánh nhau. Ngày 23-12, thủ tướng Blum phát biểu trước quốc hội: “Chúng ta đang phải đối mặt với việc dẹp bạo loạn. Tôi tuyên bố, những binh sĩ Pháp đang chiến đấu tại đó, kiều dân Pháp đang sinh sống và các bạn bè Pháp ở Đông Dương có thể yên tâm vào sự kiên quyết của chính phủ”. Kết thúc, Blum để ngỏ cánh cửa dàn xếp hoà bình, khẳng định trật tự phải được vãn hồi ngay: “Chúng ta sẽ khôi phục lại cuộc đàm phán bị phá vỡ để có được một nước Việt Nam tự do trong liên bang Đông Dương, tự do trong Liên hiệp Pháp. Nhưng đầu tiên, trật tự phải được khôi phục”.[4]

Marius Moutet được tờ báo Pháp Le Populaire (Dân chúng) miêu tả là “một sứ giả hoà bình”. Tuy Moutet nổi tiếng là người có thiện cảm với cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam giành độc lập, ông cũng chia sẻ nỗi bất bình của người Pháp trước cuộc tấn công bất ngờ ở Hà Nội. Ngay sau khi tới Sài Gòn vào hôm Giáng Sinh, ông tuyên bố với báo chí “trước khi có bất cứ những cuộc thương lượng nào, cần phải có một chiến thắng quân sự. Tôi rất tiếc, nhưng những gì mà Việt Minh đã làm phải bị trừng trị”. Moutet cũng chẳng đoái hoài tìm cách liên lạc với người bạn cũ Hồ Chí Minh trong Đảng Xã hội trước khi quay về Pháp đầu tháng Giêng và Moutet dành nhiều thời gian thảo luận với quan chức Pháp ở Lào và Campuchia. Về phần mình, Hồ Chí Minh đã gửi cho Moutet một bức thư ngày 3 tháng 1 với bản dự thảo ngừng bắn nối lại thương lượng, nhưng bức thư này bị chính quyền thực dân Pháp chặn và trả lại.[5]

Tướng Leclerc và Moutet tin rằng việc giáng trả mạnh mẽ của Pháp vào Việt Minh là cần thiết trước khi mở thương lượng hoà bình. Nhưng Leclerc cũng tin rằng giải pháp cuối cùng cho cuộc khủng hoảng này phải là giải pháp chính trị, việc Moutet từ chối gặp Hồ làm ông khó xử. Từ Đông Dương trở về Pháp ngày 1 tháng 1, Leclerc nhấn mạnh: “Có quá nhiều người tưởng có thể xây chiếc cầu nối giữa Việt Nam và Pháp bằng súng đạn”. Trong báo cáo gửi chính phủ, Leclerc nhấn mạnh “một giải pháp phức tạp chắc chắn hiện thực trong thời gian tới, trừ giải pháp chính trị”. Ông kết luận Pháp không thể dùng vũ lực để khuất phục hai mươi bốn triệu người với tinh thần dân tộc đang cao. Theo Leclerc, vấn đề chủ yếu làm thế nào thay thế hình thức đang tồn tại chủ nghĩa dân tộc của Việt Minh bằng những đảng phái chính trị ôn hoà hơn. Nếu vị thế quân sự của Pháp càng mạnh trên chiến trường, việc giải quyết vấn đề sẽ càng thuận lợi hơn.[6]

Do quan điểm Leclerc về tình hình nói chung hợp với quan điểm của chính Leon Blum, nên khi Leclerc về Pháp giữa tháng 1-1947, vị thủ tướng đánh tiếng đưa ông trở về Đông Dương làm Tổng tư lệnh và Cao uỷ, thay Thierry d'Argenlieu, người có quan điểm quá khích, đẩy tình hình vào ngõ cụt. Nhưng trong khi Leclerc còn cân nhắc, thủ tướng Blum bị thay thế bằng Paul Ramadier, cũng từ đảng Xã hội. Ramadier tán thành đường lối hiện thời phục hồi trật tự bằng vũ lực, đồng thời ông đồng ý xem xét việc thống nhất ba miền Việt Nam thành một quốc gia nằm trong Liên hiệp Pháp. Nhưng khi tân thủ tướng lưỡng lự tăng quân Pháp ở Đông Dương, Leclerc - nghe tướng De Gaulle khuyên - đã từ chối lời đề nghị làm Cao uỷ. Để lấp chỗ trống, Ramadier chọn Emile Bollaert, một chính trị gia có quan điểm tự do và uy tín, không thuộc bất cứ phái nào trong Quốc hội. Một nhà ngoại giao Mỹ mô tả Bollaert, “rất có năng lực và năng động nhưng ít ai biết tiếng”.[7]

Bollaert lên đường tới Đông Dương đầu tháng 3. Khi tới Sài Gòn, ông lập tức đối mặt với thách thức ngay trong nội bộ. Được d'Argenlieu ủng hộ, các quan chức thực dân địa phương ráo riết tìm cách qua mặt Việt Minh, thoả thuận với cựu hoàng Bảo Đại, lúc đó đang ở Hong Kong. Bảo Đại từ lâu đã bỏ danh xưng “Công dân Vĩnh Thụy”, vốn lười biếng và ăn chơi, Bảo Đại chẳng còn đoái hoài đến công việc quốc gia, vùi đầu trong sòng bạc và gái gú. Tuy những tiếp xúc đầu tiên của Pháp với vị cựu hoàng phì nộn này không kết quả, nhưng triển vọng sử dụng Bảo Đại được nhiều người ủng hộ, ở cả Pháp lẫn Đông Dương. Tuy vậy đối với Bollaert, kế hoạch này cũng ở thế lưỡng nan. Trong khi đó Việt Minh vẫn được sự ủng hộ của đông đảo dân chúng, và Hồ được thừa nhận như nhà lãnh đạo của dân tộc. Trước khi rời Paris, Leclerc khuyên Bollaert “nên thương lượng bằng mọi giá”.

Nhiều người thân cận Bollaert cũng tán đồng đàm phán với Việt Minh, gồm chánh văn phòng chính phủ Pierre Messmer và Paul Mus, cố vấn riêng của ông đồng thời là một học giả Đông Dương có tiếng. Tuy hơn một ngàn quân Pháp chết hoặc mất tích, nhưng tâm lý cộng đồng Pháp ở Đông Dương lúc này là cương quyết chống Việt Minh. Phương án dùng Bảo Đại là khả dĩ nhất, nhưng liệu Bảo Đại có thể là đối trọng với Hồ Chí Minh không? Trong khi vị cựu hoàng được sự ủng hộ nào đấy trong những người hoài cổ thì đa số nhân dân Việt Nam khinh bỉ ông về lối sống bê tha. Những người khác còn nghi ngờ ông không có đủ năng lực thống nhất những nhóm dân tộc chủ nghĩa cứng đầu, nhỏ nhen, manh mún.

Hồ Chí Minh vẫn cố gắng giữ mối liên lạc mỏng manh với Pháp. Ngày 23 tháng 4, Hoàng Minh Giám, một người không cộng sản, vừa được bổ nhiệm bộ trưởng Bộ ngoại giao hồi tháng 3-1947, gửi thông điệp của Hồ tới Bollaert đề xuất ngừng bắn tức khắc và mở lại thương lượng để chấm dứt xung đột. Nghi ngờ ý định kẻ thù và nghe các cố vấn của mình cam đoam tình thế quân sự bây giờ tốt đẹp, Bollaert đưa ra một loạt điều kiện thực chất đòi Việt Minh đầu hàng trước khi khôi phục hoà bình. Bollaert đưa thư cho Paul Mus. Người đã một lần gặp Hồ Chí Minh, để chuyển cho Hồ. Chiều ngày 12 tháng 5, trước tiên, Mus bí mật gặp Hoàng Minh Giám tại một địa điểm gần Hà Nội, sau đó gặp Hồ tại Thái Nguyên. Hồ nhã nhặn nghe Mus trình bày, nhưng thẳng thừng bác bỏ đòi hỏi của Pháp. Hồ nhấn mạnh: “Trong Liên hiệp Pháp không có chỗ đứng cho những kẻ hèn nhát. Nếu tôi chấp nhận những điều khoản này, tôi sẽ là người như vậy”.[8]

Thái độ khinh miệt trả lời những đề nghị của Việt Nam về thương lượng hoà bình rõ ràng làm Hồ Chí Minh thất vọng, dù ông luôn luôn bày tỏ hy vọng Pháp sẽ giảng hoà để không muốn mất thuộc địa Đông Dương. Tuy nhiên, khi đó không có sự chọn lựa nào tối hơn bằng vũ lực. Cuối tháng đó, Hồ Chí Minh lại ra lời kêu gọi mới kháng chiến toàn quốc, tuyên bố rằng Pháp không chấp nhận hoà bình.

Nhưng Hồ tiếp tục theo đuổi khả năng quốc tế giải quyết vấn đề. Hồ biết sự đối đầu giữa hai khối siêu cường trên thế giới đang tăng lên, và Moscow vẫn thể hiện sự quan tâm quá nhỏ nhoi tới cuộc chiến tranh ở Đông Dương xa xôi. Dù vậy, vẫn có cơ hội để Mỹ tham gia vai trò hữu ích giải quyết xung đột. Thực vậy, chính quyền Truman theo dõi những hành động của Pháp từ khi tái chiến ở Đông Dương với vẻ không hài lòng. Mặc dù Hồ và những đồng chí của ông không nhận thấy điều này. Ít ngày sau khi nổ súng ở Hà Nội, thứ trưởng ngoại giao Dean Acheson mời Đại sứ Pháp Henri Bonnet tới Bộ ngoại giao, cảnh báo tình hình ở Đông Dương đang xấu đi và theo quan điểm Washington, không thể giải quyết bằng vũ lực. Acheson cam đoan với Bonnet Mỹ không muốn can thiệp, nhưng sau đấy gợi ý đưa một số sĩ quan Mỹ hiểu biết tình hình đến giải quyết. Paris thẳng thừng bác bỏ đề nghị này, khẳng định rằng Pháp sẽ khôi phục trật tự trước khi liên lạc với Việt Nam.

Vài tuần sau, tướng George C. Marshall, vừa từ Trung Quốc trở về, thay James Byrnes làm ngoại trưởng. Từ tháng 12-1945, Marshall thường xuyên tới Trùng Khánh tìm cách dàn hoà giữa những phần tử dân tộc chủ nghĩa và Đảng cộng sản Trung Quốc trong chính phủ liên hiệp do Tưởng Giới Thạch cầm đầu. Bất chấp những cố gắng của ông, nội chiến vẫn nổ ra vào cuối 1946. Sau khi bao quát tình hình ở Đông Dương, Marshall gửi điện cho đại sứ Hoa Kỳ Caffery ở Paris, đây là một văn bản dài mơ hồ, tối nghĩa, một thông điệp lần đầu tiên bày tỏ chính thức quan điểm Washington về vấn đề Việt Nam kể từ khi bắt đầu xung đột Pháp-Việt. Marshall vạch rõ, Mỹ chính thức công nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, và không có ý định can thiệp vào vùng này. Marshall nói thêm “Chúng tôi không thể làm ngơ trước thực tế cả hai phía có trách nhiệm giải quyết vấn đề này và báo cáo của chúng tôi cho thấy Pháp thiếu hiểu biết đối phương (tại Sài Gòn nhiều hơn ở Paris) vẫn còn cố bám lấy mô hình và cách suy nghĩ thực dân lạc hậu”.

Nhưng Marshall lập tức tự đào hố dưới chân mình khi thừa nhận thực chất tình thế khó xử của Pháp: “Chúng ta không quên rằng Hồ có những mối quan hệ trực tiếp với cộng sản và không muốn mô hình thực dân lại được thay thế bằng một tổ chức mới do Kremlin kiểm soát”. Cuối cùng, Marshall cũng chẳng đưa được ra giải pháp nào, ngoài việc khuyên Pháp nên để ngỏ quan hệ và “rộng lượng” hơn trong việc tìm giải pháp. Sự thiếu quả quyết đáng buồn của Marshall trong chủ trương rối mù về vấn đề Đông Dương kéo dài tới khi Truman rời chức vụ.[9]

Cuối tháng 2, Marshall chỉ thị lãnh sự Mỹ James O'Sullivan ở Hà Nội bắt liên lạc với giới lãnh đạo Việt Nam nếu gặp dịp. Chẳng cần đợi lâu. Tháng 4-1947, Phạm Ngọc Thạch, người một thời cầm đầu Đội thanh niên xung phong Sài Gòn, hiện là thứ trưởng trong chính phủ Hồ Chí Minh, có quan hệ với vài thương nhân Mỹ ở Thái Lan và trung tá William Law, -trợ lý tuỳ viên quân sự tại Đại sứ quán Mỹ ở Bangkok. Sau những cuộc hội đàm không chính thức với đại tá Law, Thạch đồng ý trả lời một loạt câu hỏi bằng văn bản của Law và của đại sứ Hoa Kỳ Edwin F. Stanton. Thạch nhấn mạnh đặc tính rộng rãi, không đảng phái chính phủ Việt Nam và cam kết mục đích của chính phủ là dân tộc chứ không phải cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thạch khẳng định cương lĩnh kinh tế của chính phủ “tạo điều kiện phát triển quyền tự trị tư bản và kêu gọi tư bản nước ngoài giúp đỡ tái thiết đất nước”. Ngay sau đó, Thạch đệ trình lời kêu gọi đại diện cộng đồng doanh nhân Mỹ tại Thái Lan, đưa ra những nhượng bộ kinh tế đổi lấy các thiết bị công nghiệp một máy móc nông nghiệp cũng như các khoản vay có hoàn lại. Thạch cảnh báo rằng nếu không có dàn xếp hoà bình, Việt Nam chuẩn bị tiến hành chiến tranh du kích sáu năm. Cùng thời gian này, Hồ trả lời phỏng vấn của một nhà báo Mỹ, phủ nhận chính phủ ông theo tinh thần nguyên lý Marxist, lớn tiếng hỏi tại sao không thể có giải pháp tương tự như Philippin và Ấn Độ cho Việt Nam.[10]

Động thái của Việt Nam có ít nhiều tạo ra sự quan tâm trong hàng ngũ quan chức Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, với việc bổ nhiệm phần tử ôn hoà Hoàng Minh Giám làm Bộ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hồi tháng 3. Trong lời nhận xét gửi về Washington, đại sứ Stanton nhấn mạnh, Phạm Ngọc Thạch - được quan chức Mỹ tại Sài Gòn cuối năm 1945 xem là có thiện cảm – “một người thông minh và rất năng động”. Từ Hà Nội, O'Sullivan đề nghị cho phép ông trực tiếp gặp Thạch ở Bangkok. O'Sullivan nhận xét Hồ là người “rất quỷ quyệt”, cho rằng một cuộc nói chuyện không chính thức với Thạch ít ra cũng cung cấp những thông tin hữu ích về bản chất chính phủ Việt Nam. Marshall chấp thuận, hy vọng cuộc gặp với Thạch có thể tiết lộ phạm vi kiểm soát của thế lực cộng sản trong chính phủ Việt Nam và “mức độ phục vụ cho Moscow”. Nhưng cuộc gặp không diễn ra. Ngày 7 tháng 5, Stanton thông báo Thạch bất ngờ rời Bangkok. Hai ngày sau, Marshall chỉ thị O'Sullivan bỏ kế hoạch đi Bangkok, nói Thạch đã rời Bangkok và lo ngại Pháp phản ứng về cuộc gặp dự kiến.

Nhưng sự cố này chưa hoàn toàn chấm dứt hy vọng. Ngày 8 tháng 5, Hoàng Minh Giám gửi thông điệp chính thức yêu cầu Hoa Kỳ công nhận về mặt ngoại giao chính phủ ông, bước đi này “nâng cao uy tín và ảnh hưởng của Hoa Kỳ và thiết lập hoà bình ở Đông Nam Á”. Phạm Ngọc Thạch đưa ra thông điệp thứ hai kêu gọi giúp đỡ văn hoá, kinh tế, chính trị và đề nghị Washington làm trung gian hoà giải xung đột Pháp-Việt. Khi những sáng kiến này tới ngoại trưởng Marshall, ông đề nghị các nhà ngoại giao Hoa Kỳ ở Paris, Sài Gòn, Hà Nội đánh giá chính phủ Việt Nam và phạm vi ảnh hưởng cộng sản trong giới lãnh đạo. Ông muốn biết quan điểm thực của ông Hồ là gì? Vai trò Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt, những nhân vật hiếu chiến, trong chính quyền ra sao? Những phần tử dân tộc chủ nghĩa không cộng sản nghĩ gì về Việt Minh? Họ có biết xu hướng cộng sản của chính phủ không? Có phải họ định làm khuôn mẫu cộng sản ở Việt Nam? Cuối cùng, liệu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có thừa nhận “quyền tự do bày tỏ chính kiến một cách hợp lý” không?

Trong thư trả lời, O'Sullivan khẳng định, mặc dù những người cộng sản có ảnh hưởng đáng kể trong chính phủ, nhưng khó đưa đất nước theo con đường Liên Xô, “mặc dù có xu thế kéo về hướng này”. Ông bóng gió nói việc Hồ Chí Minh ngần ngừ không nhận mình thực sự Nguyễn Ái Quốc là dấu hiệu cho thấy Hồ nhận thức được ông cần làm việc với phương Tây. O'Sullivan kết luận, Hồ đang cố gắng tiếp nhận viện trợ bất cứ nguồn nào và sẽ lái chính sách của mình tới nơi nào giúp đỡ ông.

Những người khác nhận xét theo cách khác ít lạc quan hơn. Charles Reed miêu tả Hồ là một tay “cơ hội xảo quyệt” và “có thể dẫn đến một quốc gia cộng sản, cho dù phần đông nhân dân không mấy người quan tâm đến cộng sản là gì”. Đại sứ Hoa Kỳ tại Paris Caffery cân nhắc quan điểm của mình, cho rằng tuy nhân dân Việt Nam nói chung không ưa chủ nghĩa cộng sản, vì sự nghiệp của Hồ trong quá khứ “ít nghi ngờ là Hồ có những quan hệ mật thiết với cộng sản”.[11]

Việc Việt Minh bác bỏ những điều khoản hoà bình của Pháp làm thất vọng Bollaert, người có lẽ thật sự mong muốn dàn xếp chính trị cho cuộc xung đột, nhưng điều đó không ngăn cản ông tìm cách khác. Bộ trưởng chiến tranh Pháp Paul Coste-Floret, sau khi hoàn thành chuyến thị sát Đông Dương, nói “Không có vấn đề quân sự ở Đông Dương, vũ khí của chúng ta đem lại thành công”. Tin vào tình hình sáng sủa, Bollaert bây giờ bắt đầu nhìn Việt Minh không phải là đại diện duy nhất cho nhân dân Việt Nam mà đơn thuần chỉ là một trong những nhóm có thể tiếp xúc để tìm kiếm hoà bình. Chủ trương mới của Bollaert gặp được thuận lợi khi bối cảnh chính trị ở Pháp thay đổi, Đảng cộng sản không có chân trong chính phủ liên hiệp. Thủ tướng Ramadier lúc này cần sự ủng hộ của phái ôn hoà và bảo thủ để trụ lâu trên ghế. Một giải pháp chính trị lúc này sẽ mang tai mang tiếng dù chỉ là tạm thời, mọi con mắt bây giờ quay về tướng Valluy ở Đông Dương, người không còn tin Hồ Chí Minh muốn hoà bình và tin rằng chỉ có dùng quân sự mới giải quyết được vấn đề.

Coste-Floret đánh giá tình hình quân sự đang có lợi cho Pháp. Trên thực tế, những cố gắng của Việt Minh nhằm bảo tồn sức mạnh trong giai đoạn đầu cuộc chiến đã bị thất bại, lực lượng Việt Minh thường xuyên trong tình trạng lộn xộn khi đối mặt với quân Pháp. Đôi khi những đơn vị chủ lực tham chiến quá đông hoặc quá hung hăng dẫn đến thương vong nặng. Mặt khác, các sĩ quan chỉ huy yếu kém chiến thuật chiến tranh du kích, dẫn đến lộn xộn và nạn đào ngũ lan rộng trên chiến trường. Thêm nữa là rất thiếu vũ khí. Phần đông, quân đội Việt Nam chỉ có được vũ khí tự sản xuất ở địa phương, tịch thu được từ quân Nhật hoặc Pháp. Lãnh đạo Việt Minh cũng đánh giá quá cao sự ủng hộ từ những người giàu có ở nông thôn. Không làm được việc giảm tô, họ mất dịp may huy động sự ủng hộ của nông dân nghèo, những người đang lê chân khi được kêu gọi phụng sự chiến tranh.[12]

Tin vào thắng lợi trên chiến trường, tướng Valluy dự kiến mở cuộc tấn công lên Việt Bắc bắt Hồ Chí Minh và đánh tan lực lượng kháng chiến. Sau đó và chỉ sau đó, theo Valluy, mới thương lượng. Trong khi đó, Pháp cũng tấn công về mặt chính trị nhằm hạ bớt sự ủng hộ của dân chúng cho Việt Minh, đánh tan ý chí nóng bỏng những người Việt Nam nào muốn đuổi Pháp ra khỏi Đông Dương.

Chủ trương này của Valluy cần tăng quân số Pháp ở Đông Dương lên hơn 100.000 lính. Lúc này, cuộc xung đột ở Đông Dương được coi là chuyện vụn vặt thứ yếu ở một góc xa xôi của thế giới. Chính phủ Pháp đang bận tâm bận với cuộc nổi dậy trên Madagascar nên chỉ chấp thuận một phần yêu cầu của Valluy. Vì thế Valluy buộc phải thay đổi kế hoạch sử dụng một lực lượng nhỏ binh lính ông cho là cần thiết.

Một trong số điểm quan trọng trong chiến lược Valluy đánh giá những hoạt động của Việt Minh ở Nam Kỳ. Để đạt được mục tiêu của mình, Valluy tung gần một nửa Quân đội viễn chinh Pháp vào Nam Kỳ. Đối địch với Valluy là 18.000 quân thường trực Việt Minh dưới sự chỉ huy của Nguyễn Bình. Khắp Đông Dương, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bấy giờ chỉ có gần sáu mươi ngàn quân, chưa tính đến một lực lượng đông đảo tự vệ và du kích. Tuy thiếu vũ khí nhưng hoạt động hết sức linh động, được nhân dân địa phương ủng hộ đáng kể, các tiểu đoàn Việt Minh bây giờ né tránh những cuộc hành quân càn quét của Pháp và tiến hành tấn công chớp nhoáng kẻ thù tại những đồn bốt nhỏ theo cách họ chọn. Thành công duy nhất của Pháp trong mùa hè năm 1947 là thành công về mặt chính trị, do Nguyễn Bình sử dụng chiến thuật tàn bạo khiến nhiều đồng bào ở Nam Kỳ sợ hãi và đẩy những người cầm đầu hai giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo chạy sang phía Pháp.[13]

Trong khi đó, Bollaert muốn đưa ra một chiến dịch hoà bình. Hồ Chí Minh đã gửi một tín hiệu vào tháng 8, loại bỏ hai phần tử hiếu chiến Tôn Đức Thắng và Võ Nguyên Giáp ra khỏi chức bộ trưởng nội vụ và quốc phòng, thay bằng những phần tử ôn hoà. Nhưng Valluy mạnh mẽ phản đối đề xuất Bollaert, cả hai được triệu về Paris để tư vấn. Kết quả là thoả hiệp. Phát biểu tại Hà Nội vào tháng 9-1947, Bollaert đề nghị một nước Việt Nam thống nhất nằm trong Liên hiệp Pháp, nhưng ông không nói đến nền độc lập hoàn toàn. Ông không nhắc đến đối phương chính của ông và chỉ nói “tất cả các nhóm Việt Nam”. Theo những quan sát viên Hoa Kỳ, nhiều Pháp kiều ở Đông Dương hài lòng với bài phát biểu, nhưng người Việt Nam thì “sững sờ”. Ngày 15 tháng 9, Hoàng Minh Giám thay mặt chính phủ trả lời: “Không có tự do là không có độc lập hoàn toàn”. Ba ngày sau, Bảo Đại công khai chấp nhận đề xuất của Pháp để thay mặt nhân dân Việt Nam thương lượng. Nhưng ông cũng khăng khăng đòi độc lập và thống nhất quốc gia. Mặt trận quốc gia thống nhất vừa vội vàng thành lập gồm những đại diện của những nhóm dân tộc chủ nghĩa không cộng sản khác nhau họp ở Hong Kong cũng bác bỏ những điều kiện Bollaert đưa ra. Dân Sài Gòn đồn ầm lên là Hồ đi đêm với Bảo Đại.

Ngày 7 tháng 10 năm 1947, Pháp một cuộc tấn công chờ đợi từ lâu vào Việt Bắc. Vì buộc phải hành quân với số lính ít hơn ông trù tính trước, Valluy thay đổi kế hoạch. Thay vì bao vây toàn bộ khu vực, sau đó tấn công từ mạn bắc cũng như mạn nam, ông chọn một cuộc hành quân nhỏ nhằm chiếm một căn cứ đầu não Việt Minh, sau đó giành quyền kiểm soát toàn bộ thung lũng sông Hồng từ Hà Nội tới biên giới tại Lào Cai. Tướng Raoul Salan, phụ trách hành quân, tiên đoán phải mất ba tuần lễ để đánh bật đầu não Việt Minh.

Chiến dịch Léa, mở màn bằng việc quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Cạn, góc phía bắc của căn cứ địa Việt Minh. Khu vực này được phòng thủ mạnh bằng mìn chướng ngại vật và hầm chông bổ xung bằng địa hình hiểm trở. Valluy hy vọng chiếm sở chỉ huy đầu não Việt Minh ở giai đoạn đầu tiên của chiến dịch, sau đó mở rộng thành vòng cung, sử dụng xe bọc thép càn sang phía tây đến tận Lạng Sơn, trong lúc đó một nhóm khác từ phía bắc tràn xuống. Hai nhóm sẽ gặp nhau tại Bắc Cạn.

Quân Pháp tiến quân nhanh chóng, chiếm được căn cứ địa Việt Minh, nhưng họ không bắt được Hồ Chí Minh, lúc đó đang chủ trì một cuộc họp tại Sở chỉ huy đúng lúc Pháp tấn công. Họ hiểu ngay rằng lính dù Pháp ở khá gần, nên Hồ và những thành viên Ban chấp hành Trung ương cùng bộ tham mưu lẩn trốn ngay lập tức. Chu Văn Tấn, dân tộc Nùng, dẫn đường, họ hành quân suốt một ngày liền qua những đường mòn trơn dưới trời mưa, mỗi người khoác trên vai một túi vải nhỏ đựng các đồ cần thiết, và ngủ đêm trong rừng. Sáng hôm sau họ xuất phát để tìm trụ sở mới. Theo học giả Bernard Fall, quân Pháp tìm thấy mấu thuốc lá đang cháy dở và thư từ của Hồ Chí Minh đang đợi ký nằm trên bàn trong một căn lều.

Suốt mấy ngày sau, quân Pháp cố gắng tiêu diệt sự kháng cự khác trong vùng này, nhưng không đạt kết quả vì hiếm khi trực tiếp gặp Việt Minh, họ nhanh chóng biến mất vào rừng, sau đó bắt đầu quấy nhiễu quân Pháp tại những nơi họ muốn. Dù vậy, Salan báo cáo với cấp trên chiến dịch đã thành công, vì con đường chính tới Trung Hoa qua Cao Bằng ở biên giới phía bắc (con đường còn lại cuối cùng để Việt Minh liên lạc với thế giới bên ngoài) đã bị cắt đứt. Hồ Chí Minh bây giờ hoàn toàn bị cô lập. Tất cả những gì còn lại chỉ là “những nhóm cô lập tan tác, chỉ cần cảnh sát cũng đánh đuổi được”. Salan tuyên bố những vị trí cố thủ Việt Minh thực tế không còn tồn tại.[14]

Đó là tiên đoán sai lầm của Salan, vì thực tế cuộc chiến vừa mới bắt đầu. Tuy vậy, rõ ràng Chiến dịch Léa có được một thành công ít nhất là đẩy lùi tạm thời Việt Minh, buộc họ phải phân tán những đơn vị chủ lực và xé lẻ thành những đơn vị tuyên truyền vũ trang như nó được hình thành trước Cách mạng tháng Tám. Vài tháng sau, lãnh đạo Việt Nam cố gắng chuẩn bị con đường dài phía trước. Các chỉ huy Việt Minh bỏ lối giao chiến thông thường không thành công, theo chiến thuật chiến tranh du kích. Để tập trung sự lãnh đạo tại địa phương, Uỷ ban Hành chính Kháng chiến được thành lập ở những làng do lực lượng kháng chiến kiểm soát. Mỗi làng không những phải đảm trách phòng thủ mà còn phải cung cấp nam nữ thanh niên cho lực lượng du kích.

Trở lại Việt Bắc cuối tháng 12-1946, Hồ Chí Minh trở lại với nếp sống cũ tưởng đã kết thúc khi lên làm chủ tịch trong Cách mạng tháng Tám. Ông tới căn cứ địa cũ với một toán tám người, bao gồm cả vệ sĩ, giao liên và cấp dưỡng. Nhóm của ông dựng lều bằng tre nứa gồm hai buồng. Một buồng cho Hồ, buồng kia dùng làm chỗ ăn, họp và chỗ tạm nghỉ cho những đồng chí của ông. Để chống thú rừng, họ nuôi một con chó săn, nhưng chẳng bao lâu bị hổ ăn thịt.

Hồ và nhóm tuỳ tùng sống đơn giản. Thức ăn chỉ có chút cơm với rau rừng. Thỉnh thoảng, thêm vào bữa ăn đạm bạc là thịt băm cả xương hoặc thái mỏng trộn với ớt, muối, sả, Hồ gọi đùa là “thịt Việt Minh”. Đôi khi thiếu lương thực tất cả phải nhịn đói. Cuối cùng cả nhóm bắt đầu trồng cây lương thực, trồng rau và sắn dọc sườn đồi. Lúc này, Hồ sống trong căn nhà sàn, ban ngày ông làm việc dưới gầm sàn, ban đêm ngủ ở tầng trên tránh muỗi, thú dữ và ẩm thấp. Nơi ngủ của Hồ nằm trên sàn với cái màn và mấy bộ quần áo để sẵn. Khi có lệnh phải di chuyển, chỉ trong mấy phút tất cả đã sẵn sàng. Đến cuối thập niên, Hồ sống ít nhất 12 chỗ khác nhau để tránh mật thám Pháp. Hồ mang mấy quyển sách, tài liệu trong một cái túi vải, một cần vụ được phân công chuyên trách mang chiếc máy chữ.

Hồ luôn dành thời gian tập thể dục cả sáng lẫn chiều. Ông thích chơi bóng chuyền. Khi đội bạn lợi dụng cứ nhằm chỗ Hồ mà bỏ nhỏ thì ông thường rất khoái trá: “Các chú đánh được Bác rồi”. Khi vượt suối, luôn có người bên cạnh Hồ; tuy nhiên, theo một kẻ đào ngũ kể lại thì sức chịu đựng và sự dẻo dai của Hồ hơn đa số các đồng đội trẻ của ông. Hồ thường đùa: “Bác là máy bay bà già cổ lỗ, còn các chú là phản lực”.[15]

Cuộc sống dần dần được cải thiện, quanh nhà có vườn hoa, vườn rau, sân bóng chuyền, xà kép, xà đơn. Hồ còn mua các dụng cụ âm nhạc của đồng bào địa phương, thỉnh thoảng tổ chức những đêm liên hoan văn nghệ cho dân địa phương. Hồ giảng giải cho họ về cuộc sống dưới xuôi, phát thuốc chữa bệnh. Nhưng mùa thu 1947, Chiến dịch Léa buộc Hồ và cả toán cần vụ phải sơ tán.

Sau Chiến dịch Léa, cuộc xung đột rơi vào giai đoạn mà một nhà bình luận quân sự Pháp miêu tả là “sa lầy”. Do ít quân, Valluy đành tập trung ở khu vực châu thổ để Việt Minh có cơ hội lập khu giải phóng ở Trung Bộ kéo dài 200 dặm từ Hội An tới mũi Kê Gà (Phan Thiết), do vậy gần như chia đôi đất nước. Ở Nam Bộ, Pháp tập trung tốt hơn, trong khi những đơn vị Việt Minh cách xa trụ sở và hầu như mất liên lạc với nhau. Quân của Nguyễn Bình bị đẩy tít vào sâu đầm lầy và vùng núi. Quân Pháp tiếp tục hành quân bình định những khu vực mới chiếm đóng cô lập đối phương.

Việt Minh còn phải đương đầu với những chống đối mạnh mẽ ở phía Nam, khi một số nhóm dân tộc chủ nghĩa muốn trở thành “lực lượng thứ ba” như một sự lựa chọn giữa Việt Minh và Pháp.

Trong bối cảnh, chiến dịch Léa không “đánh giập đầu” được Việt Minh, các phần tử dân tộc chủ nghĩa quan tâm đến mặt trận chính trị và vai trò của Bảo Đại. Tháng 12-1947, cựu hoàng Bảo Đại gặp Emile Bollaert trên tuần dương hạm Pháp ở Vịnh Hạ Long, nơi Hồ Chí Minh và Thierry d'Argenlieu gặp nhau lần đầu. Nhưng cuộc hội đàm không có kết quả, vì Bollaert từ chối làm rõ những quyền gì sẽ được chuyển giao cho quốc gia Việt Nam tương lai. Cuối cuộc hội đàm, Bảo Đại miễn cưỡng ký thông cáo chung, nhưng rồi lại thôi vì thấy những phần tử cực đoan trong Mặt trận dân tộc thống nhất phản đối quá mạnh. Tháng 3-1948, Bảo Đại gặp đại diện của Mặt trận này ở Hong Kong, chủ ý thành lập chính phủ lâm thời do tướng Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng. Nguyễn Văn Xuân sinh ở Nam Bộ nhưng mang quốc tịch Pháp. Đó là mánh khoé của Bảo Đại để tăng vị thế mặc cả với Pháp trong tương lai. Sau đôi chút ngần ngừ, Bollaert đồng ý công nhận chính phủ lâm thời Bảo Đại là đối tác thương lượng.

Tháng 6, cuộc hội đàm nối lại tại Vịnh Hạ Long, cuối cùng cả hai bên cũng đạt được một thoả thuận thành lập Quốc gia Liên hiệp Việt Nam mới dựa trên nguyên tắc độc lập của Việt Nam và thống nhất nằm trong Liên hiệp Pháp. Tuy nhiên, ý nghĩa chính xác của từ “độc lập” và quyền hạn của quốc gia này cũng không được xác định. Thêm nữa, không rõ việc thành lập chính phủ không cộng sản có thể dẫn đến chấm dứt xung đột với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hay không. Giải pháp Đông Dương hình như vẫn còn mờ mịt và xa vời.

Đối với Pháp, động cơ chủ yếu tiến hành thương lượng với Bảo Đại là nhử Hoa Kỳ cung cấp viện trợ quân sự và kinh tế cho cuộc chiến chống Việt Minh. Mặc dù không hài lòng với cách giải quyết mâu thuẫn của Pháp, Hoa Kỳ cũng không có nhiều lựa chọn trước sự đe doạ bành trướng của cộng sản Trung Quốc và quan hệ càng ngày càng xấu đi với Moscow.

Theo Pháp, thái độ Washington theo chiều hướng thuận lợi cho Pháp. Dù chính quyền Truman không hài lòng Pháp thất bại giải quyết vấn đề Đông Dương, nhưng Hoa Kỳ ngày càng lo lắng đe doạ của cộng sản châu Á, mối lo lắng này do không những chiến thắng của cộng sản ở bắc Trung Hoa mà còn do mối quan hệ với Moscow xấu đi. Mùa hè năm 1948, Ngoại trưởng George Marshall chỉ thị quan chức ngoại giao Hoa Kỳ ở châu Á làm tất cả những gì có thể để vực “những nhóm dân tộc chủ nghĩa thực chất” ở Đông Dương để làm suy yếu lực lượng cộng sản.

Những quan chức Hoa Kỳ không ưa Bảo Đại (phần đông nhìn Bảo Đại như một tay ăn chơi đàng điếm, không có tinh thần đối đầu chính trị), nhưng họ cũng chúc mừng Hiệp định Vịnh Hạ Long coi đây là “một bước tiến”. Khi thương lượng tiến triển chậm, Hoa Kỳ cảnh báo Paris họ sẽ phải lựa chọn giữa việc chấp nhận thống nhất và độc lập thật sự cho nhân dân Việt Nam nằm trong Liên hiệp Pháp hoặc mất hết Đông Dương. Nếu Pháp không cam kết dứt khoát, Washington có thể sẽ xét lại chính sách viện trợ kinh tế hiện thời trực tiếp cho Pháp ở Đông Dương.

Trong bối cảnh ảm đạm, tháng 1-1949 cuối cùng Pháp đành phải chấp nhận đòi hỏi của Bảo Đại là thuộc địa Nam Kỳ phải nằm trong Quốc gia Liên hiệp Việt Nam. Sự nhượng bộ đó phá vỡ bế tắc, ngày 9 tháng 3 năm 1949, lễ ký tổ chức tại điện Elysée, Paris, đại diện hai bên ký một hiệp định, Pháp công nhận nền độc lập của Việt Nam và thống nhất lãnh thổ nằm trong Liên hiệp Pháp, trình Quốc hội Pháp thông qua chính thức. Quốc gia mới sẽ có ngoại giao, tài chính và quân đội riêng. Chỉ còn những trở ngại cho nền độc lập là những hạn chế do những thành viên trong Liên hiệp Pháp áp đặt và cuộc chiến hiện tại ở Đông Dương. Những hạn chế này thực ra quá lớn.

Tháng 1-1948, Ban thường vụ Đảng cộng sản Đông Dương, tin tưởng tình thế đã thay đổi có lợi cho cách mạng, chính thức ra lệnh kết thúc giai đoạn đầu tiên phòng ngự chuyển sang giai đoạn thứ hai là cầm cự. Lực lượng Việt Minh bây giờ bắt đầu khởi xướng chiến đấu với kẻ thù. Lãnh đạo Đảng cho rằng cần phải huy động nhân dân Lào, Cambodia vào cuộc chiến để tích cực đóng góp cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Bằng cách mở rộng chiến trường Đông Dương, những nhà chiến lược Việt Minh hy vọng sẽ phân tán quân Pháp, khiến chúng yếu đi khi bị tấn công. Theo một tài liệu của Đảng tháng 8-1948, nếu sông Rhine được coi là tuyến đầu phòng thủ nước Anh trong Thế chiến II, thì sông Mekong cũng tương tự đối với Việt Nam. Như Trường Chinh viết trong một bài báo năm 1947: “Nếu địch đánh phía trên, ta sẽ đánh chúng từ phía dưới. Nếu chúng đánh ở miền Bắc, ta sẽ đáp trả ở Trung Kỳ hoặc Nam Kỳ, hoặc Lào, Cambodia. Nếu địch thò chân vào căn cứ, ta sẽ đánh vào thắt lưng và hậu phương chúng, cắt chân chúng và phá huỷ đường xá”.[16]

Đảng đã hoạt động tích cực ở hai nước láng giềng Lào và Campuchia từ 1935, khi Đảng cộng sản Đông Dương họp Đại hội đảng toàn quốc lần thứ nhất ở Macao - đáp ứng yêu cầu Moscow rằng cách mạng ở ba nước Đông Dương phải liên kết chặt chẽ với nhau - và kêu gọi thành lập Liên bang Đông Dương tương lai dưới sự dẫn dắt của Việt Nam tương tự như Liên bang Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô viết. Nhưng nỗ lực xây dựng những chi bộ Đảng cộng sản Đông Dương ở công nhân thành thị (nhiều người trong số này gốc Việt Nam hoặc Trung Hoa) ở hai nước này chỉ thu được kết quả nhỏ nhoi tính đến trước Thế chiên II, khi lực lượng dân tộc chủ nghĩa địa phương thành lập những tổ chức mới Lào Issara và Khmer Issarak - thì mới thúc đẩy cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Khi xung đột Pháp-Việt xảy ra đầu năm 1947, những cán bộ đảng ở Lào và Campuchia được lệnh liên lạc với những tổ chức này, đặt họ dưới sự chỉ đạo của Việt Nam. Các cán bộ được hướng dẫn cẩn thận, tránh hạ thấp trong quan hệ với dân tộc Lào, Khmer và tránh để họ nhận thấy dấu hiệu sự thống trị Việt Nam.[17]

Chỉ có đám mây đen che phủ bầu trời là nguy cơ Hoa Kỳ can thiệp vào cuộc xung đột Đông Dương. Dù Hoa Kỳ từ chối xem xét đề nghị viện trợ trực tiếp cho tới khi nào Paris chính thức phê chuẩn Hiệp định Elysée, nhưng áp lực của Hoa Kỳ đối với cuộc chiến ngày một tăng. Nếu điều này xảy ra, Việt Minh cần người đỡ đầu hùng mạnh. Moscow hình như bàng quan với Việt Minh, Hồ và những đồng chí của ông chỉ còn một lựa chọn, quay sang Trung Quốc.

Từ khi kết thúc Thế chiến II, lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương ít có liên lạc với Đảng cộng sản Trung Quốc. Mùa xuân năm 1947, một đường liên lạc vô tuyến được thành lập nối với trụ sở Đảng cộng sản Trung Quốc ở Diên An, Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh trao đổi tin tức giữa hai đảng và tìm cách giúp đỡ lẫn nhau. Mối liên lạc cũng diễn ra giữa những đơn vị Việt Minh và những phần tử Đảng cộng sản Trung Quốc rải rác hoạt động ở các tỉnh sát biên giới, đôi khi cả hai bên phối hợp chung chống lại Pháp. Theo nguồn tin từ phía Pháp, một lúc nào đó năm 1946 những người cộng sản dọc biên giới đã thành lập những đơn vị hỗn hợp Trung-Việt gọi là Trung đoàn Độc Lập tiến hành chiến tranh du kích chống Pháp tại vùng này. Nhóm này hoạt động chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu số Nùng và Thổ ở cả hai bên biên giới. Tuy nhiên, lúc đầu, lãnh đạo Việt Minh chủ trương giữ mối quan hệ hạn chế để tránh gây phức tạp trong mối quan hệ của họ với những phần tử dân tộc chủ nghĩa địa phương.[18]

Khi nội chiến Trung Hoa bắt đầu 1948, Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc hoạt động mạnh hơn dọc biên giới và tăng cường hợp tác với những đơn vị Việt Minh. Việc cộng sản Trung Quốc tràn xuống nam Trung Hoa khiến Pháp bối rối, tháng 3, tướng Salan, thay thế tướng Valluy làm tư lệnh Quân đội viễn chinh Pháp, đề nghị hành động mạnh mẽ khôi phục kiểm soát của Pháp ở vùng biên giới trước thắng lợi của lực lượng Cộng sản Trung Hoa.

Để thực hiện những chiến dịch mới đánh vào Việt Bắc, Salan đòi tăng quân. Salan đã không tiếc lời chỉ trích chính phủ thờ ơ. Ngay lập tức tháng 4-1948, lấy cớ Salan còn trẻ và thiếu kinh nghiệm quân sự, Paris đã cử tướng Blaizot sang thay. Khi tới Đông Dương, Blaizot đề xuất rút lui chiến thuật khỏi biên giới, củng cố quân Pháp ở châu thổ sông Hồng nhằm chuẩn bị cho một tấn công lớn vào Việt Bắc. Cao uỷ Léon Pignon (Bollaert cũng bị thay) đồng ý, nhưng không mấy tin vào kế hoạch tấn công quân sự của Blaizot.

Để hoà giải mâu thuẫn, Paris cử tướng Revers đi thị sát vào tháng 5-1949. Revers đả kích chiến lược hiện thời cả về mặt chính trị lẫn quân sự, không tin tưởng gì chính phủ tham nhũng của Bảo Đại, đề nghị đặt chức Cao uỷ nắm cả quân sự lẫn chính trị. Nhưng ông cũng khá bi quan về giải pháp quân sự, cho rằng cách tốt nhất để cải thiện tình hình là thương lượng. Revers gợi ý quân Pháp củng cố vùng Bắc Bộ cho đến khi thuyết phục được Hoa Kỳ đưa quân tham chiến trực tiếp. Về chính sách, biên giới cần phải được giữ, nhưng quân Pháp không đủ sức giữ nổi toàn bộ. Tạm thời, Revers khuyên nên phòng thủ biên giới đoạn từ Móng Cái đến Thất Khê. Các chỗ biên giới còn lại thì rút hết.

Do quân Pháp suy yếu và những đơn vị Giải phóng quân Trung Quốc đầu tiên tiến sát biên giới, viễn cảnh Việt Nam bắt đầu cải thiện. Đầu năm 1949, du kích Việt Minh tấn công dọc vùng biên giới. Tình báo Pháp báo cáo những cuộc hành quân này đều có sự phối hợp với quân đội Trung Quốc phía bắc biên giới. Bản báo cáo khẳng định, cuối tháng 3, những đơn vị Giải phóng quân Trung Quốc chiếm thị trấn Móng Cái, sau đó rút lui về bên kia biên giới. Có tin vào tháng 4, Võ Nguyên Giáp đã ký một thoả thuận tạm thời với đại diện cộng sản Trung Quốc tại Tĩnh Tây kêu gọi cộng tác và liên kết quân đội hai nước ở vùng biên giới. Theo nguồn tin ngoại giao Hoa Kỳ, cũng tháng đó đài phát thanh Việt Minh tuyên bố, những đơn vị Giải phóng quân Trung Quốc đã tới vùng biên giới và đang có sự “giúp đỡ quan trọng” cho Việt Minh.[19]

Mùa xuân năm 1949, quân đội Cộng sản Trung Quốc vượt sông Dương Tử tiếm vào nam Trung Hoa, chuẩn bị thành lập một chính quyền mới ở Bắc Kinh. Tưởng Giới Thạch chuẩn bị sơ tán chính phủ ông sang đảo Đài Loan. Lãnh đạo Việt Minh hy vọng một nước Trung Quốc anh em ở biên giới bắc Đông Dương sẽ tạo ra sự lạc quan về một cuộc tấn công chờ từ lâu nằm trong tầm tay. Tình báo Pháp báo cáo, có một cuộc họp lớn của giới lãnh đạo Việt Minh, có Hồ Chí Minh tham dự, tổ chức vào tháng 4 gần Vinh để đánh giá tình hình; Hồ tuyên bố, mặc dù Pháp tăng quân có tạo ra vấn đề, nhưng có thể tổng tấn công với sự giúp đỡ của Trung Quốc. Để chuẩn bị cho tình huống này, cuộc họp quyết định chuẩn bị mở một chiến tuyến dọc biên giới, tạo thuận lợi tiếp xúc với Giải phóng quân Trung Quốc.[20]

Tất cả điều này, tất nhiên, là tin tức tốt cho Việt Minh. Nhưng Hồ Chí Minh rõ ràng ý thức được bất kỳ một dự dính líu của Việt Minh với cộng sản Trung Hoa có thể đầu độc mối quan hệ những người Việt Nam ôn hoà và tạo cớ để Hoa Kỳ nhúng tay vào cuộc chiến với Pháp. Tránh bị ngờ vực đó, ông thường xuyên phủ nhận chính phủ ông có liên hệ với chính quyền mới ở Trung Hoa. Tháng 3-1949, ông phủ nhận đã có một thoả thuận với Trung Quốc chỉ là “tin đồn của bọn thực dân”. Tháng sau, ông nói với một nhà báo Mỹ trong một cuộc phỏng vấn ở Việt Bắc, độc lập sẽ đến qua những nỗ lực của bản thân Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và gạ bỏ lời cáo buộc “cộng sản thống trị Việt Minh” coi đó là “trò tuyên truyền của Pháp”. Tháng 8-1949, ông thú nhận có một số tươmg đồng giữa “nền dân chủ mới” của Mao Trạch Đông và những chính sách của chính phủ ông, nhưng “Nền dân chủ mới Trung Quốc là của Trung Quốc, của chúng tôi là Việt Nam”.[21]

Việc Pháp công nhận Quốc gia Liên hiệp của Bảo Đại là chính phủ hợp pháp duy nhất ở Việt Nam cũng gây thêm thách thức mới. Bởi vì việc này có thể làm Hoa Kỳ hết nghi ngờ những ý định của Pháp, đẩy Hoa Kỳ trực tiếp nhảy vào cuộc chiến tranh Pháp-Việt. Tháng 6-1949, trong một nỗ lực gây ảnh hưởng đến những sự kiện ở Paris, trả lời phỏng vấn của một nhà báo Indonesia, Hồ nói, Việt Minh muốn thương lượng với Pháp về điều kiện độc lập dân tộc và thống nhất. Nhưng thắng lợi cuối cùng của cộng sản Trung Hoa mùa hè năm đó chắc chắn thuyết phục nhiều người trong giới lãnh đạo đảng thắng lợi hoàn toàn chỉ đạt được bằng quân sự, do vậy cũng chẳng cần tìm cách thương lượng. Ngày 9 tháng 7, Phạm Ngọc Thạch, bấy giờ là đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Nam Bộ, vạch mặt Bảo Đại là “bù nhìn trong tay bọn can thiệp nước ngoài” với nhà báo Pháp, những thắng lợi mới đây của quân đội Trung Quốc báo trước kết thúc thời gian khó khăn của Việt Minh. Cuối tháng đó, tình báo Pháp báo cáo, Võ Nguyên Giáp ra lệnh chuẩn bị chuyển sang giai đoạn cuối cùng: Tổng tấn công.[22]

Giữa tháng 8, chính phủ họp bí mật quyết định chính thức yêu cầu chính phủ mới của Trung Quốc viện trợ để chống Pháp. Hồ Chí Minh cử hai đại diện đến Bắc Kinh chúc mừng Mao Trạch Đông chiến thắng Tưởng Giới Thạch. Hồ tuyên bố, thắng lợi đó khuyến khích những dân tộc châu Á khác và đặc biệt nhân dân Việt Nam cố gắng tự giải phóng bản thân khỏi sự áp bức của chế độ thuộc địa. Ngay sau đó, Hồ quyết định đi thăm Trung Hoa thắt chặt mối quan hệ của ông với những nhà lãnh đạo mới ở Bắc Kinh.[23]

Hai đại biểu Việt Nam đến Bắc Kinh giữa tháng 10, hội ý với những quan chức Trung Quốc. Họ tới đúng thời điểm tế nhị. Chính phủ mới vừa được thành lập tại cuộc mít tinh quần chúng Quảng trường Thiên An Môn ngày 1 tháng 10 và sẽ có vai trò trên trường thế giới. Dù Mao Trạch Đông tuyên bố, nước Trung Hoa mới “sẽ nghiêng về một phía” trong quan hệ với Liên Xô, nhưng độ nghiêng về Moscow vẫn chưa được xác định, khi cuộc gặp trực tiếp giữa Stalin và Mao vẫn chưa diễn ra. Trong khi quan hệ với Hoa Kỳ căng thẳng trong những tháng gần đây, những đại diện ngoại giao Hoa Kỳ còn lại ở Trung Hoa, một số quan chức ở Washington vẫn còn hy vọng - nếu không phải do Bắc Kinh - sự rạn vỡ ngoại giao có thể không xảy ra.

Chính phủ Trung Hoa mới lần đầu tiên công khai thái độ đối với cuộc chiến ở Đông Dương vào tháng 11-1949, khi Lưu Thiếu Kỳ - một người quen của Hồ từ những ngày ở Quảng Châu bây giờ đứng thứ hai sau Mao Trạch Đông trong hàng ngũ Đảng - có bài phát biểu quan trọng tại Hội nghị Liên hiệp Công đoàn thế giới ở Bắc Kinh. Trong bài phát biểu dài, Lưu Thiếu Kỳ tuyên bố chính phủ Trung Hoa sẽ tích cực giúp đỡ những phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á. Ông đặc biệt kể đến cuộc đấu tranh ở Đông Dương và ở Malaysia, nơi những du kích cộng sản kháng chiến chống lại chính quyền thuộc địa Anh. Lần phát biểu thứ hai cuối tháng đó, Lưu Thiếu Kỳ kêu gọi nhân dân Trung Hoa tích cực ủng hộ các dân tộc bị áp bức tại các nước thuộc địa châu Á và châu Úc. Lúc đó, tất cả những chính phủ cộng sản khác trên thế giới công nhận về mặt ngoại giao chính phủ mới ở Bắc Kinh. Tháng 10, một bài báo của Trường Chinh đăng trên báo Sự thật (của Đảng cộng sản Đông Dương) chúc mừng chính phủ mới của Mao Trạch Đông. Trường Chinh tuyên bố thắng lợi của cộng sản Trung Hoa là thắng lợi của tất cả các dân tộc dân chủ và yêu chuộng hoà bình trên thế giới, đặc biệt của những dân tộc thuộc địa đang chiến đấu chống lại những thế lực chủ nghĩa đế quốc toàn cầu. Ngày 25-11-1950, Bắc Kinh đáp lại bằng một bài ngắn tuyên bố xúc tích rằng Trung Quốc và Việt Nam “cùng chung một chiến hào trong đội tiên phong đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc”.[24]

Tháng 12-1949, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà họp hội nghị công đoàn toàn quốc lần đầu tiên ở Việt Bắc. Tại gian hội nghị, treo chân dung cỡ lớn Stalin, Mao, và Hồ Chí Minh, hai trăm đại biểu lắng nghe Trường Chinh công bố sự liên kết tư tưởng và chính trị của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với chính quyền mới ở Trung Hoa. Trong một bức thư đọc to tại hội nghị, Hồ Chí Minh chỉ rõ giai cấp công nhân phải là lực lượng lãnh đạo dân tộc. Nghị quyết Hội nghị chúc mừng nhân dân Trung Hoa, thắng lợi của nó “làm thay đổi cán cân lực lượng dân chủ”.[25]

Giữa tháng 12, Mao Trạch Đông đi Moscow đặt mối quan hệ với Liên Xô. Có lẽ không đủ thời gian để giới lãnh đạo Trung Quốc đáp lại đề nghị của Việt Minh trước khi Mao lên đường tới Liên Xô, nhưng vào giữa tháng 12, Lưu Thiếu Kỳ nói với La Quý Ba, sĩ quan trong Bộ Tổng tham mưu Giải phóng quân Trung Quốc, ông ta sẽ được cử tới Đông Dương gặp Hồ Chí Minh và những quan chức Việt Nam khác. Lưu Thiếu Kỳ giải thích, La Quý Ba có ba việc: cám ơn Việt Nam đã giúp đỡ trong thời gian nội chiến Trung Hoa; khôi phục liên lạc bình thường giữa hai đảng; và thu nhận tin tức tình hình Đông Dương. Sau ba tháng ở Việt Nam, La Quý Ba được lệnh trở về Trung Quốc báo cáo những phát hiện của mình.[26]

Ngày 24 tháng 12, một tuần sau khi Mao đi Liên Xô, Lưu Thiếu Kỳ họp Bộ Chính trị để phân tích tình hình Đông Dương, hoạch định chính sách. Bất kỳ sự giúp đỡ nào cho Việt Minh sẽ không phải là không trả giá, vì chính phủ Pháp vẫn chưa quyết định có công nhận về mặt ngoại giao nước Trung Hoa mới và sẽ bị xúc phạm nếu Bắc Kinh công nhận Việt Minh. Ngày hôm sau, thay mặt Mao, Lưu Thiếu Kỳ thông báo cho ban lãnh đạo Việt Nam bằng điện tín, chính phủ Trung Hoa chuẩn bị gửi một đoàn cán bộ giúp đỡ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ông cũng mời Việt Nam cử đoàn đại biểu chính thức đến Bắc Kinh thảo luận vấn đề này.

Vài ngày sau, Lưu Thiếu Kỳ nhận được hồi âm từ Đông Dương nhận lời mời. Hồ Chí Minh bàn bạc tình hình với nội các giữa tháng 12, kết luận thắng lợi của Mao mở ra triển vọng sáng sủa cho cách mạng Việt Nam. So sánh thắng lợi của cộng sản trên đại lục Trung Hoa đối với bàn cờ trong đó “quân đỏ” đã chiến thắng thuyết phục, Hồ tiên đoán nước Trung Hoa mới sẽ có giúp đỡ đáng kể cho Việt Minh và kêu gọi tăng cường chuẩn bị cuộc tổng tấn công sắp tới.

Lúc này, những quan chức Bắc Kinh nhận được bức thư của Việt Nam, cho biết một đoàn đại biểu những quan chức Việt Nam đã rời Việt Nam đi bộ tới Trung Quốc. Mặc dù Bắc Kinh được thông báo trưởng đoàn là Cục trưởng hậu cần thuộc Bộ tham mưu Trần Đăng Ninh, thực chất Hồ chính là người dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Để tránh thu hút chú ý của lực lượng an ninh Pháp, mọi người trong đoàn của Hồ phải giữ bí mật; trên thực tế, chỉ hai thành viên trong toán biết được sự có mặt của ông. Sau khi rời căn cứ Việt Minh ở tỉnh Tuyên Quang ngày 20 tháng 12, toán đi bộ vượt biên giới. Hồ mặc bộ quần áo kiểu Tôn Dật Tiên bằng ka-ki quen thuộc, mang bí danh Ding. Ngày 16 tháng 1 năm 1950, đoàn đến Tĩnh Tây. Được một Giải phóng quân Trung Quốc hộ tống, họ tiếp tục tới Nam Ninh, tại đây đoàn gặp quan chức Trung Quốc và được thông báo, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa vừa quyết định công nhận về mặt ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tuyên bố này của Trung Quốc vào ngày 18 tháng 1, bốn ngày sau khi nguồn Việt Minh ở Bangkok tuyên bố Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là chính phủ hợp pháp duy nhất ở Việt Nam. Sau khi nghỉ ngơi, Hồ và các đồng chí của ông lên tầu hoả đến thành phố cảng Vũ Hán trên sông Dương Tử.[27]

Vài ngày sau, đoàn đại biểu tới Bắc Kinh, tại đây Hồ gặp đồng chí cũ Hoàng Văn Hoan, người từ châu Âu tới quá muộn nên không dự Hội nghị Công đoàn thế giới tháng 11. Trung Quốc cố gắng giữ kín chuyến đi của phái đoàn Việt Nam, nhưng tình báo phương Tây vẫn biết. Tin này nhanh chóng xuất hiện trên trong giới thạo tin phương Tây. Lưu Thiếu Kỳ cử tướng Chu Đức đứng đầu phái đoàn hội đàm với Hồ Chí Minh, trong đó vấn đề quân sự chắc chắn sẽ đem ra bàn. Chu Đức là cánh tay phải của Mao, bây giờ phó chủ tịch nước kiêm Tư lệnh Giải phóng quân Trung Quốc. đồng thời Lưu Thiếu Kỳ thông báo cho Mao Trạch Đông ở Moscow về chuyến đi của Hồ. Mao điện trả lời, đề nghị Lưu Thiếu Kỳ chuyển lời chào nồng nhiệt của ông tới Hồ Chí Minh và chúc mừng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào phe xã hội chủ nghĩa.

Tại Bắc Kinh, Hồ sống ở Trung Nam Hải, trong khu biệt thự xa hoa trong phía Tây của Hoàng cung nơi Mao Trạch Đông sống. Một số nhân vật Bộ Chính trị Đảng cộng sản Trung Quốc cũng sống ở Trung Nam Hải. Lưu Thiếu Kỳ chính thức thông báo cho Hồ Chí Minh biết, Trung Quốc quyết định công nhận về mặt ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhấn mạnh, giới lãnh đạo Trung Quốc cũng biết sẽ phải trả giá việc này trong quan hệ với Pháp. Tại bữa tiệc chiêu đãi đoàn, Lưu Thiếu Kỳ đề nghị đại sứ Liên Xô Roshin, Hồ Chí Minh muốn tới Moscow với tư cách cá nhân để hội đàm với Stalin và trình bày với Stalin tình hình hiện tại ở Đông Dương. Stalin chấp thuận bằng điện báo, Hồ và Trần Đăng Ninh cùng Chu Ân Lai rời Bắc Kinh lên đường tới Moscow ngày 3 tháng 2. Hoàng Văn Hoan ở lại Bắc Kinh lo chuẩn bị mở Đại sứ quán Việt Nam.[28]

Sau khi Thế chiên II kết thúc, sự quan tâm của Liên Xô đến vận mệnh cách mạng Việt Nam xuống tới mức thấp nhất. Trong một bài phát biểu nổi tiếng tháng 9-1947, Andrey Zhdanov - nhân vật đứng sau Stalin - tuyên bố Liên Xô ủng hộ cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa bị áp bức chống lại bọn thực dân đế quốc, ngụ ý Liên Xô ủng hộ những lực lượng dân tộc chủ nghĩa tư sản chiến đấu giành độc lập ở những nước thuộc địa. Nhưng đầu năm 1948, chính sách Liên Xô thay đổi hẳn, tỏ ra cực đoan hơn, khi những Đảng cộng sản ở châu Á được chỉ thị phải huỷ bỏ liên minh tạm thời với những tổ chức dân tộc chủ nghĩa và tự giành chính quyền. Chính sách đó, có lẽ được truyền đạt tại hội nghị thanh niên thế giới họp ở Calcutta, thật là một thảm hoạ, tại Đông Ấn Độ (thuộc Hà Lan) cuộc nổi