CHƯƠNG XIII ĐỊA DANH MANG TÊN ĐIỆN BIÊN PHỦ
dịch giả: lâm hoàng mạnh - nguyễn học
CHƯƠNG XIII
địa danh mang tên điện biên phủ
ự đoán Hồ Chí Minh sẽ về thủ đô ăn Tết năm 1951 quả là ngây thơ. Mặc dù trong giai đoạn khởi đầu, cuộc tấn công của Việt Minh đã bắt đầu một cách đầy hứa hẹn - với việc các đơn vị Việt Minh từ các cánh rừng dưới chân núi Tam Đảo tràn ra trong một cuộc tấn công theo kiểu “biển người” của Trung Quốc nhằm vào các vị trí của đối phương tại Vĩnh Yên - các chỉ huy của họ đã đánh giá thấp quyết tâm của tướng Jean De Lattre de Tassigny mới đến Đông Dương ngày 19-12-1950 với tư cách là Cao uỷ mới và Tổng Tư lệnh các Lực lượng viễn chinh Pháp (FEF) tại Đông Dương. De Lattre đã chứng tỏ một đối thủ đáng gờm đối với Võ Nguyên Giáp. Là một anh hùng chiến tranh, một con người vô cùng tự tin và có hàm quân sự cao nhất, De Lattre đã hành động ngay lập tức củng cố vị thế quân Pháp. Để nâng cao tinh thần binh lính, ông huỷ bỏ lệnh của người tiền nhiệm sơ tán nhân dân Pháp khỏi Hà Nội. Để bẻ gẫy cuộc tấn công của Việt Minh, ông huy động lực lượng dự bị chiến lược từ các nơi khác, đồng thời ra lệnh cho máy bay Pháp sử dụng bom napalm mới nhận được từ Hoa Kỳ.
Kết quả thật kinh ngạc. Binh lính Việt Minh chưa từng gặp phải tác động của bom khí cháy, tháo chạy tán loạn và thị xã Vĩnh Yên vẫn nằm trong quyền kiểm soát của người Pháp. Một người tham gia lực lượng tấn công sau này viết:
“Đơn vị của chúng tôi tấn công từ buổi sáng. Từ xa, ba con chim én hiện ra to dần. Đó là những chiếc máy bay. Chúng bổ nhào và địa ngục mở ra ngay trước mắt tôi. Địa ngục trông giống như một chiếc công-te-nơ chứa đầy những quả trứng khổng lồ rơi xuống từ chiếc máy bay đầu tiên, rồi từ chiếc thứ hai rơi xuống ngay bên phải tôi… Một quầng lửa dữ dội lan ra tới hàng trăm mét, gieo rắc kinh hoàng trong binh lính. Đó là bom napalm, đám cháy từ trên trời rơi xuống.
Một chiếc máy bay khác lại đến và các đám cháy mới lại bùng lên. Bom rơi phía sau chúng tôi và tôi cảm thấy hơi lửa đang lan toả khắp người. Mọi người tháo chạy và tôi không thể nào cản họ lại được. Không có cách nào sống được dưới quầng lửa đang hoành hành và thiêu rụi mọi thứ trên đường đi của nó”.[1]
Theo một báo cáo tình báo của Mỹ, khoảng từ 3.500 đến 4.000 lính trong tổng số 10.000 lính tham gia cuộc tấn công của Việt Minh đã bị thương. Hơn 400 lính Pháp chết và 1.200 bị thương. Các cuộc tiến công sau đó vào Mạo Khê và các cứ điểm dọc sông Đáy ít thành công hơn và cuối cùng, sau khi chịu nhiều thương vong, họ phải rút lên núi. Khi mối đe doạ đối với Hà Nội tạm thời dịu xuống, De Lattre thú nhận, quyết định huỷ bỏ lệnh sơ tán của ông chỉ là “tiếng còi trong bóng đêm” và là một cuộc trình diễn trên sân khấu nhằm khôi phục niềm tin của công chúng.[2]
Không những không mở được đường tiến về Hà Nội, cuộc tiến công lại là một thất bại của các lực lượng Việt Minh và thực sự là một thất bại cá nhân đáng xấu hổ của Võ Nguyên Giáp - nhà chiến lược thượng hạng của Hồ Chí Minh. Mấy tuần sau đó, Bộ Tổng tham mưu bắt đầu suy tính lại cách đánh của mình. Tại một cuộc họp của các cán bộ cao cấp trong Đảng tổ chức giữa tháng Tư, Hồ Chí Minh kêu gọi tự kiểm điểm để rút kinh nghiệm từ những bài học vừa qua, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới. Một chương trình phát thanh của Việt Minh tháng Năm nói, chỉ nên phát động các chiến dịch quân sự lớn khi cầm chắc chiến thắng. Các nguồn tin chính thức đã thôi thúc không dùng khẩu hiệu “chuẩn bị chuyển sang giai đoạn tổng tấn công”, bắt đầu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của một cuộc kháng chiến trường kỳ. Trong các bài viết và nói chuyện cuối năm 1951, Hồ Chí Minh gián tiếp đưa ra quan điểm tương tự, nói đến tầm quan trọng của chiến thuật chiến tranh du kích trong việc tiến hành một cuộc đấu tranh lâu dài chống lại kẻ thù. Các cố vấn Trung Quốc rũ bỏ trách nhiệm thất bại bằng cách báo cáo cho cấp trên (một cách muộn màng) rằng binh lính Việt Minh thiếu kinh nghiệm cần thiết để tiến hành một chiến dịch quân sự đầy tham vọng như vậy. Họ cũng khuyên nên chuyển sang áp dụng chiến tranh du kích. Ông Giáp cũng thừa nhận, đối đầu với quân đội Pháp được trang bị tốt hơn trong một trận chiến bằng những lực lượng vẫn còn thiếu kinh nghiệm là một sai lầm và các lực lượng này đôi khi không có được mức độ quyết chiến, một quyết tâm cần thiết.[3]
Ảnh hưởng của Trung Quốc đối với chiến lược chiến tranh du kích của Việt Minh ngày càng trở lên nên rõ nét sau năm 1950, tác động của nó cũng rõ nét trong các thay đổi đang diễn ra trong chính sách đối nội của Việt Minh. Từ giữa những năm 1950, các cán bộ Trung Quốc mặc trang phục kiểu Mao miệng hô hào các khẩu hiệu cách mạng bắt đầu đến Việt Nam với số lượng lớn để cố vấn cho phía Việt Nam trên mọi phương diện quản lý và hành vi ứng xử. Trước khi họ rời Trung Quốc, Lưu Thiếu Kỳ đã cẩn thận chỉ thị cho các thành viên của đoàn cố vấn không được áp đặt các kỹ thuật Trung Quốc vào Việt Nam một cách tùy tiện, nhưng nhiều người đã phớt lờ lời khuyên, làm dấy lên sự bực tức trong hàng ngũ binh lính và sĩ quan Việt Nam, những người từ lâu đã nhạy cảm trước thái độ trịnh thượng của những người anh em phương Bắc.
Đối với nhiều người Việt Nam, việc thiết lập các chương trình giáo dục tư tưởng cho đảng viên biểu hiện rõ nhất của ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc. Theo lý thuyết của Mao, mục đích của chương trình, khích lệ cải huấn tư tưởng các đảng viên, nhưng nó lại thường biến tướng thành sự sỉ nhục và trừng phạt, thường mang đặc điểm của xung đột giai cấp khi các cán bộ xuất thân trong hoàn cảnh nghèo khó trả thù các đồng đội xuất thân từ các gia đình giàu có. Theo lời kể của một số người tham gia các chương trình này, chiến thuật tự kiểm điểm - trọng tâm của chương trình - đã làm kinh hoàng rất nhiều các bộ Việt Minh, những người hầu hết đã đọc một số tác phẩm Marxist - Lenin và động cơ tham gia phong trào Việt Minh của họ thường là vì lòng yêu nước hơn là ý thức hệ.
Kết quả của việc giáo dục tư tưởng nhiều khi trở thành bi kịch. Theo Georges Boudarel, một người cộng sản Pháp từng phục vụ trong một đơn vị của Việt Minh trong những năm đầu thập niên 1950, người ta tịch thu dao cạo râu của các cán bộ Việt Minh bị tổn thương về tinh thần nhằm ngăn họ tự sát. Đèn trong các lều của các trại huấn luyện được thắp sáng suốt đêm có lẽ cũng vì lý do này. Chính uỷ Việt Minh được cử xuống tất cả các đơn vị để theo dõi động cơ tư tưởng của binh sĩ. Nếu như chính uỷ và sĩ quan chỉ huy của một đơn vị bất đồng thì chính uỷ sẽ có quyền quyết định cuối cùng.[4]
Georges Boudarel cho rằng chính sách này có tác dụng tiêu cực. Trước mắt, chính sách này đẩy nhiều trí thức yêu nước ra khỏi phong trào và phá vỡ sự đoàn kết đang tồn tại trước đó giữa những người trung hoà và quá khích trong Đảng. Về lâu dài, hậu quả của các chính sách này rất nguy hại, vì lo sợ bị phê bình và trả thù sẽ làm tê liệt tính sáng tạo của các văn nghệ sĩ. Các nguồn tin tình báo Pháp đã thu được nhiều tài liệu nói về sự rạn nứt giữa cán bộ Việt Nam và chuyên gia Trung Quốc. Những người đào ngũ khỏi hàng ngũ Việt Minh thường viện dẫn việc họ rời bỏ cách mạng là do ảnh hưởng thái quá của học thuyết Maoist. Ngay cả những người ủng hộ Việt Minh, chấp thuận việc cần phải nghe theo những lời khuyên chiến lược từ các cố vấn Trung Quốc đôi khi cũng chán nản trước việc các chuyên gia Trung Quốc gần như đang chỉ huy các đơn vị quân đội của Việt Nam. Những người đào ngũ nói rằng nhiều cán bộ trung - cao cấp của Việt Minh đã bị thanh trừng do sức ép của Trung Quốc. Theo các nguồn tin từ phía Pháp, có thể là do sức ép của phía Trung Quốc mà tướng Nguyễn Bình, tư lệnh các lực lượng Việt Minh ở miền Nam và là người bị cho là phê phán ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong phong trào Việt Minh đã bị mất chức tháng 9-1951 và được lệnh ra bắc để “định hướng lại”. Các nguồn tin chính thức của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố, ông đã bị giết trong một cuộc đụng độ với các lực lượng quân đội hoàng gia Campuchia trên đường ra Việt Bắc. Các báo cáo chưa được kiểm chứng nói rằng ông bị bắt đưa đi và “vui vẻ chấp thuận cái chết định mệnh trong chiến đấu hơn là bị xử tử”.[5]
Ảnh hưởng của Trung Quốc bắt đầu lan đến nông thôn nơi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà áp dụng các quy định về cải cách ruộng đất ngày càng chặt chẽ hơn. Các quy định tập trung xoá bỏ ảnh hưởng kinh tế và chính trị của giai cấp địa chủ ở cấp làng xã. Kể từ khi chiến tranh bùng nổ tháng 12-1946, chính sách ruộng đất của chính phủ phản ánh quyết định của Hồ Chí Minh đặt ưu tiên vào cuộc đấu tranh phản đế lên trên cách mạng phản phong. Vì thế chương trình kêu gọi giảm tô nhưng chỉ giới hạn việc tịch thu đất canh tác thuộc quyền sở hữu của các công dân Pháp và những người cộng tác với chính quyền Bảo Đại. Đất của các địa chủ yêu nước và các nông dân giàu có không bị tịch thu nhằm lôi kéo sự ủng hộ của những đối tượng này đối với phong trào.
Tuy nhiên, đến đầu thập niên 1950, ngày càng có nhiều chỉ trích từ giới quân sự, rất nhiều quy định của chương trình đã bị phớt lờ ở cấp địa phương nơi rất nhiều địa chủ không thực hiện quy định giảm tô. Các lãnh tụ của Đảng như Trường Chinh lập luận, do không huy động được sự ủng hộ mạng mẽ hơn nữa của những tầng lớp dân nghèo ở nông thôn, chương trình này không đáp ứng lợi ích của cách mạng. Các cố vấn Trung Quốc với những kinh nghiệm mới mẻ về chương trình cải cách ruộng đất triệt để đang được tiến hành tại Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa bắt đầu thúc giục các cán bộ Việt Nam đối đầu với các phần tử “phong kiến” ở nông thôn một cách trực diện hơn. Kết quả, các quy định giảm tô và giới hạn việc tham gia của các địa chủ trong hội đồng xã bắt đầu được thực hiện chặt chẽ hơn.
Sự kiện nổi bật nhất đánh dấu sự chuyển hướng quyết định sang phía tả của chính phủ xẩy ra vào tháng 2-1951 khi Đảng tổ chức Đại hội Đảng Toàn Quốc lần thứ II - đại hội đầu tiên được tổ chức sau Đại hội tại Ma Cao tháng 3-1935 - tại một địa điểm bí mật ở tỉnh Tuyên Quang, nằm sâu trong rừng Việt Bắc. Tổng số 200 đại biểu đại diện cho khoảng nửa triệu đảng viên đã tham dự cuộc họp.
Có nhiều lý do xác đáng để tổ chức đại hội. Trước hết, mặc dù Đảng cộng sản Đông Dương đã giải thể công khai tháng 11-1945, tổ chức này vẫn lớn mạnh nhanh chóng trong những năm cuối thập niên 1940 và rất nhiều đảng viên - đại đa số có nguồn gốc là nông dân và tiểu tư sản - mới chỉ được rèn luyện rất ít về hệ tư tưởng. Nhiều cán bộ bị nhiễm cái mà tài liệu của Đảng gọi là “quan điểm phong kiến” (bao gồm những điều bị coi là tệ nạn xã hội như tín ngưỡng, mê tín, hống hách, gia trưởng), “đầu óc du kích” (ngụ ý thái độ bí mật và nghi ngờ người ngoài) và trình độ nhận thức chính trị thấp. Trong báo cáo trước các đại biểu, Tổng bí thư Trường Chinh tuyên bố, việc chống lại ảnh hưởng to lớn của chủ nghĩa cá nhân, thái độ hống hách và việc làm quan liêu, tham nhũng, đạo đức yếu kém trong đảng viên là vô cùng quan trọng. Ông khẳng định, chỉ một Đảng cộng sản có kỷ luật cao, trong sạch trước công chúng mới có khả năng đóng vai trò tích cực trong đấu tranh chống những tệ nạn đó và đóng vai trò tiên phong trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong việc hoạch định chính sách đối nội cũng được thừa nhận công khai tại Đại hội. Trường Chinh tuyên bố, nước Việt Nam tương lai sẽ áp dụng mô hình “chuyên chính dân chủ nhân dân” kiểu Trung Quốc chứ không theo mô hình “chuyên chính vô sản” Đông Âu theo kiểu Liên Xô. Theo mô hình Trung Quốc, mục tiêu trước mắt là tiến hành giai đoạn đầu của cách mạng dân tộc chủ để chuẩn bị cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa sau này, nhưng không có thời kỳ quá độ kéo dài giữa hai giai đoạn. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, theo cách nói của Lenin, sẽ “phát triển” sang giai đoạn xã hội chủ nghĩa. Để giành được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng, Mặt trận Việt Minh - một liên minh rộng rãi của các lực lượng yêu nước được hình thành năm 1941, hiện công chúng thấy rõ đang chịu sự lãnh đạo của những người cộng sản - cần được đổi tên thành Mặt trận Dân Tộc Thống Nhất Việt Nam hay Mặt trận Liên Việt.[6]
Để hoàn thành nhiệm vụ, Đảng cộng sản Đông Dương cũng cần có tên mới - Đảng Lao động Việt Nam. Khi đưa từ dễ gây xúc động “Việt Nam” vào tên Đảng, các nhà lãnh đạo rõ ràng đã công nhận tầm quan trọng to lớn của cuộc đấu tranh phản đế trong việc giành sự ủng hộ của dân chúng, một quan điểm mà bản thân Hồ Chí Minh luôn tâm niệm kể từ giữa thập niên 1920. Đồng thời, quyết định này cũng là một cử chỉ ngầm đáp lại tinh thần dân tộc chủ nghĩa đang dâng lên ở các nước Lào và Campuchia, nơi các đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương người Lào và Khơ - me ngày càng thấy khó chịu trước sự chỉ đạo, đôi khi có tính chất nhồi nhét của các cấp trên người Việt và đòi phải có Đảng riêng của mình. Đảng lúc này đã chính thức công nhận, cách mạng ở ba nước sẽ phát triển với tốc độ khác nhau và mỗi nước sẽ có đảng riêng của mình để đóng vai trò tiên phong trong quá trình đó. Trong khi Việt Nam đang tiến tới cách mạng dân tộc dân chủ, sau đó tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, Lào và Campụhia đã đi theo hướng dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa của họ sẽ bị trì hoãn một số năm.
Tuy nhiên, quyết định tách Đảng cộng sản Đông Dương thành ba đảng riêng biệt không có nghĩa là Hồ Chí Minh và các cộng sự không còn quan tâm đến các nước khác ở Đông Dương. Ngược lại, mặc dù các tổ chức được thiết lập tại Lào và Campuchia mang tên Đảng Nhân dân Cách mạng, kế hoạch thiết lập một liên minh chặt chẽ giữa ba nhóm đã được đưa ra ngay sau khi Đại hội II kết thúc. Theo một tài liệu chính thức của Đảng được đưa ra tại Đại hội sau này Pháp lấy được, Việt Nam không hề có ý định chấm dứt sự kiểm soát đối với phong trào cách mạng trên toàn Đông Dương. Tài liệu này tuyên bố “Đảng Việt Nam giữ quyền giám sát hoạt động của các đảng anh em ở Lào và Campuchia”, mặc dù các nguồn tin của Việt Nam sau này xác nhận, quan niệm về một liên bang Đông Dương (lần đầu tiên được đề cập tại Hội nghị Ma Cao năm 1935) đã được công khai từ bỏ tại Đại hội năm 1951, nhưng tài liệu tịch thu được này lại nói ngược lại. Mặc dù có ba đảng riêng biệt, “sau này, nếu điều kiện cho phép, ba đảng cách mạng ở Việt Nam, Lào, Campuchia sẽ có thể thống nhất lại để thành lập một đảng duy nhất: Đảng Liên bang Việt - Miên - Lào”.[7]
Quyết định duy trì quan hệ chặt chẽ giữa ba nước, đoàn kết thống nhất trong Liên hiệp Pháp chứng tỏ giới lãnh đạo Đảng nhận thấy tầm quan trọng chiến lược của Đông Dương như một khối thống nhất. Trong một cuốn sách học của Đảng mà người Pháp thu được năm 1950, ba nước được miêu tả như một khối thống nhất từ quan điểm đến địa lý, kinh tế, chính trị và chiến lược. Tài liệu này nói rằng các phong trào cách mạng ở ba nước được định hướng giúp đỡ lẫn nhau trong mọi lĩnh vực để tiến hành cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và xây dựng “nền dân chủ mới” trong tương lai.[8]
Dấu ấn của Hồ Chí Minh có thể được tìm thấy trong nhiều tài liệu được Đại hội thông qua. Các cộng sự của ông đã chiếu theo ý kiến kiên quyết của Hồ Chí Minh cần phải đặt mục tiêu phản đế lên trên phản phong ở Đông Dương và công nhận cần phải hiệu triệu những phần tử ôn hoà trong xã hội Việt Nam. Nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cuộc cách mạng hai giai đoạn (dù có ngắn đến đâu) và sự cần thiết phải áp dụng ý thức hệ cách mạng vào điều kiện cụ thể ở mỗi nước, các đảng viên đã hưởng ứng khuynh hướng thực dụng, điều luôn là ý tưởng của ông từ những ngày đầu tiên của phong trào.
Tuy nhiên, khó tránh khỏi kết luận Bắc Kinh cũng có ảnh hưởng chính đằng sau những quyết định tại Đại hội II. Bằng việc quyết định lập lại Đảng cộng sản như một “lực lượng đưa đường chỉ lối” hiện hữu thúc đẩy cách mạng Việt Nam, người Việt Nam đã đáp lại chỉ trích từ Trung Quốc và Liên Xô cuộc đấu tranh của họ từ trước đến giờ vẫn thiếu màu sắc Marxist cần thiết. Việc sử dụng thuật ngữ “nền dân chủ mới”, một sự bắt chước trực tiếp từ một mô hình mới được chính người Trung Quốc áp dụng, trong khi nhấn mạnh đến “sự lớn mạnh” của cách mạng từ giai đoạn một sang giai đoạn hai, họ nhấn mạnh đến những quan ngại từ phía Moscow và Bắc Kinh rằng Đảng cộng sản Đông Dương vẫn chưa chính thống trong các hoạt động của mình.
Phản ứng của Hồ Chí Minh trước các quyết định tại Đại hội có lẽ lẫn lộn. Là một người có đầu óc thực tế, ông hiểu tầm quan trọng của việc xoa dịu Bắc Kinh để khuyến khích sự ủng hộ của Trung Quốc cho cách mạng Việt Nam và ít người sánh được với ông về khả năng quỵ luỵ trước Mao Chủ tịch và các cộng sự hãnh tiến của Mao. Nhưng chắc ông cũng lo lắng về hiểm hoạ của những ảnh hưởng thái quá của Trung Quốc và nhận thức được nhiều yếu tố trong mô hình Trung Quốc - cụ thể nâng cao vai trò của Đảng, sự nhấn mạnh ngày càng nhiều tới cải huấn tư tưởng, trừng phạt nặng nề giành cho những ai bị tình nghi là phản động - có thể sẽ không thành công trên mảnh đất nhiệt đới của xứ Đông Dương thuộc Pháp này. Những bản năng bao quát của ông chắc chắn đã phản kháng khi biết nhiều người yêu nước Việt Nam sẽ bị đẩy ra khỏi hàng ngũ của Mặt trận Việt Minh và rơi vào tay kẻ thù.
Những lo lắng của ông Hồ không qua được mắt những quan sát viên thời đó và có nhiều lời đồn, mặc dù Hồ Chí Minh được khẳng định là Chủ tịch Đảng, cuộc họp đã đánh dấu một thất bại lớn của ông Hồ và ảnh hưởng của ông trong phong trào cách mạng Việt Nam. Theo các nguồn tin tình báo Pháp, một trong những kết quả của Đại hội thay thế ảnh hưởng của những người ôn hoà như Hồ Chí Minh bằng những thành phần hiếu chiến đứng đầu là Trường Chinh - người vừa được bầu lại vào vị trí Tổng Bí thư Đảng. Một nguồn tin báo chí tại Sài Gòn thậm chí đưa tin, ông Hồ đã bị tử hình theo lệnh của Võ Nguyên Giáp. Các nguồn thạo tin tại Hà Nội thừa nhận, Đại hội thể hiện thất bại của Hồ Chí Minh và thắng thế của những người như Trường Chinh - những người quyết tâm đi theo lời khuyên của Trung Quốc, áp dụng đường lối cứng rắn hơn đối với cách mạng Việt Nam. Một Uỷ ban Trung ương mới gồm 29 uỷ viên đã được bầu ra (thành phần chủ yếu những nhà cách mạng lão thành đã hoạt động tích cực trong Đảng từ trước Thế chiến II). Uỷ ban Trung ương lại bầu ra một Ban Chấp hành nữa (theo mô hình của Liên Xô, Bộ Chính Trị), gồm bảy đảng viên hàng đầu của Đảng và một uỷ viên dự khuyết. Bộ Chính trị sẽ điều khiển công việc của Đảng và chính phủ. Các thành viên chính của tổ chức này được mọi người coi là “tứ trụ” là Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh. Tóm tắt tiểu sử đăng trên báo Nhân Dân của Đảng tháng 3-1951 mô tả Trường Chinh như kiến trúc sư, người lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong khi Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc cách mạng.[9]
Sau khi Giáp thất bại trong cuộc tấn công ở đồng bằng sông Hồng, cuộc xung đột dần lắng xuống, trở thành cuộc chiến cân bằng. Năm 1951, hầu hết các cố gắng của Việt Minh tập trung vào phía Bắc. Sau thất bại của cuộc tiến công của Nguyễn Bình mùa Hè năm 1950, các nhà chiến lược Việt Minh tạm gác cuộc đấu tranh ở Nam Bộ. Ông Bình tổ chức những cuộc tuần hành lớn ở Sài Gòn (còn gọi là “những ngày đỏ”) chống lại chiến tranh, những khó khăn kinh tế, xã hội do chiến tranh gây ra. Ông coi đó là một phần chiến lược của mình. Nhân dân, đặc biệt là công nhân và sinh viên, phải chịu cảnh lạm phát và quân dịch, đã tham gia vào các cuộc tuần hành nhưng nhiều người trung dung cảm thấy đường đột vì các cuộc tuần hành này có khả năng dẫn đến bạo lực và không ủng hộ phong trào. Nguyễn Văn Tâm, thủ tướng mới của Bảo Đại, trước là Tổng trưởng cảnh sát được mọi người gọi là “hùm xám Cai Lậy”; vì đã áp đặt mạnh mẽ những hoạt động nổi dậy ở miền Nam, phá vỡ bộ máy của Việt Minh tại Sài Gòn, đến tháng Tám, bộ máy Việt Minh hầu như đã chấm dứt hoạt động. Để chỉ đạo hoạt động cách mạng ở miền Nam, Đảng Lao động Việt Nam thành lập Trung ương Cục (tiếng Anh là COSVN), trực tiếp dưới sự kiểm soát của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Chiến trường Nam Bộ hầu như không hoạt động, Giáp và cộng sự của ông chuyển cố gắng của mình sang Lào và Campuchia cũng như vùng núi Tây Bắc Bắc Bộ. Mục tiêu của Giáp giữ chặt lực lượng quân sự của Pháp, buộc Pháp phải dàn trải quân khắp Đông Dương. Điều này tạo điều kiện cho Việt Minh có thể chọn được điểm yếu của quân Pháp. Việt Minh có thể tấn công công khai lực lượng quân địch, rồi có thể giáng cho lực lượng này thất bại nhuc nhã.
Tỉnh Hoà Bình là một thời cơ như vậy. Quân Pháp cho tỉnh lỵ Hoà Bình nằm ở ngoại vi đồng bằng sông Hồng, ngã ba trọng yếu nối tổng hành dinh của Việt Minh ở Việt Bắc với miền Trung và miền Nam, nguồn cung cấp tân binh và lương thực chính. Hồ Chí Minh đã nói với cộng sự: “Ruộng đất là chiến trường”. Các đơn vị Pháp chiếm thị xã tháng 11-1951, với sự đồng ý của cố vấn Trung Quốc, Việt Minh tấn công mạnh vào các vị trí của Pháp ở khu vực này. Chiến sự dồn dập - như nhà sử học Bernard Fall gọi là “cối xay thịt” - đã diễn ra sau đó. Quân Pháp đã bị buộc phải bỏ vị trí vào tháng 2-1952, rút quân về đồng bằng. Thời gian đó, tướng De Lattre về Pháp, chết vì ung thư vào tháng 1-1952. Đến thời điểm này, cách nhìn lạc quan trong các phần tử thân Pháp ở Đông Dương do tính năng động của ông De Lattre đem lại đã biến mất. Trận Hoà Bình được coi là thất bại lớn của Pháp. Sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn báo cáo những người quốc gia chủ nghĩa không cộng sản nản lòng và ngày càng tin rằng đến mùa hè Việt Minh sẽ chiếm Hà Nội.
Theo lệnh của De Lattre, quân Pháp xây dựng một loạt đồn bốt hòng ngăn chặn Việt Minh xâm nhập đồng bằng, những phòng tuyến De Lattre cũng không hữu hiệu hơn phòng tuyến Maginot của Pháp trong Thế chiến II. Việt Minh bỏ qua các đồn bốt đó hoặc tấn công, đánh chiếm từng đồn một. Đến cuối năm 1952, các đơn vị Việt Minh đã có thể tự do di chuyển trong vùng quanh Hà Nội, tổ chức cách mạng đã được thành lập trong nửa số làng ở vùng đồng bằng. Chiến thắng Hoà Bình mở ra triển vọng lớn.
Mùa Thu năm ấy, các nhà chiến lược Việt Minh mở mặt trận mới ở vùng Tây Bắc xa xôi. Quân Pháp đã chiếm giữ vùng rộng lớn núi cao và thung lũng nhỏ hiểm trở từ khi cuộc chiến bắt đầu. Vào mùa xuân năm 1952, theo gợi ý của các cố vấn Trung Quốc, các nhà chiến lược Việt Minh bắt đầu soạn thảo kế hoạch tấn công vào đồn bốt quân Pháp ở vùng này chuẩn bị cho một chiến dịch ở Trung và Bắc Lào. Làm như vậy, Việt Minh đã đánh lạc hướng lực lượng địch chú ý tới vùng đồng bằng, càng làm cho quân địch dễ bị tấn công hơn. Tháng 9-1952, Hồ Chí Minh bí mật đi Bắc Kinh tham khảo ý kiến về chiến dịch. Ông còn đi tiếp đến Liên Xô, tham dự Hội nghị lần thứ XIX Đảng cộng sản Liên Xô. Vào cuối tháng 9-1952, kế hoạch tấn công căn cứ của Pháp tại Nghĩa Lộ được thông qua. Ông Hồ về Việt Nam tháng 12-1952.[10]
Vào giữa tháng 10-1952, ba sư đoàn của Việt Minh tấn công căn cứ của Pháp ở Nghĩa Lộ. Các đơn vị của Pháp rút lui về vị trí đóng quân gần đó ở Nà Sản và Lai Châu, bỏ vị trí Sơn La, cách Nghĩa Lộ khoảng 40 dặm (65 cây số) về phía tây. Quân Việt Minh chiếm Sơn La, tập trung tấn công Nà Sản nhưng không thành công, tổn thất hàng ngàn quân. Nhưng thất bại không chiếm được Nà Sản chỉ là tạm thời. Vào đầu mùa Xuân năm sau, Việt Minh tập kết, tiến quân sang phía bên kia biên giới Lào, chiếm Sầm Nưa, đe doạ kinh đô Luang Prabang. Sau khi buộc quân Pháp phải phân tán lực lượng, quân Việt Minh trở về Việt Bắc.
Trong suốt giai đoạn này, Hồ Chí Minh vẫn là người vô hình đối với thế giới bên ngoài, một nhân vật huyền bí không được nguồn tin đáng tin cậy nào của phương Tây nói đến từ mùa Xuân năm 1947. Ở Hà Nội, có một số người dựa trên tin là ông ốm liên miên trong thời gian sau Thế chiến II, đoán ông đã chết và thậm chí còn bị đày ở Trung Quốc vì chống lại sự có mặt ngày càng tăng của quân đội nhân dân Trung Hoa. Các nguồn tin tình báo của Pháp khẳng định, ông vẫn sống dựa vào bức ảnh của báo Nhân Đạo (L’Humanité) chụp khoảng tháng 7-1952. Cuối cùng Joseph Starobin, ký giả tờ Daily Worker (Công nhân hàng ngày) đã gặp ông tại một địa điểm bí mật ở Việt Bắc tháng 3-1953, đăng bài phỏng vấn lên báo các nước nói tiếng Anh.[11]
Tuy nhiên, ở vùng giải phóng, Hồ Chí Minh là người ai cũng biết đến, ông là nhà chiến lược chiến tranh, người lãnh đạo và cổ động viên chính cho sự nghiệp cách mạng. Tháng 2-1952, một tù binh Pháp được thả cho biết, người ta thấy ông Hồ ở khắp nơi, ở mặt trận, ở trong làng, trên đồng ruộng và trong các cuộc họp cán bộ địa phương. Ăn mặc như một nông dân, ông liên tục tiếp cận những người theo ông, vui đùa với họ, khuyến khích họ hy sinh tất cả vì mục tiêu chung. Mặc dù điều kiện sống ở vùng giải phóng có phần tốt hơn những tháng cuối cùng của Thế chiến thứ Hai, nhưng quân Pháp vẫn liên tục ném bom và cứ ba đến năm ngày ông Hồ phải thay đổi chỗ ở một lần để tránh bị phát hiện và bị bắt. Mặc dù đã hơn 60 tuổi, ông vẫn đi bộ 50 cây số mỗi ngày qua những đường núi hiểm trở, túi nhỏ đeo sau lưng. Ông dậy sớm tập thể dục. Sau khi làm việc, vào buổi chiều ông chơi bóng chuyền hay bơi và đọc sách vào ban đêm.[12]
Theo những tin tức riêng lẻ của những người đào tẩu hay tù binh được thả, tinh thần trong vùng giải phóng suy giảm, số người phàn nàn về điều kiện sống ngày càng tăng. Các nhà lãnh đạo Việt Minh buộc phải áp đặt lại chế độ lao động bắt buộc trong những vùng thuộc quyền kiểm soát để thực hiện những dự án công cộng. Theo chế độ này, người làm việc không được nhận lương ngoài một lượng lương thực rất nhỏ đủ ăn. Giới trí thức ngày càng lo sợ những buổi học chính trị và tự phê, trong khi thuế thì cao, lao động tự nguyện và các trận ném bom không ngừng của quân Pháp làm nhân dân mất tinh thần. Tuy vậy, hầu hết các quan sát viên đều cho rằng đa số cư dân địa phương tiếp tục ủng hộ Việt Minh vì đã có những cố gắng giành lại độc lập từ quân Pháp.[13]
Chiến tranh leo thang, việc huy động quân và cung cấp lương thực ngày càng khó khăn hơn. Đến thời điểm này, nguồn nhân lực từ nông thôn hầu như đã cạn kiệt và nhiều tổ chức Việt Minh ở những thành phố lớn hầu như đã bị phá vỡ, Đảng buộc phải sử dụng các phương pháp mạnh mẽ hơn để bắt lao động và bắt lính ở nông thôn. Có nguồn tin không chính thức, một số gia đình nông dân phải di chuyển nơi ở sang sống vùng khác để trốn nghĩa vụ. Trong những năm đầu của cuộc xung đột, những đóng góp bằng thóc của nông dân theo nguyên tắc tự nguyện, sau này chính quyền buộc phải đánh thuế nông nghiệp 15% hoa màu thu hoạch được hàng năm.
Một trong những khó khăn để huy động sự giúp đỡ và ủng hộ của nhân dân nông thôn là thái độ bàng quan của nhiều nông dân đối với cuộc đấu tranh bởi vì họ không thấy được ý nghĩa của cuộc đấu tranh này đối với họ. Vào cuối thập niên 1940, đã có những biện pháp giảm địa tô, giảm lãi suất tiền vay, chia lại đất của những người cộng tác với Pháp cho dân nghèo, nhưng những biện pháp này có kết quả rất hạn chế. Do vậy, nhiều địa chủ cảm thấy hoàn toàn an tâm khi không chú ý gì đến chỉ thị của Việt Minh hoặc tiếp tục ủng hộ quân Pháp trong một số trường hợp thậm chí ở ngay trong vùng do cách mạng kiểm soát.
Đến thời điểm Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, đầu năm 1951, những khó khăn trở nên nghiêm trọng, cần phải có hành động và Trung ương Đảng đã thông qua một số biện pháp sửa đổi nhỏ. Nhưng những biện pháp quyết định vẫn không thể có được vì Đảng cố thực hiện chiến lược tạo dựng một mặt trận đoàn kết rộng rãi nhất có thể được chống kẻ thù chung là đế quốc. Mặc dù phương pháp giải quyết này chính là của Hồ Chí Minh, ngay cả Trường Chinh trong báo cáo tại Đại hội đã thừa nhận nhiệm vụ trọng yếu hiện tại là phản đế. Mặc dù phản phong cũng là nhiệm vụ rất quan trọng và “phải được thực hiện đồng thời với nhiệm vụ phản đế”, ông nói, nhiệm vụ này phải được thực hiện “từng bước một” nhằm duy trì đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh chung. Do vậy, chính phủ đã không thực hiện chính sách trưng thu và phân phối lại toàn bộ đất đai do giai cấp địa chủ sở hữu. Tuy vậy, đến năm 1952, một số lãnh đạo có ảnh hưởng của Đảng đã bắt đầu lập luận, cần có những biện pháp triệt để hơn nữa để giành được sự ủng hộ của người nghèo ở nông thôn.
Tháng 1-1953, một chỉ thị mới được công bố. Dựa trên kinh nghiệm của Trung Quốc trong thời kỳ nội chiến ác liệt nhất, chỉ thị này thông báo giảm tô mạnh và trưng thu đất của địa chủ không hợp tác tích cực trong kháng chiến. Toà án cải cách ruộng đất gồm nông dân quá khích được thành lập ở cấp xã tiến hành điều tra sở hữu đất đai trong xã để có thể phân chia lại. Các buổi phê bình công khai tương tự như các buổi “ôn nghèo kể khổ” ở Trung Quốc đã được tổ chức trong các làng xã giải phóng, khuyến khích người nghèo chỉ trích thái độ độc tài của các phần tử giàu có trong cộng đồng. Có những tin cho rằng trong một số trường hợp, do cố vấn Trung Quốc hối thúc, các nhà hoạt động Việt Minh đã hành quyết ngay những người bị buộc tội là phạm”tội phản dân”. Như tác giả Dương Vân Mai Elliott mô tả trong cuốn sách đầy hấp dẫn về những điều đã xẩy ra đối với gia đình bà trong cuộc xung đột. Cán bộ cải cách ruộng đất bắt giam những địa chủ bị buộc tội đàn áp dân nghèo. Và rồi:
“Họ xử địa chủ tại phiên toà mở tại chỗ, được chuẩn bị cẩn thận để những phiên toà này thể hiện ý chí của nhân dân. Khoảng 10 nông dân nghèo từng chịu đau khổ nhất, căm thù địa chủ nhất được chọn và chuẩn bị sẵn từ trước để tố cáo địa chủ trước toà. Khi nông dân lần lượt tố cáo địa chủ ở toà, các nông dân nghèo khác sẽ hô to: “Đả đảo địa chủ” để tăng bầu không khí thù địch. Nếu là án tử hình, địa chủ sẽ bị hành hình ngay tại chỗ. Nếu là án tù, họ sẽ bị chuyển đi nơi khác. Tài sản của địa chủ phạm tội bao gồm đất đai, nhà cửa, trâu bò, công cụ bị trưng dụng và phân phối lại cho những nông dân thiếu thốn nhất”.[14]
Các nhà lãnh đạo Đảng hy vọng những biện pháp như vậy sẽ làm nông dân nghèo nhất phấn khởi, khuyến khích họ tham gia kháng chiến. Ngày 4-6-1953, đài phát thanh của Việt Minh đã truyền đi một bức thư, theo đài là của một phụ nữ nông dân gửi cho Hồ Chí Minh:
“Trong thời gian bị Pháp đô hộ, tôi và con tôi không có cơm ăn và cũng chẳng có áo mặc. Con của tôi phải đi ở đợ, tôi phải mót khoai, đào củ mài để sống qua ngày… Cuối năm 1952, nông dân bắt đầu đấu tranh chống địa chủ bất lương, tàn ác… Nhờ có Chủ tịch, chúng tôi mới có cuộc sống dễ chịu. Chúng tôi không bao giờ quên ơn này”.[15]
Với các phần tử quá khích thì những biện pháp này chưa đủ vì số nông dân không có ruộng đất ở vùng giải phóng dù đã giảm nhưng vẫn ở mức 15% dân số. Tại Hội nghị nông nghiệp toàn quốc tháng 11, Trường Chinh đề xuất phải có chính sách cứng rắn hơn, đệ trình dự án luật cải cách ruộng đất mới cho phép tịch thu ruộng đất và tài sản của toàn bộ giai cấp địa chủ.
Thái độ của Hồ Chí Minh với dự án luật này chưa bao giờ rõ ràng, mặc dù rất có thể ông đã có lý do chống lại chương trình cải cách ruộng đất tiến hành quá chặt chẽ đến mức phân hoá các phần tử trung dung. Tuy nhiên, nhu cầu về nhân lực của cách mạng cuối cùng đã thắng thế. Trong một diễn văn đọc trước Quốc Hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vài tuần sau Hội nghị nông nghiệp toàn quốc, ông Hồ công nhận, các chính sách trước đó của chính phủ chú ý quá nhiều đến quan điểm của giai cấp địa chủ mà không chú ý đầy đủ đến mối quan tâm của nông dân. Tháng sau, luật cải cách ruộng đất mới quy định thực hiện việc giảm tô và trưng thu đất đai của toàn bộ giai cấp địa chủ. Địa chủ được xếp hạng tiến bộ về mặt chính trị sẽ được đền bù bằng công trái nhà nước, nhưng vẫn phải từ bỏ toàn bộ ruộng đất của mình ngoài phần cần thiết để sống. Địa chủ bị buộc tội cường hào ác bá sẽ bị trừng trị. Mục tiêu của luật mới này không những chỉ nhằm giành được sự ủng hộ của nông dân mà còn phá bỏ quyền lực của giai cấp địa chủ ở nông thôn. Tuy chương trình cải cách ruộng đất quy định tiến hành cải huấn cho địa chủ không bị buộc tội là phản dân, trên thực tế những quy định này không được các cán bộ đầy tham vọng cấp xã chú ý đến. Lần đầu tiên kể từ cuộc nổi dậy Nghệ Tĩnh năm 1930-1931, Đảng đã quyết định mở cuộc đấu tranh giai cấp ở nông thôn.[16]
Tháng 1-1953, Dwight D. Eisenhower bước vào Nhà Trắng, trở thành tổng thống thứ ba mươi tư của Hoa Kỳ. Trong khi tranh cử, ông đưa ra cương Lĩnh “đẩy lùi cộng sản”, lãnh đạo Đảng Cộng hoà chỉ trích việc mất Trung Hoa và tình thế tiến thoái lưỡng nam ở Triều Tiên, coi đó là di sản của tổng thống Đảng Dân Chủ trước đó. Trong diễn văn Liên bang đầu tháng Hai, Eisenhower hầu như chẳng đề cập đến Đông Dương, chỉ nói cuộc chiến tranh Triều Tiên là “một phần của cuộc tấn công có tính toán trước của kẻ địch ở Đông Dương và Mã Lai. Một phần của tình hình chiến lược rõ ràng bao gồm Đài Loan và lực lượng Quốc dân Đảng đang chiếm giữ tại đó”.[17]
Trong khi hội đàm với thủ tướng Pháp René Mayer tại Nhà Trắng cuối tháng 3-1953, tân tổng thống Mỹ cho biết, ông sẵn sàng tăng viện trợ cho quân Pháp với điều kiện, nếu quân Pháp chứng tỏ ý chí giải quyết vấn đề mạnh bạo hơn trong công cuộc tìm kiếm thắng lợi cuối cùng ở Đông Dương.
Tuy nhiên, Pháp từ lâu đã từ bỏ ý định này. Ngay từ đầu tháng 12-1949, tướng Carpentier đã cảnh báo tổng thống Vincent Auriol, nhiều nhất Pháp cũng chỉ có thể đạt được một giải pháp chính trị. Việc quân Pháp rút khỏi vùng biên giới một năm sau đó thể hiện sự chấp nhận ngầm quan điểm bi quan của Carpentier. Việc cử tướng De Lattre de Tassigny chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương cuối năm 1950 đã làm cho mọi người tin quân Pháp có thể thắng cộng sản, việc tướng Tassigny về nước, cử tướng Salan thay thế một năm sau đã làm cho các tướng lĩnh, các nhà chính trị Pháp chỉ còn thấy giải pháp chính trị mà thôi.
Để nhận viện trợ của Hoa Kỳ nhằm cải thiện vị thế của mình trước khi có giải pháp thương lượng, quân Pháp cần phải chứng minh họ đã có cách giải quyết vấn đề mạnh hơn. Trách nhiệm thuyết phục Nhà trắng tăng viện trợ quân sự của Mỹ nay thuộc về chỉ huy mới của Pháp là tướng Henri Navarre. Là tổng tham mưu trưởng lực lượng NATO của Pháp tại châu Âu, Navarre hoàn toàn không phải là người Washington ưa để thay Salan vì ông có tiếng là thận trọng, thậm chí không quyết đoán. Sau khi được cử làm chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp, Navarre đã cố giảm bớt mối nghi ngờ bằng cách đưa ra một chiến lược đầy tham vọng “Kế hoạch Navarre”, giành thế chủ động trong chiến trận Đông Dương.
Việc Mayer tỏ ra có vẻ có lập trường cứng rắn đối với Đông Dương lại có kết quả rất hạn chế ở Washington và Washington vẫn nghi ngờ ý định của Pháp. Đầu tháng 8-1953, một bài báo của tạp chí Đời Sống chỉ trích mạnh mẽ những nỗ lực của Pháp ở Đông Dương, khẳng định, Pháp“đã thua”. Tuy vậy, chính quyền mới ở Washington không có mấy lựa chọn nữa. Tham mưu trưởng Liên quân đồng ý với Kế hoạch Navarre. Tháng 9-1953, chính quyền Eisenhower ký hiệp ước mới tăng viện trợ của Hoa Kỳ cho lực lượng viễn chinh Pháp. Tuy vậy, Paris đánh giá tình hình không khả quan. René Pleven, Bộ trưởng Quốc Phòng Pháp, cảnh báo, kế hoạch Navarre không thực tế và tháng 7-1953 sứ quán Hoa Kỳ tại Paris cho biết chính phủ Pháp không chấp nhận đề nghị của tướng Navarre chuyển từ châu Âu sang thêm 12 tiểu đoàn. Sự ủng hộ của dân chúng đối với cuộc chiến tranh giảm sút nhanh chóng khi tin tức về hiệp định viện trợ được thông báo tại Paris ngày 29-9-1953, những người chỉ trích cuộc chiến tranh lại nói, máu của người Pháp đang được đổi lấy đô-la Mỹ.[18]
Kế hoạch Navarre dự kiến sẽ phát huy tác dụng vào mùa Xuân và mùa Hè năm 1954. Trong thời gian này, quân Pháp sẽ thực hiện chính sách phòng ngự, đồng thời củng cố các vị trí ở đồng bằng sông Hồng và các khu vực trọng yếu khác ở Việt Nam. Một trong những khu vực trọng yếu này là ở vùng Tây Bắc xa xăm, khu vực bị các đơn vị Việt Minh chiếm giữ từ mùa Thu năm 1952 làm bàn đạp tấn công Lào. Tháng 11-1953 theo lệnh của Paris phải bảo vệ thủ đô Luang Prabang của Lào khỏi sự đe doạ của địch, Navarre quyết định chiếm giữ cứ điểm Điện Biên, một huyện lỵ nhỏ trong thung lũng vùng núi xa xăm gần biên giới với Lào, coi đó là cách làm gián đoạn liên kết giữa Trung và Bắc Lào của Việt Minh. Huyện lỵ này trước đây đã bị Việt Minh chiếm giữ trong chiến dịch Tây Bắc. Giờ đây, quân Pháp nhảy dù xuống chiếm lại.
Trong khi tướng Navarre cố thực hiện giai đoạn đầu chiến lược của mình, các nhà chiến lược Việt Minh cũng vạch ra kế hoạch tác chiến cho chiến dịch năm 1953. Tại một cuộc họp Trung ương đầu năm, các nhà hoạch định chính sách của Đảng quyết định tránh đối đầu công khai với lực lượng thù địch trong tương lai gần, đồng thời tìm điểm yếu trong lá chắn của địch, đặc biệt là ở Lào, Campuchia và vùng Tây Bắc. Chiến lược này không thay đổi trong cả năm, ngay cả khi Navarre đã quyết định một cách rõ ràng, phải tập trung lực lượng ở đồng bằng sông Hồng để ngăn chặn mối đe doạ của Việt Minh đối với vùng phụ cận Hà Nội. Võ Nguyên Giáp đề xuất tiến hành chiến dịch lớn ở đồng bằng với mục tiêu cuối cùng đánh chiếm Hà Nội và Hải Phòng, nhưng cố vấn Trung Quốc lại muốn có chiến lược thận trọng hơn tập trung vào vùng núi Tây Bắc. Hồ Chí Minh ủng hộ ý kiến của các cố vấn Trung Quốc và Bộ Chính trị đã chấp thuận ý kiến này vào tháng 9-1953. Kế hoạch này dự kiến sẽ được khẳng định tại một cuộc họp của Quân uỷ Trung ương tháng 11-1953.[19]
Tin quân Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ đến tổng hành dinh của Việt Minh trong lúc các nhà chỉ huy quân sự đang chuẩn bị trình Quân uỷ Trung ương kế hoạch tấn công Pháp ở Lai Châu, vị trí quân sự biệt lập cách Điện Biên Phủ 80 cây số về phía bắc. Theo các nhà lãnh đạo Việt Minh, nếu Việt Minh chiếm lại căn cứ này thì sẽ tác động tới tinh thần quân Pháp và chuẩn bị cho những bước tiếp theo trong những năm tới. Khu vực này cũng có những lợi thế chiến lược. Cách Hà Nội hơn 400 cây số, quân Pháp sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc hậu cần và tăng viện cho Điện Biên Phủ.
Mặt khác, đánh Điện Biên Phủ sẽ là lần đầu tiên Việt Minh chủ động tấn công trực diện một căn cứ được lực lượng Pháp bảo vệ vững chắc. Tuy vậy, Điện Biên Phủ nằm ở thung lũng, gần biên giới với Trung Quốc và tổng hành dinh Việt Minh ở Việt Bắc cho phép Việt Minh dễ dàng chuyển khối lượng lớn vật dụng từ Trung Quốc. Sau khi tính toán kỹ lưỡng các khả năng, được cố vấn Trung Quốc và cấp trên ở Bắc Kinh khuyến khích, ngày 6-12-1953, lãnh đạo Đảng quyết định tập trung nỗ lực trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Trong năm đó, lãnh đạo Đảng bắt đầu bí mật chuyển ba sư đoàn chủ lực mới được thành lập ở vùng núi quanh Điện Biên Phủ trong khi các đơn vị khác tiến vào Bắc Lào để đánh lạc hướng, buộc quân Pháp phải dàn trải lực lượng của mình.[20]
Tại sao các nhà lãnh đạo Trung Quốc lại đột nhiên quyết định kêu gọi khẩn thiết đồng minh Việt Minh tham gia vào cuộc đụng đầu lớn với quân Pháp? Nghĩ cho cùng quyết định tấn công Điện Biên Phủ sẽ buộc Trung Quốc phải tăng viện trợ cả về chất lẫn số lượng. Điểm mấu chốt dẫn đến thành công sẽ là khả năng pháo cao xạ của Việt Minh có thể làm yếu đi hoặc ngăn được quân Pháp tiếp viện và cung ứng cho khu vực này khi chiến sự leo thang. Mặc dù Bắc Kinh đã viện trợ cho Việt Minh trong cuộc chiến suốt ba năm, thấy được điểm lợi, vừa hoàn thành nghĩa vụ quốc tế của Trung Quốc, bảo vệ biên giới phía nam vừa chống lại sự kiểm soát của đế quốc, trong những tháng đó các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã bắt đầu suy nghĩ. Tháng 7-1953, ngừng bắn đã có hiệu lực ở bán đảo Triều Tiên. Trung Quốc đã trả giá cao cho hành động can thiệp của Quân Giải Phóng Nhân Dân và đã có dấu hiệu chứng tỏ các nhà lãnh đạo Trung Quốc quyết định tìm cách cải thiện quan hệ với phương Tây để giảm bớt nguy cơ xung đột trong tương lai, tạo điều kiện cho chính phủ chuyển những nguồn lực hiếm hoi cho kế hoạch 5 năm tới. Trong môi trường mới, cách nhìn nhận ngày tận thế của Mao Trạch Đông về chiến tranh với đế quốc tất yếu ở châu Á đã mất đi sức mạnh. Trong một cuộc phỏng vấn ngày 24-8-1953, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Chu Ân Lai tuyên bố “các vấn đề khác” có thể được bàn đến tại Hội nghị hoà bình nhằm chấm dứt cuộc xung đột ở Triều Tiên. Tháng 12-1953, ông thảo luận với các thành viên của một phái đoàn Ấn Độ về ý tưởng có một thoả thuận chung dựa trên những điều mà sau này trở thành “năm nguyên tắc chung sống hoà bình” giữa các quốc gia. Washington đã đáp lại một cách tế nhị khi Bộ trưởng Ngoại giao Dullet, trong một diễn văn cho đội quân lê dương Mỹ đầu tháng 9-1953, đã gián tiếp nói “Hoà Kỳ sẵn sàng xem xét một thoả thuận đàm phán để chấm dứt xung đột ở Đông Dương”.[21]
Moscow cũng ngày càng quan tâm nhiều tới việc chấm dứt xung đột ở Đông Dương. Tân Thủ tướng Liên Xô, ông Georgy Malenkov, trở thành nhân vật trên chính trường sau khi Joseph Stalin chết tháng 3-1953. Ông có lý do phải có quan hệ tốt với phương Tây, kể cả việc phải giảm bớt ngân sách quốc phòng đã phình to để tập trung nguồn vốn hiếm hoi vào các dự án kinh tế. Cuối tháng 9-1953, Liên Xô đề nghị họp hội nghị năm nước lớn nhằm giảm bớt tình hình căng thẳng quốc tế. Một vài ngày sau, Trung Quốc cũng làm như vậy.
Quân Pháp chiếm Điện Biên Phủ đúng lúc các nhà lãnh đạo Trung Quốc (giống các nhà lãnh đạo Liên Xô) quyết định mở cuộc tấn công hoà bình nhằm đưa lại giải pháp đàm phán ở Đông Dương. Thắng lợi của Việt Minh ở Điện Biên Phủ có thể sẽ làm tình hình trong khu vực căng thẳng thêm khiến Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp. Mặt khác, điều này có thể làm tăng thêm phong trào chống chiến tranh ở Pháp, tạo điều kiện cho một hiệp định hoà bình có lợi cho Việt Minh và Trung Quốc. Với Bắc Kinh, họ sẵn sàng chấp nhận canh bạc rủi ro này.[22]
Trong khi Hồ Chí Minh và các cộng sự chắc hẳn đã biết ơn Trung Quốc vì đã tăng cường giúp đỡ chiến dịch Tây Bắc, trước một loạt biểu hiện mong muốn có đàm phán hoà bình của các nước trên thế giới. Tổng hành dinh Việt Minh chắc có phản ứng thận trọng. Trong những tháng đầu của cuộc chiến khi Việt Minh rõ ràng yếu hơn kẻ thù, ông Hồ bằng mọi cách cố gắng đạt được một giải pháp thoả hiệp. Điều kiện trên mặt trận ngày càng được cải thiện và Pháp rõ ràng không còn tìm kiếm một thắng lợi hoàn toàn thì rất có thể các nhà lãnh đạo Việt Minh cũng không mặn mà gì nữa với một thoả hiệp. Trong khi nói chuyện với ông Léo Figueres của Đảng cộng sản Pháp tháng 3-1950, ông Hồ nhấn mạnh, tuy vẫn muốn có một giải pháp thông qua thương lượng nhưng các nhà lãnh đạo Đảng không muốn có thoả hiệp lớn. Ngay cả Trường Chinh còn có thái độ thù địch hơn. Trong diễn văn kỷ niệm sáu năm ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tháng 9-1951, Trường Chinh cảnh báo, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ không bị dụ dỗ vào bàn đàm phán và nhất mực cho rằng cần phải “xoá bỏ mọi ảo tưởng của những kẻ cơ hội về đàm phán hoà bình với kẻ thù”. Khi Paris có những bước thăm dò về một giải pháp thoả hiệp cuối năm 1952, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã không để ý tới. Đến tháng 9-1953, Thông Tấn Xã Liên Xô (TASS) đưa tin, trong diễn văn kỷ niệm lần thứ tám ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh đã tuyên bố, chỉ có thắng lợi trên chiến trường mới đem lại hoà bình.[23]
Tuy nhiên, vài tuần sau các nhà lãnh đạo đảng Việt Nam quyết định theo đề nghị của Moscow và Bắc Kinh, tìm một giải pháp chính trị. Trong một bài phỏng vấn ngày 20-10-1953 với nhà báo tờ Tin Nhanh (Expressen) của Thuỵ Điển, ông Hồ tuyên bố, chính phủ sẵn sàng tham dự hội nghị quốc tế nhằm tìm giải pháp hoà bình cho Đông Dương. Ông Hồ nói “Nếu chính phủ Pháp mong muốn đình chiến và giải quyết vấn đề Việt Nam thông qua thương lượng, nhân dân và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng xem xét đề nghị của Pháp”. Cuộc phỏng vấn này được báo chí thế giới đưa tin nhiều lần. Ít lâu sau, Bắc Kinh công khai bày tỏ sự đồng ý trong một xã luận của báo Nhân Dân Nhật Báo. Theo một nguồn ngoại giao Mỹ ở Sài Gòn, đề nghị tiến hành đàm phán hoà bình của ông Hồ đã gây ra một sự “khó hiểu, kinh ngạc và sợ hãi” trong những người Việt không cộng sản ở Sài Gòn.[24]
Là người có đầu óc thực tế, Hồ Chí Minh biết một giải pháp thông qua thương lượng là một khả năng tiến tới chấm dứt chiến tranh. Tháng 7-1953, việc Mỹ quyết định tìm cách chấm dứt xung đột ở Triều Tiên là dấu hiệu an ủi cho thấy, đế quốc sẵn sàng nhượng bộ khi gặp phải khó khăn, tin tức này đã làm Việt Minh hy vọng Đông Dương có thể có một kết cục tương tự. Nhưng trong một bài diễn văn đọc trước một nhóm trí thức ở Việt Bắc sau đó vài tuần, ông Hồ lại cảnh báo, không nên có ảo tưởng hoà bình sẽ đến một cách dễ dàng. Cũng như người Mỹ, người Pháp không sẵn sàng có nhượng bộ lớn trên bàn đàm phán trừ khi thua trên chiến trường. Ông cảnh báo, quân địch “đang bẫy chúng ta bằng mồi, nếu chúng ta vội vã như đàn cá và quên phải cảnh giác để tự vệ, sẽ bị chúng đánh bại”. Do vậy, điều quan trọng phải cảnh giác và tiếp tục chiến đấu, ngay cả khi Mỹ quyết định tham gia xung đột.[25]
Trong tình hình như vậy, ngay cả khi tỏ ý sẵn sàng tham gia hoà đàm, ông Hồ chắc phải có chút nghi ngờ vì điều kiện cho thắng lợi chưa hoàn toàn chín muồi như ông đã nêu với cộng sự trong cuộc gặp tháng 11-1953. Đồng thời, thái độ của Liên Xô và Trung Quốc là đáng lo ngại. Liên Xô ủng hộ cầm chừng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam, do vậy không hy vọng gì nhiều từ Moscow. Nhưng sự ủng hộ vững chắc của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa là một phần trọng yếu trong chiến lược của Việt Minh, do vậy bất kỳ dấu hiệu nào chứng tỏ Bắc Kinh sẵn sàng thoả hiệp vấn đề này vì lợi ích dân tộc của họ chắc sẽ làm ông Hồ và cộng sự của ông ở Việt Bắc càng lo lắng hơn.[26]
Mặt khác, Hồ Chí Minh biết, Việt Minh không thể tiếp tục chiến đấu lâu dài nếu không có sự hỗ trợ hoàn toàn của Trung Quốc. Đây không phải là lần đầu ông Hồ chấp nhận phải nhượng bộ để tiếp tục chiến đấu. Về phần mình, Moscow và Bắc Kinh hầu như chẳng cần sự đồng ý của Hà Nội để bảo vệ lợi ích an ninh quốc gia của mình. Tại một Hội nghị tổ chức đầu năm 1954 ở Berlin, đại biểu các nước lớn thoả thuận, một hội nghị quốc tế khác sẽ được tổ chức tại Geneva tháng 4 để thảo luận các vấn đề liên quan đến hoà bình thế giới. Tuy chính quyền Eisenhower khó chịu, Đông Dương và tình hình ở Triều Tiên đều nằm trong đề mục thảo luận. Tháng 3-1953, một phái đoàn Việt Nam đến Bắc Kinh tham khảo ý kiến các quan chức Trung Quốc và xây dựng một chiến lược chung tại Geneva. Ít lâu sau, một phái đoàn Việt Nam do Hồ Chí Minh dẫn đầu đi Bắc Kinh và Moscow để hoạch định chiến lược đàm phán chung với các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Liên Xô. Dựa trên kinh nghiệm đàm phán với Mỹ nhằm chấm dứt xung đột ở Triều Tiên, Trung Quốc và Liên Xô khuyên Việt Nam phải “thực tế” tại Hội nghị Geneva.[27]
Hai ngày sau khi Hội nghị Geneva được công bố triệu tập, nguồn tin tình báo Pháp cho hay đơn vị Việt Minh ở Thượng Lào đã chuyển quân theo hướng đông về Điện Biên Phủ. Mặc dù hoạt động của Việt Minh còn được tiến hành ở nhiều nơi khác như Bắc Bộ, Tây Nguyên, Lào và hành lang Hà Nội - Hải Phòng vào đầu tháng Ba, tài liệu do Pháp bắt được cho thấy, Việt Minh đang chuẩn bị tấn công lớn ở vùng Tây Bắc. Cuộc tấn công này sẽ phối hợp với cuộc đàm phán sắp tới tại Geneva. Có thêm những dấu hiệu chứng tỏ viện trợ quân sự của Trung Quốc cho Việt Minh đã tăng nhiều, làm tăng thêm khả năng Việt Minh thắng trận.
Lần này, nguồn tin tình báo của Pháp đã đúng. Bắt đầu từ tháng 12-1953, các đơn vị Việt Minh đã dần tập trung ở vùng núi bao quanh căn cứ của Pháp tại Điện Biên Phủ, trong khi hàng ngàn dân công được huy động để chuyển đạn dược và pháo cao xạ từ biên giới Trung Quốc đến khu vực này. Một người tham gia chiến dịch đã kể lại cho nhà báo Mỹ:
“Chúng tôi phải vượt núi, băng rừng, ban đêm hành quân còn ban ngày ngủ để tránh bom của kẻ thù. Có lúc chung tôi ngủ hầm, có lúc chúng tôi ngủ ngay cạnh đường. Mỗi chúng tôi đeo súng, đạn và ba - lô. Chúng tôi có chăn, màn và một bộ quần áo. Mỗi người đều có đủ gạo ăn một tuần và được nhận thêm tại các trạm dọc đường. Chúng tôi ăn rau và măng lấy trong rừng, thỉnh thoảng dân làng lại cho chúng tôi thịt. Tôi đã tham gia Việt Minh chín năm rồi nên quen như vậy”.[28]
Để mang lại điều thuận lợi cần thiết trên chiến trường nhằm đạt được một giải pháp hoà bình tại bàn hội nghị, trong vài tháng liền Trung Quốc tăng viện trợ quân sự. Theo một nguồn tin của Trung Quốc, hơn 200 xe tải, 10.000 thùng dầu, hơn 100 pháo, 60.000 đạn cao xạ, 3.000 súng và khoảng 1.700 tấn gạo đã được chuyển cho quân đội Việt Nam đang bao vây Điện Biên Phủ. Để khuyến khích cố vấn Trung Quốc ở Việt Nam cố đạt được thắng lợi quân sự, Chu Ân Lai gửi thông điệp sau: “Nhằm giành thắng lợi trong lĩnh vực ngoại giao, chúng ta có thể cần phải tính đến việc giành thắng lợi mạnh ở Việt Nam trước khi đình chiến ở Triều Tiên”. Hồ Chí Minh hiểu rõ điều này. Trong một bức thư gửi ông Giáp tháng 12-1953, ông viết: “Chiến dịch này rất quan trọng, không chỉ về mặt quân sự mà còn về mặt chính trị, không chỉ vì lý do trong nước mà còn vì lý do quốc tế nữa. Do vậy, toàn thể nhân dân, toàn thể lực lượng vũ trang và toàn thể Đảng ta phải đoàn kết để thực hiện việc này”.[29]
Với ông Hồ và các cộng sự, vấn đề không còn liệu có tấn công cứ điểm quân Pháp hay không