CHƯƠNG XIV (tt)
dịch giả: lâm hoàng mạnh - nguyễn học
CHƯƠNG XIV (tt)
ồ Chí Minh không trực tiếp nhúng tay vào việc vạch kế hoạch hoặc thực thi chiến dịch cải cách ruộng đất, có thể vì vậy không thể đóng vai trò chính gây ra thiệt hại và chịu trách nhiệm. Nhưng uy tín của ông, một người lãnh đạo hiểu biết, lãnh đạo mọi mặt đã bị sứt mẻ nặng nề, nhiều người trong tâm tư cảm thấy, mặc dù Hồ chỉ trích những việc diễn ra ở mức địa phương, nhưng không phải vô can, vì bản thân ông thông qua Luật Cải cách ruộng đất từ khi bắt đầu và bảo vệ thành tích của nó “là chính” thậm chí sau khi biết rõ những sai lầm nghiêm trọng đã xảy ra. Trong cuộc gặp riêng với những lãnh đạo đảng, Hồ tự phê bình chính mình “Bác đã thiếu dân chủ, không nghe, không thấy. Bởi thế tất cả chúng ta phải tiến hành dân chủ. Bác thừa nhận khuyết điểm trong vụ này. Từ nay tất cả các lãnh đạo trung ương phải nghe, quan sát, suy nghĩ trước khi hành động. Bài học đau thương này phải trở
thành động lực mới cho chúng ta”.[1]
Thất bại chiến dịch cải cách ruộng đất là một bước lùi lớn của Trường Chinh. Do tính cách thiếu hòa đồng và khắt khe, Trường Chinh không được các đồng chí và những người xung quanh kính trọng không phải vì sự tàn bạo mà vì sự lạnh lùng, thiếu tình người và vẫn chắc chắn tin rằng khi tiến hành chương trình theo đề xuất cố vấn Trung Quốc ông hành động đúng theo ý thức hệ. Trong lúc bị bẽ mặt do giáng cấp, ông lại tỏ ra khá kiêu ngạo trước công chúng, nghe đồn không bao giờ kể chuyện này với các đồng chí của ông. Khi có dịp ông vẫn sẵn sàng bảo vệ quyết định của mình. Vài tuần lễ sau khi kết thúc Hội nghị X, Trường Chinh lập luận, mặc dù một số cán bộ sai trái phạm khuyết điểm tai hại trong chiến dịch, nhưng cải cách ruộng đất là “một cuộc cách mạng” và ông nói thêm “một cuộc cải cách ruộng đất hoà bình chẳng khác gì như kế hoạch giao đất là một ảo tưởng”.[2]
Cố gắng của Đảng trong việc thừa nhận sai lầm đã quá muộn để ngăn cản cuộc bạo động đầu tiên của dân chúng chống lại chính sách chính phủ kể từ khi kết thúc kháng chiến chống Pháp. Cuộc bạo động xảy ra ở một nơi không xa quê Hồ Chí Minh ở tỉnh Nghệ An. Huyện Quỳnh Lưu có phần đông dân chúng theo đạo Thiên Chúa. Người dân Quỳnh Lưu có tinh thần yêu nước cao, từng ủng hộ Việt Minh chống Pháp, nhưng cả hai bên đều nghi ngờ lẫn nhau. Cán bộ Việt Minh nghi ngờ đa số dân Thiên Chúa Giáo địa phương trung thành với Pháp hoặc Bảo Đại và thù địch cách mạng. Còn người theo Thiên Chúa Giáo tức giận trước những chính sách và hành động nghi ngờ của chính quyền nên họ chống lại.
Mối quan hệ giữa chính phủ và cộng đồng giáo dân Thiên Chúa không ngừng mâu thuẫn ở Việt Nam kể từ khi kết thúc chiến tranh Thái Bình Dương. Sau đình chiến vào tháng 7-1954, gần 600.000 người Thiên Chúa Giáo di cư vào Nam. Tuy thế, gần 900.000 Thiên Chúa Giáo vẫn còn lại ở miền Bắc sau Hiệp định Geneva và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cam đoan họ sẽ không bị ngược đãi. Một Uỷ ban lên lạc những người Thiên Chúa Giáo yêu nước và yêu hoà bình được thành lập như một nhóm trong mặt trận, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên phát biểu với dân Thiên Chúa Giáo những cam kết của chính phủ về tự do tín ngưỡng. Bổ nhiệm những giám mục mới thay những giám mục đã vào Nam, những trường dòng đào tạo linh mục Thiên Chúa Giáo được thành lập cuối năm 1954. Tháng 6-1955 chính phủ ra sắc lệnh bảo đảm tự do tín ngưỡng và công nhận quyền của Vatican trong công việc nội bộ nhà thờ, mặc dù cấm đoán dân Thiên Chúa Giáo tuyên truyền chống đối những chính sách của chính phủ.
Tuy nhiên khi mở màn chiến dịch cải cách ruộng đất, mối quan hệ nhanh chóng phá hỏng tất cả, khi các cán bộ hiếu chiến thường tỏ ra chống người theo đạo Thiên Chúa, nhiều người trong số họ bị tình nghi phản động. Trong một số trường hợp, họ cũng có lý do để đặt những câu hỏi với cách mạng, vì nhiều người Thiên Chúa Giáo là những người giàu có của cộng đồng nông thôn, do vậy họ chống đối cải cách ruộng đất. Bản thân Nhà Thờ, chiếm khoảng 1,3 phần trăm đất canh tác trong nước, cũng công khai thù địch với chính phủ.
Vấn đề rắc rối ở huyện Quỳnh Lưu bắt đầu xuất hiện năm 1955, khi dân làng phản đối việc quan chức chính phủ ngăn cản họ di cư vào Nam. Mùa Hè năm 1956, chiến dịch cải cách ruộng đất quét qua vùng này, sự oán giận thái độ tàn nhẫn khi tiến hành cải cách ruộng đất tăng lên do những những đối xử bất công với người theo đạo. Cán bộ đảng thường xuyên quy kết những người thủ lĩnh Thiên Chúa Giáo địa phương là phản động, kẻ phá hoại. Khi đoàn thanh tra của Uỷ Ban Kiểm Soát Quốc tế tới, căng thẳng bùng lên và một số vụ đụng độ bạo lực xảy ra giữa lực lượng an ninh chính phủ với dân làng tìm gặp những thanh tra. Ngày 9-11-1956, một nhóm dân làng đưa đơn cho những thành viên Uỷ Ban Kiểm Soát Quốc tế, đang đi đến huyện trên xe Jeep. Một đơn vị cảnh sát cố tình giải tán đám đông và bạo lực nổ ra. Ngày 13-11-1956, vài ngàn người, vũ trang bằng gậy gộc, cuốc xẻng tiến về trung tâm huyện lỵ Quỳnh Lưu. Con đường tới huyện lỵ bị bộ đội phong toả, đụng độ xảy ra làm vài người biểu tình bị chết. Ngày hôm sau, một sư đoàn bộ đội được điều đến chiếm vùng này, bắt hết những người cầm đầu cuộc nổi loạn. Sau khi toán thanh tra Uỷ Ban Kiểm Soát Quốc tế từ Hà Nội tới để đánh giá tình hình, một số người bị bắt trong cải cách ruộng đất được thả, tài sản của họ được trả lại. Nhưng rõ ràng cuộc tranh cãi trong nội bộ Đảng về cải cách ruộng đất vẫn chưa chấm dứt. Trường Chinh, lúc đó còn là chủ tịch Uỷ ban Cải cách ruộng đất, cảnh báo trong báo cáo của mình về sự kiện này, một số “cá nhân nguy hiểm” đã được thả mà không có xét xử cần phải theo dõi chặt “những thành phần địa chủ” để họ không thể còn uy thế trong làng nữa.
Dù sự kiện Quỳnh Lưu là độc nhất trong mối quan hệ của chính phủ và Thiên Chúa Giáo, nó cũng chứng tỏ rõ ràng chương trình cải cách ruộng đất đã phá hoại nghiêm trọng sự tin tưởng của nhân dân miền Bắc với những người lãnh đạo Đảng, chắc chắn cản trở sự thống nhất và lãnh đạo tập thể trong hàng ngũ lãnh đạo Đảng. Cuối tháng Mười, một đám đông gồm chủ yếu những thân nhân những người bị oan ức trong cải cách ruộng đất tụ tập trước cửa trụ sở Ban Chấp hành Trung ương gần Quảng trường Ba Đình đòi sửa sai. Tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu trước đông đảo nhân dân tại Nhà Hát Nhân Dân, công nhận những sai lầm trong cải cách ruộng đất. Ông thừa nhận lãnh đạo Đảng dự đoán quá cao số lượng địa chủ trong nước, đã cứng nhắc khi coi toàn bộ tầng lớp này là kẻ thù nhân dân. Do vậy không phân biệt nổi bạn và thù, coi nhẹ tầm quan trọng mặt trận quốc gia thống nhất rộng rãi trong thời kỳ trước đây. Ông nói thêm, Đảng cũng vi phạm chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng khi tiến hành cải cách ruộng đất trong khu vực đông dân Thiên Chúa Giáo và không nhận ra sự cống hiến cho cách mạng của nhiều binh sĩ giải ngũ và cựu chiến binh.
Hồ Chí Minh, người tranh luận trong cuộc họp những lãnh đạo cao cấp chống lại tàn dư chiến dịch Cải cách ruộng đất, ít xuất hiện trước công chúng cho mãi đến tháng 2-1957, tại phiên họp Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ thừa nhận “có nhiều sai lầm nghiêm trọng” phạm phải khi tiến hành Cải cách ruộng đất. Nhưng một lần nữa ông bảo vệ chương trình Cải cách ruộng đất cho là chương trình này hoàn toàn đúng đắn về nền tảng với mục đích loại bỏ thế lực phong kiến tại làng xã và giải phóng nông dân nghèo khỏi vòng nghèo khổ. Những quan sát viên nhớ lại rằng Hồ khóc khi nói đến những đau thương đã xảy ra trong Cải cách ruộng đất.[3]
Về mặt nào đấy, chương trình cải cách ruộng đất có thể xem như thành công của chế độ. Hơn hai triệu mẫu ruộng (800.000 hectares) đã được chia cho hơn hai triệu gia đình nông dân, bằng một nửa số nông dân ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sự thống trị đời đời của bọn chủ đất tại làng xã đã bị phá vỡ, tầng lớp lãnh đạo mới hình thành bao gồm dân nghèo và trung nông. Nhưng cách làm này cũng để lại di sản cay đắng. Dù con số thực tế những người bị xử tử trong cải cách ruộng đất vẫn còn được tranh cãi, ngay cả những quan sát viên thiện cảm cho rằng ít nhất 3.000 đến 5.000 người có thể đã chết trong cải cách ruộng đất, thường bị đội hành quyết thi hành ngay sau khi “toàn án nhân dân” kết án. Có những đánh giá khác, cho rằng có khoảng từ 12.000 đến 15.000 người bị xử tử không xét xử với những lời cáo buộc chụp mũ tội phá hoại, nói một cách khác là ủng hộ hoạt động phản động. Còn vô số không kể hết những người bị đối xử tàn tệ do mối quan hệ của họ với nạn nhân. Có một thảm hoạ lớn cho tổ chức Đảng tại cấp địa phương. Một nghiên cứu đầu thập niên 1980 cho thấy ở một số vùng, 30 phần trăm chi bộ đảng phải giải thể do cán bộ chủ chốt bị thủ tiêu vì những kẻ quá khích trong đội cải cách ruộng đất gây ra. Trong 76 xã ở tỉnh Bắc Ninh, chỉ còn 21 bí thư chi bộ còn lại vào đợt cuối chiến dịch cải cách ruộng đất.[4]
Sự hỗn loạn xã hội do chiến dịch cải cách ruộng đất gây nên cũng không bó hẹp ở nông thôn. Nó cũng làm gia tăng sự tức giận đối với Đảng trong giới trí thức thành thị. Đó là những người đã ủng hộ mạnh mẽ Mặt trận Việt Minh trong nhiều giai đoạn trước đây của cuộc kháng chiến. Nhiều người có lòng yêu nước cao, hăng hái ủng hộ cương lĩnh Việt Minh kết hợp vấn đề độc lập dân tộc với những biện pháp cải cách ôn hoà.
Tuy nhiên, uy tín Đảng trong trí thức giảm sút nghiêm trọng vào đầu năm 1951, khi chiến dịch chỉnh huấn theo lối Trung Quốc khiến họ cảm thấy bị sỉ nhục trong những buổi phê và tự phê bình khi họ cố hoà hợp tinh thần yêu nước với những đòi hỏi khắt khe của tiêu chuẩn Maoist. Một số rời bỏ hàng ngũ. Một số không hài lòng việc bắt họ tuân theo kỷ luật đảng, hy sinh mục đích cá nhân trong kháng chiến. Như nhà văn - nhân sĩ Phan Khôi nhấn mạnh, vị ngọt của lòng yêu nước giống như đường trong tách café, đã pha nhạt vị đắng của lãnh đạo Đảng và sự cứu rỗi nhân cách của người trí thức.[5]
Tình thế khó xử này trở nên mạnh hơn sau hội nghị Geneva, khi vấn đề độc lập dân tộc được đặt trước vai trò Đảng lãnh vai trò lãnh đạo trung tâm. Chuyện nhà văn trẻ Trần Dần là một minh hoạ điển hình. Là cựu chiến binh Điện Biên phủ, Dần đã viết một tiểu thuyết theo phong cách hiện thực xã hội chủ nghĩa về kinh nghiệm chiến trường. Ngay sau khi ngừng bắn, ông được cử sang Trung Quốc tu nghiệp viết kịch bản phim dựa trên cuốn tiểu thuyết của ông. Ở đó, ông gặp nhà văn Hồ Phong, người chủ trương phải trao quyền tự do hơn cho các văn nghệ sĩ ở nước Trung Hoa mới. Về nước, Trần Dần sửa lại câu chuyện của mình, thay thế việc miêu tả chủ nghĩa anh hùng và tinh thần hy sinh bằng một câu chuyện hiện thực hơn về những gian khổ của tổ tam tam (3 người lính) với sự khủng khiếp của chiến tranh. Mùa Đông năm 1954-1955, cộng tác với vài đồng sự cùng chí hướng trong bộ phận tuyên huấn quân đội, ông thảo ra một bức thư “Những đề xuất về văn hóa chính trị”, dự định gửi tới Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trọng tâm của bức thứ, đòi được tự do hơn cho sự sáng tạo của trí thức để phản ánh sự thật về cuộc chiến tranh vừa qua mà họ đã chứng kiến.
Thoạt đầu, bản dự thảo có lẽ được một số sĩ quan cao cấp quân đội ủng hộ, nhưng cuối cùng ban tuyên huấn quân đội nhận thư chính thức bác bỏ. Người cầm đầu duy trì sự trong sạch về tư tưởng là nhà thơ Tố Hữu, người nổi tiếng về những bài thơ trong kháng chiến chống Pháp, nay là người lính canh gác trên mặt trận văn hoá, tư tưởng của Đảng. Là người lớn tiếng cổ suý cho phong trào “nghệ thuật vị nhân sinh”, ông có bài phát biểu quan trọng tháng 9-1949 ở Việt Bắc kêu gọi loại bỏ những ảnh hưởng phản động của phong kiến và tư bản trong nền văn hóa cách mạng Việt Nam non trẻ.
Trần Dần lập tức bị cánh tả tấn công, không những vì lời phát biểu đòi hỏi chấm dứt kiểm soát tư tưởng đối với sự sáng tạo của các nghệ sĩ ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, mà còn bị cáo buộc có “lối sống tư sản”. Bị khai trừ ra khỏi Đảng, ông bị giam ở nhà tù quân đội tại Hoàng Thành ở Hà Nội. Trần Dần viết:
“Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà,
chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ”.[6]
Nhưng sự xáo động do bức thư gây ra cộng với sự tàn bạo của chiến dịch cải cách ruộng đất và “sự tan băng” văn hoá ở Liên Xô do tác động bài phát biểu của Khrushchev chống Stalin tháng 2-1956, đã khích lệ nhiều trí thức khác. Mùa xuân năm đó, tạp chí Giai Phẩm Mùa Xuân bắt đầu ra đời, ít nhiều phê phán những chính sách của chính phủ. Tuy có ý kiến chính thức không tán thành, tạp chí vẫn tiếp tục ra vào mùa hè năm đó, khuyến khích sự ra đời của tạp chí thứ hai Nhân Văn vào tháng 9. Chủ bút của Nhân Văn, nhân sĩ Phan Khôi, một người tham gia phong trào cải cách của Phan Chu Trinh từ đầu thế kỷ. Lúc này, trí thức Việt Nam được chiến dịch “Trăm Hoa đua nở” ở Trung Hoa khích lệ, được nhà nước Trung Quốc chính thức tài trợ khuyến khích phát biểu công khai những thiếu sót của Đảng cộng sản và chính phủ Trung Quốc. Nhà thơ Hoàng Cầm đã viết một bài phê phán chính quyền đàn áp Trần Dần và bảo vệ Trần Dần trước những lời phê bình. Những bài báo khác trong hai tạp chí miêu tả nỗi thống khổ của thân nhân những người bị tù trong cải cách ruộng đất và lề thói quan liêu.
Sự đả kích tàn dư chiến dịch cải cách ruộng đất, những lời yêu cầu phê và tự phê bình xuất phát từ Moscow và Bắc Kinh khiến những người nắm công tác tư tưởng trong Đảng chưa thể ra tay đàn áp. Trên thực tế, Hội nghị X tháng 9-1956 ra thông cáo kêu gọi nới rộng tự do dân chủ, đồng thời tháng 12-1956 sắc lệnh của chủ tịch Hồ Chí Minh bảo đảm tự do trong giới hạn của báo chí. Trường Chinh kêu gọi hình thành một nền văn hoá Việt Nam mới mang hình thức dân tộc và nội dung xã hội chủ nghĩa. Chẳng ai hiểu Trường Chinh nói thế nghĩa là gì. Khi một trí thức kêu ca với Trường Chinh vì không được tự do ngôn luận, Chinh ngạc nhiên đáp: “Thế à, nhưng các anh chẳng được tự do thoải mái phê phán chủ nghĩa đế quốc sao?”
Nhưng cuộc bạo động ở Quỳnh Lưu gây nên lo ngại trong những lãnh đạo Đảng ở Hà nội, đến cuối năm, tạp chí Nhân Văn và Giai Phẩm buộc phải đóng cửa. Báo Nhân Dân kêu gọi Đảng kiểm soát chặt trí thức, bắt buộc phải học về chủ nghĩa Marx - Lenin. Phan Khôi bị khai trừ ra khỏi Hội Nhà Văn và cuối cùng bị bắt. Ông chết trong tù trước khi ra toà. Trần Dần bị khai trừ khỏi Đảng, nhưng ông tự nhận mình trung thành với ý tưởng không tưởng “là người cộng sản ngoài đảng”.[7]
Không dễ dàng đánh giá vai trò của Hồ trong cả hai vụ cải cách ruộng đất và đàn áp trí thức. Những người ủng hộ Hồ vạch ra ông không trực tiếp can dự việc này, kiên trì thuyết phục những nhà lãnh đạo đảng cao cấp cần phân biệt cẩn thận giữa những người lầm đường, có thể đưa họ đi đúng đường và những phần tử thực sự phản động, phải bị cắt bỏ như ung thư khỏi cơ thể xã hội Việt Nam. Nhưng những nhà phê phán đáp trả, dù không trực tiếp cầm dao, ít ra Hồ cũng đã tạo điều kiện cho những đao phủ. Có dấu hiệu cho thấy ngay cả sau khi ông được thông báo về hậu quả trong hai chiến dịch, ông chẳng thèm dùng uy tín tuyệt đối của mình giảm nhẹ tác động hậu quả này.
Dù cá nhân Hồ không thể hiện dùng những biện pháp tàn bạo chống lại đối thủ hoặc kẻ thù, ông cũng bỏ qua những hành động đó của thuộc hạ vì lợi ích lớn hơn của sự nghiệp. Hồ Chí Minh biết một số trí thức bị tấn công trong chiến dịch mà ông có quen biết - ông thỉnh thoảng cũng đứng ra can thiệp, nhưng thường không có hiệu quả. Một người thân của một trí thức là nạn nhân của chiến dịch thông báo cho tôi biết Hồ cố gắng thay đổi quy chế đối xử trong tù của vị trí thức đó. Có thể nói, Hồ Chí Minh đã trở thành tù nhân do chính ông tạo ra, như một con ruồi kẹt trong trong chai, không có khả năng thoát khỏi logic nghiệt ngã của hệ thống sẵn sàng “hy sinh” cá nhân cho “những mục đích cao cả” của kế hoạch lớn.[8]
Mặc dù Hà Nội chỉ quan tâm nhiều đến bài phát biểu chống Stalin của Khrushchev đầu năm 1956, nhưng Đại hội lần thứ XX Đảng cộng sản Liên Xô còn có nhiều nghị quyết quan trọng về chính sách cùng chung sống hòa bình với phương Tây. Khi đánh giá chính sách mới, Khrushchev lập luận chỉ có cách này mới tránh được cuộc xung đột hạt nhân, có thể dẫn đến cái chết của hàng triệu người cho cả hai bên chỉ vì do khác biệt hệ tư tưởng.
Chiến lược cùng chung sống hoà bình của Moscow không làm Hà Nội hứng thú, vì họ cho Liên Xô không để mắt tới cuộc đấu tranh cách mạng dẫn tới thống nhất hai miền Việt Nam. Lúc đó, chủ trương mới đó cũng phù hợp chính sách của Hà Nội, vì tháng 8-1955 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã khẳng định một lần nữa mong muốn tìm cách thống nhất bằng phương pháp hoà bình. Đầu năm 1956, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chấp thuận đề nghị của Trung Quốc tái nhóm họp Hội nghị Geneva để thảo luận việc thi hành.
Dù vậy, vấn đề này cũng còn đang tranh cãi trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp Đảng. Cuối mùa đông 1956, một đoàn đại biểu do Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng dẫn đầu đã bí mật vào miền Nam tham khảo với những người lãnh đạo Việt Minh ở đó. Chủ tịch Ban Chấp hành Đảng miền Nam (thay thế Văn phòng Trung ương Nam Việt, giải tán sau Hiệp định Geneva) là Lê Duẩn, một đảng viên kỳ cựu, người chỉ đạo hoạt động ở đó từ khi Nguyễn Bình bị đẩy ra Bắc năm 1951. Mục tiêu chuyến đi của Văn Tiến Dũng xây dựng những căn cứ địa cách mạng, xem xét nhu cầu củng cố lực lượng, cũng như tạo thuận lợi liên minh chính thức với hai nhân vật chống đối của hai giáo phái.
Là con trai thợ mộc ở Quảng Trị, bắc cố đô Huế, Lê Duẩn thiếu nền tảng học vấn và truyền thống gia đình trí thức như nhiều thành viên của Đảng, ngoại trừ vài người trong số này như Hồ Chí Minh xuất thân từ tầng lớp Nho giáo. Tuy dáng vẻ mảnh khảnh, điệu bộ cứng nhắc, nhưng Duẩn lại thừa tự tin, ông được coi là nhà tổ chức tài năng, người phát ngôn cho quyền lợi của phong trào miền Nam. Mặt khác, một số đồng chí nhận xét ông là người kiêu ngạo, không chịu lắng nghe ý kiến khác với ý ông.[9]
Hoạt động dưới bí danh anh “Ba”, đại diện cao cấp Ban Chấp hành Trung ương Cục ở các tỉnh miền Nam ngay sau khi kết thúc chiến tranh Thái Bình Dương, Lê Duẩn là sự lựa chọn thích hợp để giữ chức vụ lãnh đạo phong trào ở Nam Việt Nam. Ông toàn tâm cống hiến cho sự nghiệp thống nhất quốc gia, nhưng cũng là người thực dụng, trong những cuộc họp Ban Chấp hành khu vực, ông lập luận thao thao bất tuyệt về áp dụng một chiến lược thực tế không những ở hoàn cảnh miền Nam mà còn ở quốc tế nữa. Một mặt, ông tìm cách kìm chế những người nôn nóng muốn quay lại ngay với chiến lược dùng trong kháng chiến chống Pháp, ông nói, lực lượng vũ trang của Đảng chưa đủ sức. Mặt khác, ông hoài nghi giải pháp hoà bình, cho rằng cuối cùng vẫn phải sử dụng hình thức bạo lực. Ông nói, những hoạt động chính trị ở miền Nam, “đôi khi sẽ được hỗ trợ bằng những hành động quân sự để thể hiện sức mạnh của đội quân từng chiến thắng ở Điện Biên Phủ”. Tháng 3-1956, Lê Duẩn giao cho Văn Tiến Dũng một kế hoạch quân sự sẵn sàng quay lại chính sách đấu tranh vũ trang. Sau khi Văn Tiến Dũng ra về, Ban Chấp hành Đảng Bộ miền Nam thông qua tăng cường lực lượng quân sự địa phương, bao gồm thành lập 20 tiểu đoàn chủ lực và các đội du kích địa phương ở thôn xã có cảm tình với cách mạng.
Đề nghị của Lê Duẩn về đấu tranh vũ trang ở miền Nam đến Hà Nội đúng lúc ban lãnh đạo đảng tích cực thảo luận đường lối chung sống hoà bình của Moscow. Đầu tháng 4-1956, Phó thủ tướng Liên Xô, Anastas Mikoyan, đến Hà Nội để giải thích với Việt Nam quan điểm của Moscow về tình hình thế giới. Đây là lần đầu tiên một nhân vật cao cấp Liên Xô tới thăm Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, một vị khách chắc chắn được Việt Nam nồng nhiệt đón tiếp. Hai tuần lễ sau khi Anastas Mikoyan về nước, Hội nghị lần thứ IX Ban Chấp hành Trung ương Đảng tuyên bố chính thức phê chuẩn những nghị quyết của Đại hội lần thứ XX Đảng cộng sản Liên Xô. Nhưng Trường Chinh, người vẫn còn giữ chức Tổng bí thư thời gian đó, thú nhận, không phải tất cả các uỷ viên Trung ương đồng ý với quan điểm đó. Ông nhấn mạnh “Có một số người vẫn chưa tin vào sự đúng đắn của chương trình chính trị này và chính sách hoà bình thống nhất của đất nước, cho rằng đó là ảo tưởng và cải lương”.[10]
Không rõ có phải Trường Chinh ám chỉ Lê Duẩn, đại diện Đảng Bộ ở miền Nam không. Dù thế nào đi nữa, chính Hồ Chí Minh cũng theo quan điểm này. Dù ông công khai kêu gọi các chiến hữu quan tâm đến giải pháp hoà bình khi có cơ hội, ông vẫn tin vấn đề dân tộc phải ưu tiên hàng đầu và vẫn chưa sẵn sàng quay lại sử dụng bạo lực nếu điều đó dẫn đến việc thống nhất. Ngày 24-4-1956, phát biểu tại Hội nghị IX, Hồ tuyên bố, nhân dân Việt Nam hiểu “tầm quan trọng” những quyết định đưa ra ở Moscow và sự lớn manh của lực lượng hoà bình thế giới. Tuy nhiên, ông kết luận: “Trong khi nhận thấy chiến tranh có thể không xảy ra, chúng ta cần phải thận trọng theo sát mưu đồ của bọn gây chiến. Chừng nào chủ nghĩa đế quốc còn, nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại”. Ông vạch ra, trong một số trường hợp con đường tới chủ nghĩa xã hội có thể là con đường hoà bình, nhưng chúng ta phải nhận rõ thực tế:
“Ở những nước nơi bộ máy nhà nước, quân đội, cảnh sát của giai cấp tư sản còn mạnh thì giai cấp vô sản cần chuẩn bị đấu tranh vũ trang. Do vậy, trong khi nhìn nhận khả năng thống nhất bằng phương pháp hoà bình, nhân dân Việt Nam đừng quên rằng kẻ thù chính của chúng ta là đế quốc Mỹ và tay sai của chúng đang chiếm nửa nước đang tích cực chuẩn bị chiến tranh. Vì thế, trong khi chúng ta giương cao ngọn cờ hoà bình, chúng ta đồng thời phải cảnh giác cao độ”.[11]
Quan điểm của Hồ Chí Minh phù hợp với nghị quyết được Hội nghị thông qua, nói rằng trong khi một số dân tộc có khả năng tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng phương pháp hoà bình, đôi khi một cuộc chiến tranh ác liệt có thể khó tránh được, vì thế giai cấp công nhân cần phải sẵn sàng tình huống này. Do vậy Moscow đã nhận xét, mặc dù các nước đồng minh chưa sẵn sàng trực tiếp đối đầu Khrushchev về vấn đề cùng chung sống hoà bình, nếu cần thiết, vui lòng xác định chiến lược đem đến giải pháp thành công cho cuộc đấu tranh vì giải phóng dân tộc và thống nhất ở Việt Nam.
Tán thành tuyên bố của Đại hội lần thứ XX Đảng cộng sản Liên Xô về chính sách chung sống hoà bình, Hội nghị IX bác bỏ đề nghị của Lê Duẩn đặt những bước đầu tiên chủ trương đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Dù thế vẫn không chấm dứt được những cuộc tranh cãi trong nội bộ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về hướng đi thích hợp cho miền Nam. Một bài xã luận dài đăng trên báo Nhân Dân giữa tháng 7-1956 nhận xét nhiều người vẫn còn nuôi “ý thức hệ phức hợp và ảo tưởng” về vấn đề này. Một số có “ý nghĩ đơn giản” tin tưởng Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức. Bây giờ họ thất vọng và bi quan. Một số khác”không muốn tiến hành cuộc chiến đấu lâu dài gian khổ”, tiếp tục hy vọng thống nhất là điều này có thể đạt được bằng biện pháp hoà bình.
Những người thất vọng nhất chắc chắn là đa số cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc sau Hội nghị Geneva để huấn luyện và học tập ý thức hệ Marxist, chiến thuật cách mạng. Để xoa dịu, trong bức thư ngỏ tháng 6-1956, Hồ Chí Minh giải thích cho họ chính sách tìm cách thống nhất bằng phương pháp hoà bình. Ông cảnh báo, cuộc đấu tranh sẽ khó khăn kéo dài và có thể không thành công nếu miền Bắc trước tiên không đủ sức mạnh làm hậu phương vững chắc. Ông nói, đấu tranh chính trị chính nghĩa chắc chắn chiến thắng. Nhưng “để xây dựng một ngôi nhà tốt, chúng ta phải xây dựng nền móng tốt”. Bình luận của Hồ về xây dựng miền Bắc có tiếng vang tới nhiều độc giả. Mùa Xuân năm đó, Bắc Việt Nam gặp nạn đói, cũng như thiếu những chuyên viên lành nghề giúp đỡ xây dựng kinh tế. Những hiệp định ký với Trung Quốc cung cấp viện trợ kỹ thuật xây dựng cơ sở công nghiệp nhẹ ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhưng trong khi đó, nhân dân cần phải được nuôi ăn trước. Một nhà thơ vừa đi thăm các tỉnh đồng bằng sông Hồng, viết:
Tôi qua làng
Kiến An,
Hồng - Quảng
bốn mùa biển lộng
Nơi đây
trận cuồng phong
tàn phá đã hai năm
Bờ đê quai
sụt lở
nước biển
trắng đồng
trắng ngõ
Đồng lúa
giờ thành
ruộng muối
Lay lắt nơi đây
thoi thóp qua ngày
củ khoai,
củ sắn
Các trẻ thơ
trơ xương
Bát cháo cám
thay
bát cơm gạo mới thơm hưong.[12]
Những người lãnh đạo đảng đã tư vấn những cán bộ chủ chốt trong ban lãnh đạo miền Nam về vấn đề thống nhất trước khi họp Hội nghị IX, Trường Chinh quở trách họ về sự thiếu kiên nhẫn. Nhưng những nghi ngờ về giải pháp hoà bình thống nhất đất nước vẫn dai dẳng ở Hà Nội. Tháng 6-1956, sau khi cuộc họp về chủ đề này, Bộ Chính trị ra nghị quyết nhan đề “Tình hình và nhiệm vụ của cách mạng ở miền Nam”. Bản nghị quyết nhận xét, do Nam Việt Nam trở thành một thuộc địa kiểu mới của Mỹ, cần phải tính đến áp dụng chính sách đấu tranh vũ trang để tự vệ. Dù vậy, Bộ Chính trị kết luận, vấn đề thời gian là quan trọng với chiến lược đấu tranh chính trị. Trong một bức thư gửi nhân dân Việt Nam vào tháng Bẩy, Hồ Chí Minh nói, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ tiếp tục cố gắng theo đuổi thống nhất đất nước bằng phương pháp hoà bình theo cơ chế Hiệp định Geneva.[13]
Là uỷ viên Bộ Chính trị, Lê Duẩn chắc chắn tham dự Hội nghị tháng 6-1956. Nếu vậy, ông phải truyền đạt lại chỉ thị quan điểm của Hà Nội cho các đồng chí của ông ở miền Nam. Mùa hè năm đó, ông viết một cuốn sách mỏng “Con đường cách mạng miền Nam” trình bầy những quan điểm của ông về chủ đề này. Vể mặt ngoài, những đề xuất của ông trùng với quan điểm của những người ủng hộ chính sách hoà bình trong nội bộ Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị. Lê Duẩn tuyên bố, tại giai đoạn hiện tại, cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam. Chính sách hiện nay đấu tranh chính trị một cách hoà bình ở miền Nam phù hợp với thực tế hiện tại, do bộ máy Đảng ở miền Nam còn yếu và cũng phù hợp với những quyết định đưa ra tại Đại hội XX ở Moscow và tình hình thế giới.
Tuy nhiên, việc Lê Duẩn nhấn mạnh tầm quan trọng chủ trương chính trị có chút giả dối, vì trọng tâm tranh cãi của ông lại nhằm vào chủ trương cần phải tăng cường mạnh mẽ cách mạng ở miền Nam. Dù không chính thức đi trệch chính sách hiện thời, ông vạch ra có sự khác biệt đáng kể giữa chính sách cải lương dựa trên “đấu tranh công khai và nghị trường” và với đấu tranh chính trị do phong trào cách mạng “xây dựng lực lượng cách mạng quần chúng”. Ông lập luận, là đội tiên phong của cách mạng, Đảng phải lãnh đạo quần chúng (ở đây ông dùng bài học Cách mạng tháng Tám năm 1945) cướp chính quyền. Nếu không, cơ hội may mắn lật đổ chế độ phản động Sài Gòn có thể bị lỡ.
Theo Lê Duẩn, bài học quý giá thu được từ Cách mạng tháng Tám là cần phải sẵn sàng cho tổng khởi nghĩa bằng cách xây dựng lực lượng cách mạng có đủ sức mạnh chính trị và quân sự. Lê Duẩn kết luận, đáng tiếc nhiều cán bộ có trách nhiệm dẫn dắt phong trào “vẫn chưa hiểu rõ sức mạnh của quần chúng cách mạng”, do vậy không lãnh đạo được quần chúng.[14]
Đầu năm 1956, Trung Quốc và Liên Xô thoả thuận cần phải có một thời kỳ hoà bình, ổn định quốc tế làm nền tảng để hai nước kiến thiết đất nước. Tháng 2-1956, cả Moscow lẫn Bắc Kinh kêu gọi Hà Nội chấp nhận đề nghị họp lại hội nghị Geneva như một chiến thuật giải cứu tiến trình hòa bình có nguy cơ đổ vỡ ở Đông Dương. Nhưng đề xuất của hai nước này chết yểu, do Anh, đồng chủ tịch với Liên Xô, không đồng ý họp lại hội nghị bởi Sài Gòn tuyên bố họ không phải là người tham gia ký hiệp định và không có trách nhiệm thi hành những điều khoản này. Liên Xô vì đã giao cho Trung Quốc trách nhiệm giải quyết mớ bòng bong ở Đông Dương nên chẳng có hành động nào cả. Còn Bắc Kinh đang bận tâm với những vấn đề nội bộ, nên cũng tảng lờ.
Tuy vậy, mùa Thu năm 1956 mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô bắt đầu lan sang những vấn đề khác. Giới lãnh đạo Trung Quốc bực tức việc Liên Xô can thiệp mạnh mẽ vào Đông Âu để ngăn cản bất ổn xã hội ở Ba Lan và Hungary. Điều này trái với quan điểm Trung Quốc, mâu thuẫn giữa các dân tộc nên được giải quyết bằng thương lượng dựa trên nguyên tắc bình đẳng và không can thiệp. Theo quan điểm Bắc Kinh, những cuộc bạo động chống lại chính quyền cộng sản ở Đông Âu là hậu quả trực tiếp bài phát biểu của Khrushchev hạ bệ Stalin, phá hoại uy tín đảng cộng sản, đội tiên phong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Để thể hiện phần nào ủng hộ quan điểm Trung Quốc về vấn đề cùng chung sống hoà bình, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mời Chu Ân Lai tới Hà Nội. Chu Ân Lai, có mối quan hệ từ lâu với Hồ Chí Minh, đến Hà Nội ngày 18 tháng 11 trong chuyến dừng chân đầu tiên đi thăm các nước Châu Á, Chu Ân Lai nêu vấn đề thống nhất Việt Nam. Chu Ân Lai đồng ý cần phải phối hợp hành động thực hiện những điều khoản hội nghị Geneva, nhưng ông né tránh nói cụ thể những gì sẽ được thực hiện. Khi lãnh đạo Việt Nam ép ông phải đòi hội nghị Geneva họp lại, Chu Ân Lai mập mờ nói, “sẽ nghiên cứu”.
Cuối cùng Việt Nam thấy rõ chuyến thăm của Chu Ân Lai chủ yếu do Bắc Kinh muốn tranh thủ sự ủng hộ của Việt Nam đối với Trung Quốc trong mâu thuẫn phát sinh với Liên Xô. Những người lãnh đạo Trung Quốc nói riêng bực bội việc Liên Xô đem quân lật đổ chính quyền ôn hoà Imre Nagy ở Hungary. Trong những phát biểu công khai tại Hà Nội, Chu Ân Lai bóng gió nói tới mối nguy hiểm của “chủ nghĩa sô-vanh nước lớn” ám chỉ những hành động của Liên Xô ở châu Âu và tầm quan trọng những mối quan hệ tương hỗ dựa trên năm nguyên tắc cùng chung sống hoà bình do Trung Quốc và Ấn Độ đề xuất hai năm trước đây.
Sự bực dọc của Bắc Kinh đối với xu hướng Moscow sai khiến các nước thành viên phe xã hội chủ nghĩa chắc chắn được nhiều nhà lãnh đạo Đảng ở Hà Nội đồng tình. Một số cảm thấy sỉ nhục vì chính sách cùng chung sống hoà bình của Khrushchev, coi đó là sự đầu hàng trước kẻ thù giai cấp, nên mới có mối quan hệ chặt chẽ hơn với Trung Quốc. Nhưng Hồ Chí Minh cho rằng cần duy trì những mối quan hệ thân mật với cả Trung Quốc lẫn Liên Xô, trong thông cáo chung về chuyến thăm chính thức của Chu Ân Lai không gián tiếp hoặc trực tiếp đả kích Liên Xô.[15]
Sau khi Chu Ân Lai ra về, Hội nghị toàn thể lần thứ XI Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 12-1956. Lê Duẩn tham dự hội nghị, chắc chắn ông bảo vệ quan điểm của mình trong cuốn sách “Con đường cách mạng miền Nam” trước các đại biểu dự họp. Những năm gần đây cuốn sách của Lê Duẩn xuất hiện ở Hà Nội được coi có “tầm quan trọng đặc biệt” trong lịch sử phong trào cách mạng Việt Nam, có thể đề xuất của Lê Duẩn làm cho cuộc thảo luận sôi nổi hơn, nhưng dường như không có tác động đến sự chuyển hướng tức khắc đường lối chung của Đảng. Bài xã luận đăng trên tạp chí Học Tập, tạp chí lý luận của Đảng, ít ngày sau khi kết thúc hội nghị toàn thể, nói rằng củng cố miền Bắc vẫn còn là nhiệm vụ trọng tâm: “Chúng ta không cho phép chiến thắng miền Nam phá hỏng yêu cầu củng cố miền Bắc”.
Không rõ vai trò của Hồ Chí Minh trong những cuộc tranh luận ra sao. Phát biểu trước Quốc Hội đầu năm 1957, ông nhấn mạnh quan điểm của ông trong thời gian này, xây dựng trong nước phải được ưu tiên, yêu cầu thống nhất Việt Nam đặt sau nhiệm vụ củng cố miền Bắc làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, mặc dù “lâu dài và gian khổ” nhưng nhất định thắng lợi.
Hội nghị cũng cố gắng đáp ứng đề nghị của Lê Duẩn áp dụng chính sách bí mật xây dựng tổ chức cách mạng ở miền Nam và chính sách “trừ gian”, trừng trị có chọn lọc bọn phản cách mạng. Dù Hồ Chí Minh luôn chống lại sử dụng bừa bãi khủng bố làm công cụ cho hành động cách mạng, từng làm trong thời gian kháng chiến chống Pháp. Bây giờ Ban Chấp hành Trung ương tán thành chính sách cụ thể hơn chương trình khủng bố có giới hạn để bảo vệ bộ máy cách mạng ở miền Nam bằng cách gây khiếp sợ vào hàng ngũ kẻ thù, tạo sự tin tưởng của quần chúng vào cách mạng.[16]
Hội nghị toàn thể lần thứ XI vào tháng 12-1956 là bước đi đầu tiên chấp thuận chủ trương quyết tâm thống nhất hai miền. Cũng tháng đó, Ban Chấp hành Đảng bộ miền Nam họp xem xét chỉ thị tháng 6-1956 của Bộ Chính trị kêu gọi chuẩn bị củng cố khả năng tự vệ của phong trào để hỗ trợ đấu tranh chính trị chống lại chế độ Sài Gòn. Lời văn của tài liệu của Ban Chấp hành, “qua chỉ dẫn Trung ương” bây giờ cho thấy chắc chắn chiến tranh cách mạng “là con đường duy nhất đúng đắn” dẫn đến thống nhất đất nước. Vài tháng sau, những hoạt động khủng bố trực tiếp chống lại những quan chức chính phủ và những nhân vật then chốt ở miền Nam tăng lên rõ rệt. Những nguồn tin chính thức ở Hà Nội tuyên bố mục tiêu của họ nhằm vào những quan chức tham nhũng, địa chủ độc ác và bọn phản bội. Trên thực tế, nhiều nạn nhân là những quan chức và giáo viên nổi tiếng, hiền lành và những những người được coi là nguy hại tới phong trào cách mạng vì họ làm nâng cao tính hợp pháp của chính phủ Sài Gòn trong con mắt dân chúng địa phương.
Có lẽ dấu hiệu rõ ràng nhất cho kỷ nguyên mới đang hé lộ vào đầu năm 1957, khi Lê Duẩn bất ngờ được chọn làm Tổng bí thư Đảng Lao động Việt Nam. Sau khi Trường Chinh bị cách chức tại Hội nghị X mùa Thu năm trước, Hồ Chí Minh đã giữ chức vụ này một cách miễn cưỡng. Hồ đã giữ hai chức vụ, Chủ tịch Đảng và Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ khi trở về Hà Nội tháng 10-1954. Ông tích cực quan tâm vấn đề chính sách đối ngoại và thống nhất đất nước, nhưng ít quan tâm đến điều hành công việc trong nước và Đảng, chỉ đưa ra những lời khuyên với các đồng sự tại những phiên họp Bộ Chính Trị, đồng thời trao quyền xử lý cho những đồng sự trẻ hơn là Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Trường Chinh.
Lý do chọn Lê Duẩn làm Tổng bí thư đã gây ra nhiều cuộc tranh cãi. Một số tin Lê Duẩn là người có tài tổ chức, tận tụy, có tầm nhìn chiến lược, nhờ nó mà có khi Duẩn được gọi là “Cụ Hồ miền Nam”. Một số khác coi đó là biểu hiện của việc thừa nhận tầm quan trọng của cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Là người miền Nam, Duẩn đại diện cho tất cả nhân dân sống phía Nam khu phi quân sự. Hoặc có lẽ còn có lý do Lê Duẩn là người ngoài cuộc, không đe doạ tới quyền lực của Hồ Chí Minh và Trường Chinh, đang hy vọng giữ lại những ảnh hưởng của mình ở Bộ Chính trị trong kỷ nguyên Lê Duẩn. Một số cho Lê Duẩn hơn Võ Nguyên Giáp vì ông từng ở tù vài năm, vốn được coi là “trường học lớn” của Đảng, vì nhiều người đã phải trả nợ máu trong nhà tù Pháp. Giáp không những không bị tù mà lại còn bị mang tiếng đã nộp đơn xin đi học ở Pháp.[17]
Vì sao Lê Duẩn được thăng chức vẫn còn nhiều uẩn khúc. Dù thế nào đi nữa, sự bổ nhiệm này phải có sự đồng ý của Hồ Chí Minh, bảo đảm người kế nghiệp của ông sẽ có ưu thế cao cho vấn đề thống nhất. Lê Duẩn giữ vị trí đứng đầu Ban Chấp hành, Hồ bây giờ có thời gian tập trung vào vấn đề ngoại giao và quan hệ với phe xã hội chủ nghĩa, cũng như viết báo về những chủ đề khác nhau. Sau khi hai năm giấu danh tính thực của mình, ở tuổi sáu mươi bẩy, cuối cùng Hồ thừa nhận, ông thực là nhà cách mạng nổi tiếng Nguyễn Ái Quốc và tiểu sử chính thức bất ngờ xuất hiện trên những ấn phẩm ca ngợi sự cống hiến suốt đời của ông cho tổ quốc. Trong khi sự phát giác này hoàn toàn làm ngạc nhiên nhiều người Việt Nam thì những người gần gũi ông đã nhận ra danh tính thực của ông. Tháng 6-1957, ông về thăm làng Kim Liên, nơi chôn rau cắt rốn, nơi ông ra đi nửa thế kỷ trước đây.[18]
Trong khi giới lãnh đạo Bắc Việt Nam đang vật lộn tránh việc chia cắt Việt Nam vĩnh viễn thì giới lãnh đạo Liên Xô xem đó là việc đã rồi. Đầu năm 1957 Liên Xô bất ngờ đề xuất kết nạp hai miền Việt Nam vào ở Liên Hợp Quốc coi như là hai quốc gia riêng biệt. Hà Nội, có lẽ không được báo trước, nên khi nghe tin đã bị choáng và ngay lập tức chính thức lên tiếng phản đối. Ngay sau đó, Đại hội Đồng Liên Hợp Quốc, bằng đa số phiếu, kết nạp Việt Nam Cộng Hoà vào Liên hợp quốc. Phạm Văn Đồng viết thư phản đối tới Liên Xô và Anh, hai đồng chủ tịch hội nghị Geneva và vấn đề được đem ra bàn tại Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc. Trong lúc vấn đề vẫn còn chưa ngã ngũ, giữa tháng Năm, Kliment Voroshilov, chủ tịch Chủ Tịch Đoàn Xô viết Tối Cao Liên Xô và là một người bạn lâu năm của Stalin, đến thăm chính thức Hà Nội.
Có một số bàn tán về mục đích chuyến đi, vì chuyến đi này được đưa ra ở phút cuối cùng sau khi Kliment Voroshilov dừng chân tương đối nhàn nhã ở Trung Hoa và Indonesia. Việt Nam có lẽ muốn thăm dò quan điểm Liên Xô về việc thống nhất đất nước, trong khi mục tiêu của Liên Xô lại là thuyết phục Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tránh những hành động thù địch có thể dẫn đến chiến tranh ở Đông Dương. Đôi khi, Voroshilov công khai kêu gọi Việt Nam duy trì chính sách thúc đẩy “thống nhất trong hoà bình” giữa hai miền.
Lời kêu gọi về chủ trương ôn hoà vấn đề thống nhất đất nước không được đón nhận nồng nhiệt ở Việt Nam. Để xoa dịu sự bực tức của Hà Nội, Voroshilov tuyên bố tăng viện trợ kinh tế cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, bảo đảm với lãnh đạo Việt Nam, Liên Xô sẽ không chấp thuận Việt Nam Cộng Hoà được kết nạp vào Liên Hợp Quốc. (Tháng Chín, Liên Xô dùng quyền phủ quyết tại Hội Đồng Bảo An phủ quyết đề xuất kết nạp cả hai miền Việt Nam vào Liên Hợp Quốc, vấn đề này bị hoãn lại vô thời hạn. Báo chí chính thức ở Hà Nội tuyên bố vắn tắt, Liên Xô đã có “thái độ đúng đắn”).[19]
Chuyến thăm Hà Nội của Voroshilov mang lại sự căng thẳng do Liên Xô vụng về đề xuất chấp nhận cả hai miền Việt Nam vào Liên Hợp Quốc, nhưng sự rạn nứt lớn giữa hai nước về vấn đề thống nhất Việt Nam vẫn còn tiếp diễn. Theo một quan sát viên nước ngoài sống ở Hà Nội, tâm lý chống Liên Xô đang lan rộng trong hàng ngũ lãnh đạo Đảng, một số vấn đề nghị sự trong chuyến thăm của Voroshilov bị huỷ bỏ hoặc đón tiếp với lễ nghi tối thiểu để tránh tình huống bất đồng lộ ra trước mắt công chúng.[20]
Đối với Hà Nội, bất cứ sự bất hoà nào trong mối quan hệ với Moscow có thể thành thảm họa, do Việt Nam Dân chủ Cộng hoà dựa vào Liên Xô không những viện trợ tài chính để xây dựng kinh tế trong nước và hiện đại hoá quân đội mà còn dựa cả vào ủng hộ ngoại giao. Tháng 7-1957, Hồ Chí Minh lên đường tới Moscow thảo luận với giới lãnh đạo Xô viết nhiều vấn đề then chốt. Trên đường, ông dừng tại Bắc Kinh, Mao Trạch Đông khẳng định quan điểm Trung Quốc, việc thống nhất hai miền Việt Nam có thể hoãn đến một thời gian thích hợp. Chuyến đi kéo dài gần hai tháng, dừng chân ở vài nước Đông Âu và Bắc Triều Tiên. Hồ trở về Hà Nội tháng Chín, tuyên bố với nhân dân Việt Nam, ông đã đạt được “thống nhất quan điểm” với các nước phe xã hội chủ nghĩa.[21]
Tình hình có vẻ khó khăn. Vài tuần sau, Hồ dẫn đầu đoàn đại biểu gồm Lê Duẩn và Phạm Hùng tham dự Hội nghị những Đảng cộng sản Quốc tế anh em ở Moscow tháng 11. Thành phần của đoàn quan trọng, vì có cả Lê Duẩn và Phạm Hùng hai người sinh ra và lớn lên ở miền Nam, Hùng từng là phó của Lê Duẩn tại bộ máy Đảng ở miền Nam hội nghị Geneva. Rõ ràng, vấn đề thống nhất đất nước sẽ là mối quan tâm lớn của Việt Nam tại Moscow.
Mục tiêu chủ yếu Hội nghị những Đảng cộng sản quốc tế anh em ở Moscow tháng 11, đạt được một thoả thuận của các nước xã hội chủ nghĩa về vấn đề chuyển tiếp hoà bình lên chủ nghĩa xã hội. Trung Quốc chống lại quan điểm Liên Xô, vì Trung Quốc lo giải quyết vấn đề vấn đề Đài Loan từ khi cuộc hội đàm Trung - Mỹ về Đài Loan đổ vỡ thêm nghi ngờ ban lãnh đạo mới ở Moscow sẵn sàng phản bội lợi ích cách mạng thế giới dưới chiêu bài cùng chung sống hoà bình. Theo Mao, những thành tựu ở Liên Xô chứng tỏ ưu thế kỹ thuật của phe xã hội chủ nghĩa đối với phe tư bản. Mao nói “Gió đông thổi bạt gió tây”, Moscow nên dùng ưu thế của mình đóng vai trò tích cực hơn lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc toàn cầu. Một cuộc tranh cãi lớn về vấn đề này đã đi đến thoả hiệp. Theo nguồn tin Trung Quốc, thoạt đầu, dự thảo của Liên Xô không nói gì về chuyển tiếp không hoà bình sang chủ nghĩa xã hội, nhưng sau khi thảo luận với các đại biểu thì được sửa đổi. Thông cáo cuối cùng vạch rõ “trong trường hợp giai cấp bóc lột sử dụng bạo lực chống lại nhân dân, cần phải xem xét khả năng khác - chuyển tiếp không hòa bình lên chủ nghĩa xã hội. Lenin đã dạy và lịch sử đã chứng minh, tầng lớp thống trị không bao giờ tự nguyện từ bỏ quyền lực”.[22]
Không rõ vai trò của Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam trong việc thảo ra bản Tuyên ngôn của Hội nghị như thế nào. Các báo cáo của Đức và Ý cho biết Tuyên Ngôn được thảo ra do thảo luận giữa Liên Xô và Trung Quốc, với chút ít tham gia của các đại diện đảng khác. Nhưng ngôn từ trong Tuyên Ngôn khá gần với văn phong mà Hồ Chí Minh phát biểu tại Hội nghị IX vào tháng 4-1956, điều này cho thấy có lẽ ông có vai trò chính đem lại thoả hiệp của hội nghị. Dù thế nào đi nữa, nguồn tin Việt Nam cho biết, đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà muốn thể hiện rõ quan điểm của mình, mặc dù chuyển tiếp hoà bình lên chủ nghĩa xã hội đôi khi xảy ra, nhưng chính sách “bạo lực cách mạng” vẫn là quy luật chung.[23]
Sau hội nghị, Lê Duẩn trở lại Hà Nội, nhưng Hồ Chí Minh vẫn còn ở lại Moscow hội đàm thêm với các nhà lãnh đạo Xô viết. Không rõ ông thảo luận chủ đề gì, nhưng dường như họ bàn về sự rạn nứt đang bắt đầu giữa Liên Xô và Trung Quốc về vấn đề cùng chung sống hoà bình và sự lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa. Sự chia rẽ Trung - Xô có thể ảnh hưởng tiêu cực đến Việt Nam, vì Mỹ có thể kích động hai nước cộng sản lớn chống lẫn nhau. Để ngăn cản sự chia rẽ, trong chuyến qua Đông Âu vào tháng 9-1957, Hồ bày tỏ quan điểm, sự thống nhất quan điểm trong những nước cộng sản là vì lợi ích tốt nhất của phe cách mạng. Trong một bài báo đăng trên tờ Sự Thật (Pravda của Liên Xô) tháng 11-1957, ông kêu gọi các nước xã hội chủ nghĩa cần thống nhất dưới sự lãnh đạo của Liên Xô, quan điểm ông phát biểu nhiều lần trước Xô viết Tối Cao Liên Xô ở Moscow. Nhưng bài báo của ông nhấn mạnh tầm quan trọng chiến thuật cách mạng thích đáng trước những hoàn cảnh cụ thể của từng nước.[24]
Ngay khi Lê Duẩn và phái đoàn về Hà Nội cuối tháng 11-1957, họ đã hội ý với Bộ Chính trị. Ngày 1-12-1957, Việt Nam Thông Tấn Xã tuyên bố, các nhà lãnh đạo Đảng hài lòng về kết quả thu được ở Moscow và bày tỏ sự tin tưởng vào sự duy trì đoàn kết của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Người ta hoài nghi về cái gọi là sự đoàn kết phe xã hội chủ nghĩa liệu có thực tồn tại hay không, khi mà những bất đồng đang tăng lên xuất hiện trong hàng ngũ những người lãnh đạo của Đảng trước những vấn đề trong sự nghiệp thống nhất đất nước. Trong ba năm, những người lãnh đạo đảng đã duy trì sự đồng thuận mỏng manh tạm hoãn những bước tiến ban đầu xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa để củng cố quyền lực và đợi tình hình thống nhất đất nước trở nên rõ ràng hơn. Bây giờ, những kế hoạch thống nhất bị hoãn vô thời hạn, một số lãnh đạo cao cấp của đảng - do Trường Chinh cầm đầu, người đang cố gắng duy trì ảnh hưởng của mình trong Bộ chính trị dù đã bị cách chức - bắt đầu đòi tiến hành ngay việc chuyển hoá lên xã hội chủ nghĩa ở cả thành thị và nông thôn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước cuối thập niên 1960.
Vấn đề này được tranh luận tại sôi nổi Hội nghị Toàn Thể mở rộng lần thứ XIII Ban Chấp Hành Trung ương đầu tháng 12-1957. Bề ngoài, lý do Hội nghị để nghe báo cáo kết quả Hội nghị các đảng cộng sản anh em ở Moscow, nhưng chủ đề chính mang ra thảo luận bản dự thảo của Bộ Chính Trị về kế hoạch ba năm bắt đầu chuyển lên xã hội xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Báo chí cho thấy việc chấp thuận kế hoạch này không phải “hoàn toàn nhất trí”. Sau khi kết thúc Hội nghị, những người lãnh đạo đảng phát động chiến dịch giải thích nghị quyết và chấm dứt “tư tưởng băn khoăn về mối quan hệ gần gũi giữa nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và công cuộc giải phóng dân tộc ở miền Nam”.[25]
Những tranh cãi tại Hội nghị toàn thể lần thứ XIII chắc chắn phức tạp do sự xuất hiện của Lê Duẩn với tư cách Tổng bí thư. Việc đưa lên một người tương đối trẻ trong hàng ngũ lãnh đạo có thể không khiến một số người lãnh đạo đảng cao cấp bực tức. Dưới mắt Trường Chinh, Lê Duẩn là kẻ hãnh tiến chiếm vị trí đầy quyền lực của ông - đứng sau Hồ Chí Minh và là người thông thái về tư tưởng của Đảng. Ngoài ra, sự quan tâm rõ ràng của Lê Duẩn trong cuộc đấu tranh ở miền Nam đe doạ làm chệch hướng những kế hoạch của Trường Chinh bắt đầu xây dựng thể chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trường Chinh cố gắng lôi kéo những người ủng hộ ông trong Bộ Chính Trị và Ban Chấp hành Trung ương chấp thuận kế hoạch ba năm như một cách dằn mặt Lê Duẩn. Đối với Võ Nguyên Giáp, người vừa trải qua những cuộc tranh luận mới đây về sự lãnh đạo của Đảng, những đề xuất táo bạo của Lê Duẩn tiến hành đấu tranh ở miền Nam đã cắt bớt quyền hành của Giáp với tư cách là nhà chiến lược quân sự hàng đầu phong trào cách mạng Việt Nam. Ngoài ra, việc Lê Duẩn khát khao tăng cường hoạt động cách mạng ở miền Nam có nguy cơ lôi Quân đội Nhân Nhân Việt Nam vào một cuộc xung đột (theo quan điểm của Giáp) vẫn chưa được chuẩn bị. Bài bình luận trên báo Nhân Dân đầu tháng 11 viết,”một số đồng chí” phải nhận thấy sự kiểm soát của Đảng với quân đội là hoàn toàn có lợi. Có thể đây là lời nhắn nhủ của Lê Duẩn đối với Giáp.[26]
Hồ Chí Minh không có vai trò trong cuộc tranh cãi này, thực ra ông cũng chẳng có mặt tại cuộc họp. Sau chuyến đi tới Moscow họp Hội nghị Đảng cộng sản toàn thế giới, ông tiếp tục tới Bắc Kinh, để “nghỉ ngơi”. Sự vắng mặt lâu và khó hiểu của ông khiến Hà Nội đồn rầm ông đã bị cách ly trung tâm những sự kiện mới đây hoặc thậm chí đã chết ở Liên Xô. Một số cho ông có chủ định ở xa để buộc các đồng chí chấp nhận lời khuyên của ông. Vẫn chưa có những giải thích nào hợp lý tại sao ông vắng mặt trong thời điểm nhạy cảm này. Có tin ông tới Trung Hoa chữa bệnh, thực tế, chuyến đi lang thang khiến ông không dự hội nghị toàn thể lần thứ XIII - một hội nghị có tác động lớn đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Dù ông vắng mặt với bất cứ lý do gì đi nữa, nhưng khi trở về Hà Nội ngày 24-12-1957, Hồ Chí Minh chấp thuận quyết định ưu tiên xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Một tuần sau khi về nước, nhân dịp chúc mừng năm mới ông tuyên bố, thời kỳ khôi phục kinh tế ở miền Bắc đã chấm dứt, mở đường tới kỷ nguyên mới bằng phát triển kinh tế theo kế hoạch. Ông nói đây là “một tiến bộ mới trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân chúng ta”. Năm ngày sau, báo Nhân Dân tuyên bố, bây giờ có hai cuộc cách mạng - cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Hội nghị các cán bộ chủ chốt đã họp để vạch ra quá trình chuyển tới giai đoạn xã hội chủ nghĩa của cách mạng. Nhưng vẫn còn rơi rớt những nghi ngờ. Tháng 3-1958, Trường Chinh phàn nàn, “một số người” vẫn không hiểu tầm quan trọng của thành tựu chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là sự chuẩn bị cho giải phóng miền Nam. Phát biểu với đại diện Mặt trận Tổ quốc, Chinh kêu gọi cách mạng văn hoá để đào tạo trí thức mới phục vụ xã hội trong kỷ nguyên mới. Giải thích lý do qua quyết định phát động chương trình, Thủ tướng Phạm Văn Đồng - có lẽ là một trong số đồng minh của Trường Chinh lúc này - tuyên bố “miền Bắc mạnh hơn” giúp dân tộc Việt Nam mạnh hơn trong cuộc đấu tranh vì thống nhất đất nước, đồng thời “con đường làm cho miền Bắc mạnh hơn chính là con đường xã hội chủ nghĩa”.[27]
Lúc này, vai trò thống lĩnh của Hồ Chí Minh trong Đảng đã yếu đi. Quá trình này có thể bắt đầu khi ảnh hưởng của Trung Quốc tăng lên đối với phong trào đầu thập niên 1950 và tăng nhanh sau Hội nghị Geneva, khi các đồng chí của ông sôi sục không thống nhất trong hoà bình thất bại. Sự xuất hiện của Lê Duẩn là hình ảnh quan trọng nhất trong sân khấu chính trị, điều này làm giảm sút quyền lực của những người khác.
Dù bị Trường Chinh qua mặt trong cuộc tranh cãi chính sách tại hội nghị toàn thể lần thứ XII, Lê Duẩn không phí thì giờ để củng cố quyền lực của mình trong bộ máy Đảng. Vài tháng sau, những người ủng hộ Trường Chinh và Hồ Chí Minh bị loại bỏ ra khỏi vị trí quyền lực, thay thế bằng những người mới. Công cụ của Lê Duẩn để thanh lọc những người chống đối là Lê Đức Thọ, đồng sự cũ của ông.
Sinh ở Nam Định năm 1911 trong một gia đình Nho giáo, Lê Đức Thọ (tên thật Phan Đình Khải) đã tham gia phong trào cách mạng cuối thập niên 1920, nhưng chẳng bao lâu bị bắt, cầm tù gần hai thập niên. Ra tù năm 1945, ông được cử đến Nam Kỳ, phó của Lê Duẩn dưới bí danh “Sáu” trong kháng chiến chống Pháp. Tầm nhìn hạn hẹp, thái độ xảo quyệt, hình ảnh khắc khổ trong con mắt người ngoài, Thọ nhanh chóng được tặng biệt danh là “Sáu Búa” vì cách xử rắn với các đồng chí. Dù Thọ ghen tị với Lê Duẩn có vị trí cao hơn trong Đảng, nhưng hai người cộng tác hiệu quả, khi Lê Duẩn lên chức, Thọ theo Lê Duẩn ra Hà Nội, làm Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng, một vị trí chẳng bao lâu ông biến thành một bộ máy hiệu quả để điều tra và kiểm soát những hoạt động của các đảng viên cao cấp.
Lê Đức Thọ có một đối thủ có khả năng làm người khác khiếp sợ, ghê tởm ở Hà Nội, đó chính là Trần Quốc Hoàn, một quỷ sứ của Đảng. Sinh 1910 ở tỉnh Quảng Ngãi[28], Hoàn tiến thân trong chiến tranh Pháp - Việt, làm Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ năm 1953. Vừa thiếu văn hóa vừa thiếu trí t