CHƯƠNG XV TẤT CẢ CHO TIỀN TUYẾN
dịch giả: lâm hoàng mạnh - nguyễn học
CHƯƠNG XV
tất cả cho tiền tuyến
ới quyết định đưa ra tại Hội nghị toàn thể lần thứ XV tháng 1-1959, ban lãnh đạo Đảng chính thức phải từ bỏ chính sách chờ đợi thận trọng và bây giờ đặt việc thống nhất Việt Nam là vấn đề ưu tiên hàng đầu. Nhưng còn có những ý kiến không nhất trí, chính sách mới sẽ phải chính xác làm những gì. Một số cán bộ lãnh đạo tìm kiếm thắng lợi thông qua chiến lược phối hợp đấu tranh chính trị và quân sự như đã từng áp dụng trong Cách mạng tháng Tám năm 1945. Một số khác dự đoán có thể phải trở về chiến tranh quân sự trực tiếp như cuộc kháng chiến chống Pháp vừa qua.
Lúc đó, có khá nhiều câu hỏi chưa được giải quyết đối với bản dự thảo chiến lược cụ thể. Liệu chế độ Diệm có bị sụp đổ do tham nhũng và dốt nát không? Liệu Mỹ có phản ứng trước sự suy yếu của đồng minh tại Sài Gòn bằng cách tăng vai trò của mình không? Liệu các đồng minh của Hà Nội có sẵn lòng giúp đỡ cuộc xung đột ở Đông Dương không? - tất cả những câu hỏi cần được trả lời. Trong khi những câu hỏi này chưa được trả lời, các lãnh đạo đảng hoãn lại cuộc tranh cãi nội bộ về những vấn đề riêng và thoả hiệp với một đề xuất trong thời gian này chỉ giản dị gọi là “chiến tranh cách mạng”. Lê Duẩn, bây giờ nổi lên như một nhà chiến lược hàng đầu trong Bộ Chính trị, ông miêu tả lực lượng cách mạng ở miền Nam lúc đó tiếp tục chủ yếu dựa vào chiến lược đấu tranh chính trị, đồng thời mở rộng dần căn cứ địa cách mạng, xây dựng sức mạnh quân sự để đẩy phong trào lên phía trước.[1]
Quyết định của Hà Nội hạn chế vai trò bạo lực vũ trang ở miền Nam là do một phần mong muốn tránh mất mát nguồn nhân tài vật lực. Nhưng cũng còn có những yếu tố khác, kể cả mong muốn Liên Xô và Trung Quốc không gây nguy hiểm cho hoà bình. Mùa hè năm 1958, Hồ Chí Minh hội đàm với Mao Trạch Đông tại nhà nghỉ của Mao ở bãi biển Bắc Đới Hà về vấn đề Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nên tiến hành cuộc đấu tranh thống nhất hai miền Nam-Bắc như thế nào. Theo Mao “nhiệm vụ cấp bách nhất” tại thời điểm này là hoàn thành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Điều kiện ở Nam Việt Nam vẫn chưa chín muồi cho sự thay đổi đường lối cách mạng. Trong khi đó, Mao tin lực lượng kháng chiến ở Nam Việt Nam sẽ xây dựng sức mạnh chính trị và quân sự để chuẩn bị cho cơ hội đạt được một bước nhảy lớn về phía trước.[2]
Nhưng quyết định đưa ra tại Hội nghị toàn thể lần thứ XV, tháng 1-1959 cũng phản ánh Hà Nội gia tăng quan tâm nguy cơ Mỹ trực tiếp nhảy vào miền Nam. Từ khi thay Pháp làm người đỡ đầu chế độ Sài Gòn, chính quyền Eisenhower chưa từ bỏ âm mưu ngăn cản thống nhất hai miền. Không những Washington đeo đuổi xây dựng một căn cứ chống Cộng vững chắc ở miền Nam (tuyên bố của Ngoại trưởng Dulles ngay sau khi Hội nghị Geneva), Mỹ còn đặt các quốc gia mới ở Đông Dương dưới sự bảo hộ của Liên Minh Phòng Thủ Đông Nam A (SEATO) thành lập ở Manila năm 1954. Dù Việt Nam Cộng Hoà không phải là thành viên tổ chức này, một câu trong hiến chương tuyên bố, trong trường hợp Nam Việt Nam, Lào, hoặc Campuchia bị tấn công bằng vũ lực, tất cả các thành viên Liên Minh Phòng Thủ Đông Nam Á sẽ “hành động chống mối hiểm họa chung trong khuôn khổ hiến pháp nước mình”.
Trong thời gian này, các lãnh đạo đảng có những lý do thuyết phục thận trọng trong chủ trương với Nam Việt Nam. Thậm chí Lê Duẩn, một thành viên hiếu chiến trong Bộ Chính trị, bày tỏ quan điểm cá nhân, chiến lược sử dụng trong kháng chiến chống Pháp đã tập trung quá nhiều vào những chiến dịch quân sự và không nên lặp lại nữa. Trong những tháng còn lại năm 1959, nhiều chuẩn bị thận trọng đang diễn ra thuận lợi cho giai đoạn tiếp của cuộc đấu tranh. Từng nhóm cán bộ “tập kết” - những thanh thiếu niên sinh ra và lớn lên ở miền Nam nhưng được đưa ra miền Bắc sau hội nghị Geneva để huấn luyện kỹ thuật chiến tranh cách mạng - bây giờ được lệnh trở về miền Nam giúp đỡ phong trào nổi dậy với các cán bộ nòng cốt, trung thành, đầy kinh nghiệm. Khoảng 90.000 cán bộ tập kết ra miền Bắc năm 1954, phần đông được huấn luyện tại Trường Huấn luyện Xuân Mai gần Hà Nội, chuẩn bị cho quay về tiến hành chiến tranh cách mạng ở miền Nam. Một học viên kể lại:
Đây là quãng thời gian thú vị cho chúng tôi ở miền Bắc. Chúng tôi luôn luôn là những chiến sĩ kiên cường của Việt Minh, luôn luôn ngưỡng mộ Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo Việt Minh. Chuyến đi tới Bắc Việt Nam rất khó khăn và kéo dài, nhưng không bao giờ phàn nàn, vì chúng tôi biết những khó khăn của cách mạng.
Việc tập luyện của chúng tôi ở miền Bắc cũng rất khó khăn. Lương thực thực phẩm thiếu thốn, nhiều lúc chúng tôi cảm thấy cô đơn muốn quay trở về thăm gia đình và những người bạn thân. Nhưng rồi nhận ra chúng tôi không đơn độc khi tìm thấy sức mạnh trong cuộc đấu tranh cách mạng. Chúng tôi hiểu, không nên nghĩ quá nhiều và quá nhớ gia đình - phải giống như Hồ Chí Minh từng xa đất nước.[3]
Các nhóm cán bộ tập kết thâm nhập trở lại miền Nam, thường theo nhóm 40 đến 50 người, được xe tải chở tới vùng núi Nam Lào, sau đó đi bộ xuyên rừng vượt qua khu phi quân sự về hướng đông. Khi trở lại miền Nam, họ được bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo của bộ máy Đảng miền Nam. Đơn vị 559 (theo ngày thành lập đơn vị, tháng 5-1959) được chỉ thị xây dựng hệ thống đường mòn để đưa quân đội, vũ khí và tiếp liệu từ Bắc vào Nam. Những đường mòn - từng được khai phá trước đây xuyên qua rừng rậm trong kháng chiến chống Pháp - sau này nổi tiếng trên thế giới với cái tên Đường Mòn Hồ Chí Minh -. Nhóm thứ hai, mang tên Đơn vị 759, được lệnh vận chuyển hàng và người bằng tầu thuỷ trong chuyến đi dài ngày nhưng không được bảo vệ dọc biển Đông. Việc vận tải do Bộ đội Trường Sơn đảm nhận. Thoạt đầu họ gùi hàng hoặc bằng xe đạp thồ, về sau tuyến đường mòn được mở rộng, xe tải chạy được. Đây là công việc khá khó khăn. Nhưng một người nói “Càng đi sâu về phía Nam, tình hình càng tồi tệ. Cuối cùng chúng tôi chỉ giữ được vài cân gạo, để tự cứu mình những lúc khẩn cấp nhất. Suốt hai tháng trời, chúng tôi ăn những gì có thể kiếm được trong rừng - lá cây, các loại củ rừng, thú vật và chim rừng”.
Theo ghi chép của một người khác:
Ban đầu chúng tôi đi bộ tám giờ một ngày. Rừng núi mỗi ngày một hiểm trở, càng ngày đi càng chậm. Tuy mệt mỏi, nhưng chỉ khi nào giao liên và trưởng đoàn cho nghỉ mới được nghỉ. Những trạm tiếp đón thường là chỗ vắng vẻ và an toàn. Nhưng những trạm giao liên này không giống chỗ dừng chân nào đó ở thị xã hay thành phố. Chẳng có chỗ trú mưa, cũng chẳng có giường. Chúng tôi mắc võng, ngủ trên cây..
Trạm giao liên do những người đi trước lập ra. Tuy họ có chuẩn bị thực phẩm và nước nhưng thường xuyên thiếu thốn. Vì thế mọi người tự học cách tiết kiệm. Càng đi xa càng đói. Khi thức ăn trở nên khan hiếm, tình đồng chí cũng bị mòn theo. Ai cũng chỉ lo mạng sống của mình.[4]
Tin tức những quyết định đưa ra tại Hội nghị toàn thể lần thứ XV tháng 1-1959 và được khẳng định qua Nghị Quyết XV tháng 5-1959 chỉ tới tay những đồng chí ở miền Nam từ cuối tháng 6-1959. Nhiều người phấn khởi đón nhận, vì chế độ Diệm bắt đầu tăng cường nỗ lực đàn áp phong trào cách mạng bằng một loạt những chỉ thị mới được gọi là Luật 10-59, cho phép lực lượng an ninh Sài Gòn thêm quyền bắt bớ và trừng phạt những người đối lập. Trong thời gian còn lại của năm, các toà án lưu động đi khắp miền Nam, buộc tội, kết án và thỉnh thoảng xử tử những người tình nghi có quan hệ chính trị với Hà Nội. Vì những gia đình nông dân ở vùng đông dân đồng bằng Cửu Long bây giờ bị dồn vào ấp chiến lược và phòng vệ mạnh mẽ, nên du kích khó tiếp cận được dân chúng.
Bị dồn vào chỗ tuyệt vọng, những người lãnh đạo nổi dậy tìm mọi cách phản ứng lại. Cuối tháng Tám, đám đông dân làng ở những khu vực nghèo đói thuộc tỉnh Quảng Ngãi tập họp phản đối cuộc bầu cử sắp diễn ra Quốc Hội Việt Nam Cộng hoà. Những người biểu tình, được lực lượng Việt Cộng hoạt động trong vùng hỗ trợ, đã tạm thời chiếm 16 thôn ở huyện Trà Bồng, một vùng núi ở sườn đông Tây Nguyên, lập ra một vùng giải phóng gồm 50 làng với dân số hơn một ngàn người.
Năm tháng sau, cuộc khởi nghĩa thứ hai nổ ra, lần này ở Kiến Hoà (Việt Cộng gọi là tỉnh Bến Tre) nằm giữa đồng bằng Cửu Long. Dân chúng địa phương có cảm tình với cách mạng từ kháng chiến, khi đó Việt Cộng chiếm những trang trại của những địa chủ thân Pháp và chia cho dân nghèo. Sau Hiệp định Geneva, bọn địa chủ quay lại, dưới họng súng quân đội chính phủ lấy lại đất của họ, sau đó thỉnh thoảng có những cuộc trả thù hung bạo (kẻ cả bắt và tống giam) chống lại người chiếm đất trước đây. Tháng 1-1960, lực lượng du kích địa phương do Việt Cộng chỉ huy bất ngờ tấn công đồn bốt quân đội chính phủ và với sự giúp đỡ của dân địa phương chiếm hơn một chục ấp. Các cán bộ đảng vạch kế hoạch, vũ trang cho những người cảm tình bằng giáo mác hoặc gậy tầm vông chiến đấu làm kẻ thù sợ hãi và điều những đơn vị đóng giả binh sĩ Sài Gòn tới các ấp khác nhau chiếm cơ quan hành chính. Một người miêu tả sự việc này:
Khoảng sau 9 giờ tối, tôi vừa về đến trụ sở thì nghe tiếng trống và đám đông đi từ làng này sang làng khác, bao vây khắp nơi, theo sau tiếng hò reo ầm ĩ của nhân dân… Càng về đêm tiếng trống, tiếng mõ càng thôi thúc kêu gọi tất cả mọi người vùng lên. Đó là tín hiệu của nhân dân để cuộc chiến đấu được chuyển đi mọi nơi… Bất thình lình, có tiếng kêu to: “Bốt cháy rồi. Cháy nhanh quá”.
Các lực lượng vây đồn được lệnh đốt tất cả các đồn bốt họ chiếm được. Nhân dân xé cờ ba sọc, đốt biển số nhà và sổ đăng ký. Trên đường, dân làng chặt cây dựng chướng ngại vật chặn đường kẻ thù… Tại tất cả các bốt đang bị bao vây. Nhân dân kêu gọi binh lính bằng loa điện cầm tay. Đây là một đêm sấm sét kinh hãi và tấn công sấm sét của Việt Cộng trên đầu họ. Bị tấn công bất ngờ, binh sĩ sợ hãi, ẩn nấp trong bốt.[5]
Nhịp độ cuộc kháng chiến vũ trang ở Nam Việt Nam tăng lên gây ra những vấn đề cho các lãnh đạo Đảng ở Hà Nội, đang lo lắng đến sự rạn nứt khi xung đột mở rộng. Để trấn an Liên Xô và Trung Quốc, trong bài phát biểu tháng 4-1959, Lê Duẩn tuyên bố, điều quan trọng là phải hạn chế bạo lực cách mạng ở Nam Việt Nam. Lê Duẩn thừa nhận, tầm quan trọng giữ gìn hoà bình trên thế giới và tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tạo ra “những phức tạp” đối với cách mạng ở Nam Việt Nam, nhưng về lâu dài những nhân tố này sẽ có lợi cho sự nghiệp thống nhất đất nước.[6]
Trong khi đó, Hồ Chí Minh thể hiện là nhà ngoại giao xuất sắc, cố gắng tranh thủ sự đồng minh của Hà Nội trong nỗ lực thống nhất đất nước. Đây là thời gian căng thẳng ngày càng gia tăng giữa Trung Quốc và Liên Xô về chiến lược toàn cầu. Giận dữ với thái độ không hợp tác của Bắc Kinh, Moscow chính thức từ chối yêu cầu của Trung Quốc về mẫu bom nguyên tử, như đã hứa trong hiệp định tương hỗ ký vài năm trước đây. Sau này, Bắc Việt Nam đã nhận ra cách làm thế nào sử dụng đồng minh này chống đồng minh kia một cách hiệu quả, thay cho trước đây họ chỉ biết cầu xin hai đồng minh giữ tình đoàn kết anh em. Đầu tháng 7-1959, Hồ Chí Minh tới Moscow hội đàm với giới lãnh đạo Xô viết. Trước khi rời Hà Nội ông cảnh báo Bộ Chính trị, cuộc đấu tranh ở miền Nam sẽ khốc liệt và rất phức tạp. Ông khuyên không nên phiêu lưu một cách mù quáng.[7]
Đây không phải là thời điểm tốt đẹp để thảo luận về việc tiếp tục đấu tranh cách mạng ở Nam Việt Nam. Nikita Khrushchev đang sửa soạn chuyến đi Mỹ vào tháng 9-1959, không muốn làm mất mặt Mỹ. Liên Xô cam kết viện kinh tế cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhưng về vấn đề thống nhất đất nước, Liên Xô nhấn mạnh, cần phải thực hiện hoà bình trong những điều khoản Hiệp định của Geneva.
Sau cuộc hội đàm với giới lãnh đạo Xô viết, Hồ lưu lại thêm một thời gian ngắn ở Moscow chữa bệnh (nghe nói sức khoẻ ông tốt hơn so với những năm trước), đi thăm một số nước cộng hoà thuộc Liên Xô, qua Ukraine, Crum và Kavkaz. Cuối tháng 7-1959 ông đi tàu hoả qua Trung Á tới Alma-Ata, thủ đô Cộng Hoà Xô viết Kazakhstan. Ngày 1-8-1959, từ đó ông bay tới Urumqi, thủ phủ Tân Cương, Trung Quốc.
Hồ phải lưu trú lâu ở Liên Xô vì Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc đang triệu tập cuộc hội nghị kiểm điểm, do vậy không thể gặp Hồ. Hội nghị họp ở Lư Sơn, một khu nghỉ mát ở nam Trung Hoa, nhằm mục tiêu giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ lãnh đạo về chính sách Đại Nhảy Vọt. Phát động một năm trước đây với mục tiêu tăng sản lượng nông nghiệp, đẩy mạnh xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, chiến dịch Đại Nhảy Vọt bị sự chống đối của nông dân và gây nạn đói lớn ở nông thôn. Tại Hội nghị Lư Sơn, Bộ trưởng Quốc phòng Bành Đức Hoài, Tư lệnh Quân Đội Giải Phóng Quân Nhân Dân tại chiến tranh Triều Tiên, do bất bình với Mao Trạch Đông đã phê bình chiến dịch Đại Nhẩy Vọt gây thảm hoạ cho nền kinh tế Trung Quốc. Ông cũng lên tiếng bảo vệ mối quan hệ quân sự Trung - Xô để chống lại những người muốn thay thế nó bằng với chính sách tự lực. Do sự liều lĩnh và dũng cảm của mình, Bành Đức Hoài bị cách chức, thay bằng nguyên soái Lâm Bưu, tướng lĩnh hàng đầu, Tư lệnh quân đội trong nội chiến và bây giờ một trong những đồng minh thân cận nhất của Mao Trạch Đông.
Hồ Chí Minh lưu lại Urumqi ít ngày, sau đó đi tàu hoả tới Tây An, nơi mùa thu năm 1938, ông đến đó với tư cách một du khách. Cuối cùng ông tới Bắc Kinh ngày 13-8-1959. Do Mao vẫn chưa trở lại Bắc Kinh, Hồ gặp Chu Ân Lai và Lưu Thiếu Kỳ, hai ông thông báo cho Hồ, Trung Quốc vẫn giữ quan điểm chiến tranh của mình ở nam Việt Nam nên chỉ giới hạn ở đấu tranh chính trị và các hoạt động vũ trang ở mức thấp, mặc dù họ chấp nhuận quyết định chiến lược đấu tranh cách mạng của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hồ trở lại Hà Nội ngày 26-8-1959.[8]
Hồ Chí Minh có thể không hài lòng về kết quả ít ỏi trong chuyến đi nước ngoài dài ngày. Cả Liên Xô và Trung Quốc không tán thành trước việc phá vỡ Hiệp định Geneva, họ cũng chẳng thể hiện quyết tâm ủng hộ quyết định của Hà Nội dùng chính sách bạo lực cách mạng để hoàn thành nhiệm vụ thống nhất đất nước. Hồ cũng giận cách đối xử của Trung Quốc, khi Mao Trạch Đông thậm chí không về Bắc Kinh tiếp ông. Nhưng Hồ phần nào đã quen hạ mình trước các đồng chí Trung Hoa, tuy thỉnh thoảng, trước các đồng chí của mình, ông chế nhạo Mao Trạch Đông là “Ông Trời con”. Nhưng sự coi thường đó chẳng mấy chốc được bỏ qua. Mùa Thu năm đó, ông dẫn đầu đoàn đại biểu chính thức đi thăm Bắc Kinh dự lễ kỷ niệm 10 năm thành lập nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Sau khi gặp bà Tống Khánh Linh, người bạn cũ và ân nhân của mình, Hồ đã hội ý với Mao ngày 3-10 và về nước ngày hôm sau. Trong một bài báo đăng trên tờ Nhân Dân tháng đó, Hồ kêu gọi nhân dân học tập kinh nghiệm Trung Quốc và đời đời cám ơn sự ủng hộ của Trung Quốc trong cuộc đầu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam.[9]
Trong khi Hồ Chí Minh đang tư vấn với hai nước đồng minh về chính sách đối ngoại, thì các đồng chí của ông bận tâm với những vấn đề trong nước. Kế hoạch ba năm nhằm xây dựng nền tảng xã hội xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đang diễn ra tương đối thuận lợi, nói chung không có bạo lực và bất hoà như trong chương trình Cải cách ruộng đất. Việc không xảy ra bạo lực trong chiến dịch tập thể hoá chắc chắn làm Hồ Chí Minh hài lòng vì ông kêu gọi các lãnh đạo Đảng tránh sự cưỡng bức và sử dụng “phương pháp dân chủ” để giáo dục nông dân tin vào sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hồ luôn cho biện pháp thuyết phục tốt hơn sử dụng bạo lực ở thành thị, nơi khối công nghiệp và thương mại đã nằm trong tay nhà nước và sở hữu tập thể. Trong một hội nghị Đảng đánh giá tình hình, Hồ đấu tranh với quan điểm một số người hiếu chiến cho giai cấp tư sản là đối thủ của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Bắc Việt Nam, ông tranh cãi, giai cấp tư sản đã đi theo quần chúng, có thể chuyển hoá hoà bình và tự nguyện trở thành những thành viên của giai cấp công nhân. Thật khó biết chắc ý kiến của Hồ trong những cuộc họp Đảng có sức nặng bao nhiêu. Ảnh hưởng của Hồ đối với những quyết định về nội tình việc trong nước đã suy giảm nhiều, các cán bộ lãnh đạo đảng chủ chốt đã quyết định, ông nên dành nhiều thời gian cho chính sách đối ngoại và vấn đề thống nhất đất nước.[10]
Cuối năm 1959, phần lớn kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở thành thị và nông thôn đã được cải tạo theo đường lối xã hội chủ nghĩa, giới lãnh đạo đảng bắt đầu nghĩ tới bước tiếp theo - một kế hoạch năm năm kiểu Liên Xô, bắt đầu quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Không những kế hoạch cần những nỗ lực lớn mà còn phải kết hợp với cuộc đấu tranh ở miền Nam ngày càng gia tăng, vì thế giới lãnh đạo đảng đã quyết định triệu tập Đại hội Đảng toàn quốc để công khai thảo luận kế hoạch và cách thức đảm vảo kế hoạch này được chấp thuận. Tháng 10-1959, bắt tay vào công việc chuẩn bị Đại hội, dự kiến sẽ khai mạc vào cuối mùa Hè hoặc mùa Thu 1960.
Trong lúc ấy, căng thẳng giữa Liên Xô và Trung Quốc ngày càng gia tăng. Tại Đại hội Đảng cộng sản Rumani tháng 6-1960, mâu thuẫn Trung - Xô lần đầu tiên bùng ra công khai làm thế giới ngỡ ngàng, khi cả hai bên công kích nhau kịch liệt. Sau hội nghị, Moscow ra lệnh rút chuyên gia ở Trung Quốc về nước. Đoàn đại biểu Việt Nam ở Bucharest có lẽ tán thành quan điểm Khrushchev, giữ im lặng khi Liên Xô đả kích quan điểm Trung Quốc về chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh thế giới. Lê Duẩn, dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam tại Đại hội, phát biểu ngắn ủng hộ đường lối Trung Quốc cho rằng đế quốc Mỹ âm mưu kích động một cuộc chiến tranh thế giới mới. Nhưng Hà Nội cũng không đứng về bên nào trong sự rạn nứt ngày càng tăng giữa Liên Xô và Trung Quốc về chiến lược những nước xã hội chủ nghĩa áp dụng trong chiến tranh lạnh. Xã luận báo Nhân Dân sau Đại hội công khai đưa vấn đề này và cảnh báo, việc mất đoàn kết trong Cộng sản thế giới có thể rất có hại cho Đảng và sự thống nhất Việt Nam.
Hà Nội cố gắng không để mâu thuẫn Liên Xô và Trung Quốc gây hại cho lợi ích của mình, bản thân Hồ Chí Minh tận dụng cơ hội để không làm mất lòng hai bên. Tháng 5-1960, Hồ bay tới nam Trung Hoa để kỷ niệm sinh nhật 70 tuổi và nghỉ ít ngày. Ngay sau khi về nước, ông viết một bài đăng trên báo Nhân Dân ủng hộ “những chính sách đúng đắn” của Liên Xô. Tháng 8-1960, ông có chuyến thăm bí mật Moscow và Bắc Kinh, mục đích để có được sự đảm bảo của hai nước này đối với những quyết định Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở miền Nam, đồng thời kêu gọi họ cố gắng giảng hoà mối bất đồng.
Đại hội lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam họp ở Hà Nội ngày 5-9-1960. Tham dự có 576 đại biểu đại diện cho hơn nửa triệu Đảng viên cả hai miền. Với tư cách chủ tịch Đảng, Hồ phát biểu khai mạc, đề cập sơ qua sai lầm của Đảng trong Cải cách ruộng đất (ông cho biết Đảng đã tích cực sửa chữa những thiếu sót và không “hoa mắt với thắng lợi”), ông chủ yếu nói về tương lai, tuyên bố nhiệm vụ quan trọng cho vài năm tới, đưa miền Bắc trên đường tiến tới chủ nghĩa xã hội. Ông nhấn mạnh, sự bảo đảm tốt nhất cho cách mạng Việt Nam là “tự thấm nhuần chủ nghĩa Marx - Lenin, luôn luôn trung thành với những lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, giữ gìn sự đoàn kết, sự thống nhất trong Đảng, giữa tất cả những Đảng cộng sản anh em và tất cả các nước trong đại gia đình xã hội chủ nghĩa”. Ông nói tương đối ít về miền Nam - gọi là “thành đồng tổ quốc” - nhưng nhận xét Đảng hy vọng để đạt được thống nhất đất nước bằng phương pháp hoà bình.[11]
Phát biểu của Hồ thu hút sự chú ý và giúp chính thức phê chuẩn kế hoạch năm năm đặt nền tảng tiến bộ kỹ thuật cho xã hội xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh thống nhất đất nước không bỏ quên. Nghị quyết Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ này có tầm quan trọng tương đương với các mục tiêu của Đảng năm năm tới. Nhưng rõ ràng giới lãnh đạo đảng vẫn không tỏ ra nhất trí tiến trình ở miền Nam sẽ như thế nào. Đọc báo cáo chính trị trước Đại hội, Lê Duẩn phân tích tình hình, ông tránh đi vào cụ thể, chỉ nhận xét, đó là “cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ, không giản đơn mà phức tạp, phối hợp nhiều hình thức đấu tranh”, đòi hỏi sự mềm dẻo, chuyển từ dạng hoạt động công khai sang bí mật. Ông tuyên bố, vũ khí chính sẽ là sức mạnh quần chúng. Ông không đề cập tới khả năng can thiệp của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hội nghị tán thành đề nghị của Bộ Chính trị đưa ra kế hoạch 5 năm công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Dù vậy, có dấu hiệu cho thấy tranh luận về chiến lược ở miền Nam không hoàn toàn dịu đi. Phát biểu trước các đại biểu, Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh, một số đồng chí hoàn toàn không nhận thức những âm mưu của Mỹ và bọn tay sai Sài Gòn, vạch ra rằng họ “không hiểu trong khi chính sách bảo vệ hoà bình và thống nhất đất nước bằng phương pháp hoà bình, chúng ta vẫn phải luôn luôn cảnh giác, chuẩn bị đối phó với mọi hành động của kẻ thù”.
Cuối cùng, Đại hội Đảng toàn quốc III thông qua danh sách lãnh đạo mới. Lê Duẩn chính thức được bầu Bí thư thứ nhất (thay thế chức danh cũ Tổng bí thư Đảng Lao động Việt Nam, rập khuôn Đảng cộng sản Liên Xô). Hồ Chí Minh vẫn giữ chức chủ tịch Đảng. Sự thăng tiến của Lê Duẩn chỉ vì bản thân Hồ tin vấn đề thống nhất đất nước sẽ được quan tâm nhiều hơn trong thập niên tới. Một dấu hiệu thêm nữa cũng tầm quan trọng, bây giờ ba uỷ viên Bộ chính trị người miền Nam - Lê Duẩn, Phạm Hùng và Nguyễn Chí Thanh. Là người có tài và nhiều tham vọng, Thanh được thăng đại tướng cuối thập niên 1950, tương đương với đối thủ Võ Nguyên Giáp. Không như Giáp, Thanh hoạt động nhiều về chính trị, từng là Tổng cục trưởng Cục Chính trị, có trách nhiệm duy trì lãnh đạo tư tưởng trong quân đội. Uỷ viên Bộ chính trị hàng thứ tư là nhân vật đầy uy thế - Lê Đức Thọ - tuy không phải người miền Nam, nhưng từng là phó của Lê Duẩn trong kháng chiến chống Pháp.[12]
Đại hội III không chính thức đả động đến mâu thuẫn Trung-Xô, (đoàn đại biểu cả hai nước đều tham dự) vấn đề không nổ ra tranh cãi tại phiên họp công khai. Tuyên bố sau khi kết thúc Đại hội tiếp tục coi Liên Xô người lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa, nhưng đối với những người lãnh đạo hiếu chiến của phe cánh Lê Duẩn đang giữ quyền lãnh đạo, Hồ cố duy trì cân bằng mối quan hệ của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với hai nước đàn anh, bây giờ đang rất căng thẳng. Hồ đã góp một phần làm dịu căng thẳng với tư cách người trung gian trong những cuộc thảo luận giữa Liên Xô và Trung Quốc tại Đại hội. Nhưng cả hai nước đàn anh không sẵn sàng chấp thuận việc leo thang đang sôi sục ở Nam Việt Nam. Moscow từ chối ủng hộ Hồ toàn diện về vấn đề miền Nam Việt Nam và bác bỏ lời yêu cầu của Hồ làm dịu căng thẳng trong nội bộ phe xã hội chủ nghĩa. Trong chuyến thăm ngắn ngủi Hà Nội vào tháng Bảy, Chu Ân Lai kêu gọi Việt Nam mềm dẻo, sử dụng tối đa phương pháp đấu tranh chính trị để mang lại thắng lợi ở miền Nam.[13]
Các lãnh đạo Đảng tiếp tục đeo bám vấn đề làm thế nào đánh đổ chế độ Diệm mà Mỹ không can thiệp trực tiếp. Kinh nghiệm trong quá khứ cho thấy một tổ chức chính trị mới ở miền Nam cần phải chiếm một vai trò giống như vai trò Mặt trận Việt Minh trong cuộc đấu tranh chống Pháp trước đây. Trên thực tế, Hà Nội muốn có một mặt trận dân tộc thu hút tất cả những phần tử chống đối chế độ Sài Gòn, nhưng phải chịu sự chi phối của đảng. Mặt trận phải có cương lĩnh thu hút những người yêu nước tận tâm với sự nghiệp thống nhất Việt Nam mà không phải liên minh với những người ly khai ở miền Nam và nghi ngờ sự thống trị của miền Bắc. Cương lĩnh mặt trận phải thu hút những người ôn hoà không tin tưởng cộng sản về ý thức hệ và thực hành, nhưng lại ủng hộ công nhân và nông dân. Cương lĩnh cần phải giữ lời hứa giải phóng miền Nam khỏi bè lũ độc tài Ngô Đình Diệm không sợ đe dọa tức thời bị chế độ cộng sản miền Bắc thôn tính.
Lần đầu tiên dự án một mặt trận mới được Tôn Đức Thắng đề cập tại Đại hội III. Theo Tôn Đức Thắng, mặt trận dựa trên khái niệm Leninist liên minh bốn giai cấp, nhưng để thích hợp với sự phức tạp của xã hội Nam Việt Nam, bao gồm cả những tôn giáo khác nhau và các dân tộc thiểu số. Mục đích của nó động viên rộng rãi quần chúng. Nó nhấn mạnh vấn đề dân tộc chủ nghĩa và cải cách để đạt được mục đích cuối cùng tạo ra một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Bước đi quá độ sẽ là sự hình thành một chính phủ bao gồm tất cả những lực lượng tiến bộ trong xã hội miền Nam, một sự hợp tác cuối cùng sẽ thảo luận với miền Bắc vấn đề thống nhất đất nước. Mặt trận mới, giống như Mặt trận Việt Minh, cần phải được tổ chức ở các cấp khác nhau, từ Ban Chấp hành Trung ương xuống tới các đơn vị ở cấp thôn xã. Không đề cập đến chủ nghĩa cộng sản.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức thành lập ngày 20-12-1960, trong một hội nghị bí mật gồm những đại diện các tầng lớp xã hội khác nhau miền Nam “tại một địa điểm trong vùng giải phóng miền Nam Việt Nam”. Sự thật, hội nghị diễn ra ở những khu nhà nhỏ trong khu rừng rậm rạp của một đồn điền cao su dọc theo biên giới Campuchia, về sau khu vực này là nơi đóng bản doanh của Trung ương Cục. Gồm có sáu mươi đại biểu tham dự, đây là một sự kiện đáng nhớ. Theo Trương Như Tảng, một trí thức tham gia lễ thành lập, viết “tất cả những người có mặt trong gian nhà đơn sơ đều hiểu mình đang tham dự một sự kiện có ý nghĩa lịch sử”. Trên đường về Sài Gòn bằng xe đò, Tảng có cảm giác lâng lâng “một hy vọng dù nhỏ nhoi”. Vài tuần sau, tân tổng thống Mỹ, John Fitzgerald Kennedy nhậm chức. Trong lễ bàn giao, tổng thống Eisenhower tuyệt nhiên không đả động gì đến những hoạt động nổi dậy ngày càng tăng ở miền Nam Việt Nam.[14]
Trên thực tế, dù Dwight Eisenhower không nhận thức được việc đó thì sự oán giận chống lại Ngô Đình Diệm và người em trai lạm quyền Ngô Đình Nhu ngày càng tăng lên trong nhiều thành phần xã hội miền Nam. Nông dân bất mãn vì tham nhũng và phải nộp tô quá cao. Giới Phật Giáo giận dữ trước việc chính phủ thiên vị Thiên Chúa Giáo, cũng như nhân dân các dân tộc ít người, Hoa kiều, các giáo phái và người Thượng ở Tây Nguyên bất mãn trước sự độc tài của chính quyền Ngô Đình Diệm. Lên tiếng chống đối mạnh là trí thức tại Sài Gòn và nhiều thành phố khác đả kích chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm. Bản hiến pháp, thảo ra năm 1956 với sự giúp đỡ của cố vấn Mỹ, chỉ còn là mớ giấy lộn.
Phong trào kháng chiến phát triển nhanh chóng ở Nam Việt Nam khiến các nhà lãnh đạo Đảng ở Hà Nội tin rằng cần phải tổ chức lại guồng máy cách mạng sẵn có. Giữa tháng 1-1961, ngay sau cuộc đảo chính quân sự lật đổ chế độ Diệm bất thành ở Sài Gòn, Bộ Chính trị họp đánh giá tình hình, đưa ra những chỉ thị hoạt động trong tương lai. Bộ Chính trị kết luận, thời kỳ ổn định ở miền Nam đã qua, các nhà lãnh đạo Đảng kêu gọi đẩy mạnh đấu tranh cả về chính trị và quân sự chuẩn bị cho một cuộc nổi dậy có thể đến bất cứ lúc nào. Không còn có sự lựa chọn nào nữa để giải quyết hoà bình trong các vấn đề. Cho dù Hồ Chí Minh đồng ý với những kết luận đó theo những điều khoản chung, ông tiếp tục nhắc các đồng chí của ông không được phát động một cuộc nổi dậy còn non yếu hoặc sử dụng quá mạnh những hoạt động quân sự. Ông khuyên, hãy chuẩn bị đầy đủ, khi gặp thời cơ sẽ nổi dậy.[15]
Với vấn đề quân sự, các nhà chiến lược của Đảng quyết định quay lại những cách thức từng dùng trong chiến tranh chống Pháp. Trung ương Cục Miền Nam - một chi nhánh cũ của Ban Chấp hành Trung ương hoạt động ở miền Nam kháng chiến chống Pháp và sau đó giải tán sau hội nghị Geneva - được bí mật thành lập, do Nguyễn Văn Linh làm chủ tịch. Dưới Trung ương Cục Miền Nam là năm Ban Chấp hành Đảng bộ khu vực, cùng với một loạt tỉnh uỷ, huyện uỷ và chi bộ đảng địa phương. Tại một hội nghị bí mật tháng 2-1961 ở Chiến khu D, những đơn vị bán quân sự ở đồng bằng Cửu Long và Tây Nguyên sát nhập thành Quân Giải Phóng, đặt dưới sự chỉ huy thống nhất. Cuối tháng đó, một số đơn vị mới, phối hợp với quân đội các giáo phái đối lập, bắt đầu giao chiến với kẻ thù. Quân Giải Phóng bây giờ trở thành cánh tay của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Chế độ Sài Gòn từ nay bắt đầu gọi họ là Việt Cộng.
Trong lúc các lãnh đạo kháng chiến bận rộn với việc tổ chức lại cơ sở cách mạng trong hoạt động nổi dậy ở Nam Việt Nam, Hồ Chí Minh tiếp tục tập trung vào mặt trận ngoại giao. Mâu thuẫn Trung - Xô bây giờ đã công khai, vấn đề lập trường của khối XHCN ủng hộ cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đã trở thành chủ đề bàn luận gay gắt tại tất cả cuộc hội nghị những người cộng sản thế giới. Hội nghị 81 Đảng cộng sản và công nhân họp ở Moscow tháng 11-1960. Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu gồm Lê Duẩn và tướng Nguyễn Chí Thanh.
Nikita Khrushchev hy vọng dùng hội nghị làm diễn đàn ép Trung Quốc đi theo chính sách Liên Xô, nhưng các đoàn đại biểu khác tại hội nghị đã can thiệp để tránh rạn nứt, Đoàn Việt Nam phát biểu tương đối ít tại hội nghị, nhưng họ lại tích cực hoạt động phía sau hậu trường soạn thảo nghị quyết của hội nghị, tái khẳng định tuyên bố 1957 về các hình thức khác nhau để chuyển biến các nước khác nhau từ tư bản chủ nghĩa sang xã hội chủ nghĩa. Bản dự thảo tuyên bố, nếu giai cấp bóc lột dùng vũ lực chống lại nhân dân, cần phải tính đến khả năng chuyển tiếp không hoà bình lên chủ nghĩa xã hội. Vai trò Hồ Chí Minh rất quan trọng. Khi phó chủ tịch Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa Lưu Thiếu Kỳ bỏ một phiên họp mà người phát ngôn Liên Xô xỉ vả Trung Quốc, ông giận dữ quay về toà đại sứ của mình, Khrushchev khẩn khoản yêu cầu Hồ thuyết phục Lưu Thiếu Kỳ trở lại. Sự cố gắng của Hồ đã giúp tránh được rạn nứt công khai. Nhưng theo những người thân cận, Hồ rất buồn trước mâu thuẫn Trung - Xô về chiến lược toàn cầu, một sự rạn nứt, theo ông, phá hoại nặng nề uy tín của phe xã hội chủ nghĩa trước Thế giới thư ba và tạo thuận lợi cho bọn đế quốc chủ nghĩa thù địch. Trong khi nhiều đại biểu Việt Nam nghiêng theo quan điểm Trung Quốc, Hồ Chí Minh rất nghi ngờ tham vọng của Mao Trạch Đông và muốn “toạ sơn quan hổ đấu”(có lẽ ám chỉ mối quan hệ giữa Moscow và Washington). Vì thế ông ủng hộ vai trò Liên Xô trong những phiên họp then chốt trong hội nghị. Quen với việc “làm theo ý bác” (bất cứ điều gì Bác Hồ nói đều đúng) nên Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh không nói gì. Tuy nhiên khi về Hà nội, chắc họ cũng đã thì thầm với các thành viên khác của Bộ Chính trị vẫn bất mãn về quan điểm “ba phải” của Hồ tại hội nghị.[16]
Cuộc tranh luận được nối lại tại Đại hội lần thứ XXII Đảng cộng sản Liên Xô diễn ra mùa Thu năm ấy. Một lần nữa, Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại hội nghị và tìm cách né tránh những vấn đề dễ gây tranh cãi. Nhưng khi Chu Ân Lai bỏ Đại hội quay về Bắc Kinh, Việt Nam buộc phải bỏ cuộc họp. Hồ Chí Minh và Lê Duẩn cũng rời Moscow, nhưng không trở về Hà Nội ngay, họ tỏ thái độ trung lập bằng cách đi thăm mấy nước cộng hoà Baltic thuộc Liên Xô.
Việc thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân Giải Phóng, tạo sức mạnh đối với phong trào kháng chiến chống Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam. Cuối năm 1961, Quân Giải Phóng đã phát triển lên tới gần 15 ngàn người, gấp năm lần lực lượng nổi dậy mùa xuân năm 1959. Với thuận lợi tăng quân số và sự cơ động, các đơn vị Việt Cộng bắt đầu tấn công đồn bốt quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đoàn xe hộ tống, trụ sở hành chính. Họ thiết lập căn cứ địa giải phóng ở Tây Nguyên nhằm mở đường tấn công xuống đồng bằng.
Một lý do tăng quân số Việt Cộng là do quân đội Bắc Việt Nam thâm nhập ngày càng nhiều theo Đường mòn Hồ Chí Minh, tăng gấp đôi trong thời kỳ 1959-1961, đạt con số năm ngàn người năm 1962. Nhưng yếu tố chính là việc mở rộng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, thúc đẩy nhân dân chống chế độ Diệm bắt đầu lan toả cắm rễ xuống thôn làng và thị trấn thuộc Việt Nam Cộng Hoà. Khi bộ máy chính trị mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng, nhiều thanh niên hăng hái có năng lực đã gia nhập Quân Giải Phóng.
Phong trào nổi dậy phát triển mạnh khiến Washington lo lắng. Trong những tháng cuối nhiệm kỳ chính quyền Eisenhower, Mỹ tập trung quan tâm vào Lào, nơi lực lượng Pathet Lào do Hà Nội hậu thuẫn, đã lật đổ chính phủ liên hiệp yếu ớt của phái hữu ở Vientiane bằng quân sự. Nhưng khi Kennedy vào Nhà Trắng tháng 1-1961, ông nhận được báo cáo đáng buồn, tình hình Nam Việt Nam đang xấu đi nhanh chóng. Kennedy thành lập lực lượng đặc biệt để hành động, cuối năm ông thông qua chương trình tăng thêm cố vấn Mỹ cho Việt Nam Cộng Hoà. Mục tiêu huấn luyện quân đội Việt Nam Cộng Hoằ cách thức chống nổi dậy với hy vọng chính quyền Sài Gòn có thể phòng thủ, tự bảo vệ không cần Mỹ can thiệp. Trong khi đó, Kennedy tìm cách dàn xếp cuộc xung đột đang lan rộng ở Lào, cho dù bất kỳ lý do gì sự hiện diện của Mỹ để đảm bảo lợi ích an ninh của Thế giới Tự do rất khó thanh minh.
Bạo lực cách mạng ở Nam Việt Nam ngày càng tăng là bằng chứng nhận xét của Hồ Chí Minh, chế độ Diệm đã hoàn toàn thối nát và nhất định sụp đổ. Trong khi đó, Hồ căn dặn, đừng lạc quan quá mức. Ngô Đình Diệm mặc dầu có những sai lầm, nhưng là nhà lãnh đạo kiên định, có đội ngũ cộng sự rất trung thành. Giới lãnh đạo Đảng thận trọng không đánh giá thấp Ngô Đình Diệm, tiên đoán chính phủ Diệm sẽ sụp đổ nhưng phải cảnh giác với Mỹ, vì Nam Việt Nam là sự sống còn đối với an ninh quốc gia Mỹ và lo sợ những hậu quả do thất bại sẽ mất mặt ở Đông Nam Á. Giới lãnh đạo Đảng tranh luận những lựa chọn chiến lực trong cuộc họp Bộ Chính trị tháng 10-1961. Hồ Chí Minh vạch ra, Mỹ mạnh gấp nhiều lần hơn Pháp trong kháng chiến chống Pháp, do vậy, nếu sử dụng sức mạnh chống lại sức mạnh, “ăn miếng, trả miếng” sẽ thất bại. Ông nhấn mạnh, những yếu kém của bọn đế quốc và sức mạnh của lực lượng cách mạng là ở lĩnh vực chính trị. Vì thế Hồ đề ra chiến lược dựa vào chiến tranh du kích, phát động sự ủng hộ của quần chúng, dành được sự ủng hộ của dư luận thế giới. Do những điều kiện thuận lợi cho cách mạng ở Nam Việt Nam tiến triển nhanh chóng, Hồ Chí Minh thuyết phục các đồng chí của ông thận trọng, mềm dẻo trong sách lược, hai điều này thể hiện trong những chỉ thị gửi tới ban lãnh đạo Trung ương Cục. Chỉ thị vạch rõ cao trào cách mạng chưa tới và chúng ta chỉ có thể giành thắng lợi “từng bước một”.[17]
Tháng 7-1962, chính quyền Kennedy ký hiệp định thành lập nước Lào trung lập dựa trên chính phủ liên minh dân tộc bao gồm phái trung lập, phái tả và Pathet Lào trong chế độ liên hợp ba bên. Trong thư gửi cán bộ chủ chốt Trung ương Cục, Lê Duẩn nhắc đến khả năng Mỹ có thể chấp nhận một giải pháp tương tự ở miền Nam Việt Nam. Ông vạch ra, Washington trước đây không thắng nổi Trung Quốc và Bắc Triều Tiên bằng quân sự. Hồ đặc biệt hứng thú với giải pháp này. Trong một cuộc phỏng vấn với nhà báo tờ “London Daily Express” (Nhật báo Tin nhanh London) vào tháng 3-1962, Hồ vạch ra những điều kiện dàn xếp cuộc xung đột ở Nam Việt Nam trên cơ sở của Hiệp định Geneva. Hà Nội bây giờ tích cực tiếp xúc những nhân vật trung lập ở Nam Việt Nam và Pháp để tranh thủ sự ủng hộ của họ nếu chính phủ ba phái được thành lập tại Sài Gòn.[18]
Washington chấp nhận chính phủ liên hiệp trung lập ở Lào dựa trên giả định, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sức ép của Liên Xô, sẽ tôn trọng những điều khoản hiệp định, không đưa quân và vũ khí theo đường mòn Hồ Chí Minh, phần lớn chạy qua đất Lào. Nhưng khi tin tức tình báo cho thấy, Hà Nội không có ý định tôn trọng những điều khoản hiệp định, Nhà Trắng thôi theo đuổi một dàn xếp tương tự ở Nam Việt Nam. Nhưng Hồ Chí Minh vẫn còn hy vọng. Tại cuộc họp Bộ Chính trị tháng 2-1963, ông nêu rõ sự cần thiết đẩy mạnh nỗ lực chính trị ở miền Nam thúc đẩy thương lượng và thành lập một chính phủ trung lập, với nhiều người thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Ông vạch ra, Washington đang hoang mang, không phải tìm kiếm một chiến thắng mà một rút lui trong danh dự.[19]
Một số uỷ viên Bộ Chính trị hoài nghi không tin vào quan điểm của Hồ có thể giành thắng lợi thống nhất đất nước không cần phải leo thang bạo lực cách mạng. Có dấu hiệu cho thấy Washington đang tìm kiếm thắng lợi ở miền Nam. Một minh chứng cho việc này đó là chương trình ấp chiến lược. Ấp chiến lược lập ra từ cuối thập niên 1950 để bảo vệ nông dân, giúp chính quyền Sài Gòn chống lại Việt Cộng thâm nhập để tuyển dụng người và tuyên truyền cộng sản. Ý tưởng này được Anh sử dụng thành công ở Mã Lai vài năm trước đây, đã thu hút cả Sài Gòn và Washington. Năm 1962 tổng thống Diệm đồng ý áp dụng chương trình này cho Nam Việt Nam. Chỉ trong vài tháng, hàng ngàn ấp chiến lược cấp tốc được xây dựng ở khắp miền Nam.
Hà Nội ngay lập tức nhận ra chương trình Ấp chiến lược đe doạ nghiêm trọng phong trào cách mạng. Trung ương Cục Miền Nam được chỉ thị khẩn cấp tìm mọi thâm nhập hoặc phá hoại chương trình ấp chiến lược. Hồ Chí Minh sau khi cân nhắc, đề xuất phối hợp giữa sách lược chính trị và quân sự chống lại chương trình này, bao gồm dùng biện pháp phản gián, khủng bố và mở rộng chiến tranh du kích. Ông nhấn mạnh tại cuộc họp Bộ Chính trị tháng 11-1962 “Chúng ta phải tìm mọi cách phá hoại chúng, có thế mới bảo đảm chắc chắn thắng lợi về phía chúng ta”. Dù chương trình ấp chiến lược lúc đầu gây khó khăn nghiêm trọng tới phong trào kiểm soát nông thôn, song sự yếu kém và quan liêu của chính phủ Sài Gòn khiến chương trình Ấp chiến lược bị trở ngại, hậu quả là hơn một nửa ấp chiến lược bị Việt Cộng thâm nhập hoặc phá hoại.[20]
Trong khi đó, Hồ Chí Minh yêu cầu các đồng chí của ông hết sức duy trì tình cảm và sự ủng hộ của cả Moscow và Bắc Kinh. Đầu thập niên 1960, Hà Nội cố giữ vững cân bằng mối quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, lúc này rất căng thẳng. Dù Khrushchev ngại mất lòng Bắc Việt Nam vì không ủng hộ chiến tranh giải phóng dân tộc, song ông hy vọng tránh được đối đầu trực tiếp với Mỹ và lo lắng xu hướng gia tăng bạo lực ở Đông Nam Á. Sự lo lắng của Khrushchev làm Bắc Kinh hể hả. Trung Quốc rất muốn có đối đầu của chính họ với Mỹ, khi họ quyết tâm thay thế Moscow là người cầm đầu các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Theo Mao chủ tịch, sự hiện diện của quân đội Mỹ tăng lên ở Nam Việt Nam sẽ làm các cơ sở của Mỹ bị yếu đi ở châu Á nói chung, vì thế sẽ tự tạo ra thòng lọng xiết cổ đế quốc Mỹ ở khắp nơi trên thế giới.
Để kiếm ưu thế với Moscow, cũng như lấy lòng Hà Nội, Trung Quốc hứa tăng viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đầu thập niên 1960. Bắc Kinh rút kinh nghiệm từ thời kỳ chiến tranh Pháp - Việt Minh, viện trợ quân sự ít tạo ra khả năng xung đột trực tiếp với Mỹ, đồng thời làm tăng sự phụ thuộc của Hà Nội vào Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Mùa Hè năm 1962, một phái đoàn Việt Nam do Hồ Chí Minh và đại tướng Nguyễn Chí Thanh thăm Bắc Kinh yêu cầu tăng cường giúp đỡ để cân bằng với dự hiện diện của Mỹ đang gia tăng ở miền Nam, Trung Quốc đã nhanh chóng đáp ứng.[21]
Trung Quốc hy vọng Hà Nội hoan nghênh sự giúp đỡ của họ, vì thế tháng 5-1963, chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ thăm Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đánh giá tình hình. Lưu Thiếu Kỳ nhấn mạnh mối quan hệ gần gũi lịch sử giữa hai nước và thẳng thừng đả kích “chủ nghĩa xét lại hiện đại” (ám chỉ Liên Xô), buộc tội họ nhiều sai phạm về nguyên lý, đả kích thái độ “lừng chừng”. Trong cuộc cuộc hội đàm với Hồ Chí Minh, Lưu Thiếu Kỳ hứa, nếu chiến tranh ở Nam Việt Nam leo thang, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có thể dựa vào “hậu phương lớn” Trung Quốc. Tuy thế, Lưu Thiếu Kỳ cảnh báo Hà Nội, cuộc đấu tranh thống nhất đất nước sẽ kéo dài và sự giúp đỡ của Trung Quốc cũng có giới hạn.
Tuy nhiên, Hà Nội vẫn chưa dựa hẳn vào Trung Quốc. Dù đón tiếp Lưu Thiếu Kỳ nồng hậu, như tiếp đón chẳng kém long trọng đoàn đại biểu thương mại Liên Xô vài ngày trước. Lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cám ơn cả hai nước về sự ủng hộ, đồng thời tỏ thái độ trung lập. Trong bữa tiệc chiêu đãi Lưu Thiếu Kỳ, Hồ Chí Minh bày tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ của Trung Quốc, nhưng không đả động vấn đề chia rẽ giữa hai nước cộng sản hùng mạnh, chỉ nhấn mạnh sự cần thiết đoàn kết, thống nhất trong phe xã hội chủ nghĩa.[22]
Mùa Xuân năm 1963, chế độ Diệm bước vào thời kỳ cuối cùng của khủng hoảng, Phật giáo bất bình với sự thiên vị Thiên Chúa Giáo, dẫn đến những vụ bạo động khắp các thành phố miền Nam. Ngày 11-6-1963, một hoà thượng tự thiêu ngay tại một phố đông đúc ở Sài Gòn. Bức hình chụp cảnh tự thiêu xuất hiện trên màn hình TV khắp thế giới, khiến dư luận thế giới xúc động. Khi chính quyền Kennedy công khai đả kích Sài Gòn đàn áp những cuộc biểu tình, em trai Diệm, cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu giận dữ nói, ông sẽ tìm cách thương lượng hoà bình với đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam nhằm tống cổ cố vấn Mỹ về nước và trung lập hoá miền Nam. Theo một tin đồn, mùa Hè năm đó Hồ Chí Minh gửi một thư riêng cho Ngô Đình Diệm đề nghị thương lượng. Không rõ Diệm có trả lời hay không, nhưng khi Mieczyslaw Maneli, đại sứ Ba Lan trong Uỷ ban Kiểm soát Quốc tế tại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, hỏi Phạm Văn Đồng những điều kiện cho hoà bình sẽ là gì, nghe đồn rằng thủ tướng trả lời “Mỹ phải ra khỏi miền Nam. Trên những cơ sở chính trị này, chúng tôi có thể thương lượng mọi thứ”. Khi được hỏi một chính phủ liên hiệp giữa Bắc và Nam liệu có ra đời được không, Phạm Văn Đồng đáp “sẽ thương lượng mọi thứ trên cơ sở của độc lập và chủ quyền Việt Nam. Hiệp định Geneva tạo ra cơ sở chính trị và luật pháp cho điều này: không có căn cứ quân sự hoặc binh sĩ nước ngoài trên lãnh thổ chúng tôi. Chúng tôi đi tới một hiệp định với bất cứ người Việt Nam nào”. Theo Maneli, Hồ Chí Minh có mặt trong cuộc hội đàm này, nhưng không nói gì.[23]
Không rõ liệu Hồ có nghiêm túc đề nghị thương lượng với Diệm và với những điều khoản thương lượng là gì. Hà Nội đã thể hiện thành tâm từ 1962 muốn thương lượng hoà bình với Mỹ, nhưng đó là những điều kiện cho hoà bình - rút hoàn toàn quân đội Mỹ và hình thành một chính phủ liên hiệp ba phái ở Nam Việt Nam, ngụ ý Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam sẽ thống lĩnh - là khá cứng rắn, Washington khó chấp thuận. Năm sau, tình hình ở miền Nam được cải thiện nhiều theo quan điểm Hà Nội, dù chính phủ Diệm vẫn còn yếu, Hồ Chí Minh thừa nhận Diệm là một đối thủ đáng nể, vẫn chiếm được đa số khu vực bầu cử có nhiều người ủng hộ. Đảng cần phải dàn xếp thoả đáng để có thể giảm thiểu quyền lực của Diệm. Hồ kêu gọi các đồng chí miền Nam cố gắng tranh thủ cảm tình, sự ủng hộ của tất cả mọi tầng lớp nhân dân, trong lúc chờ đợi Washington tỏ thái độ. Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo Nhật Bản vào tháng Bẩy, Hồ nhận xét, theo kinh nghiệm của ông, bất chấp thái độ của giới lãnh đạo Mỹ, nhưng nhân dân Mỹ rất yêu chuộng hoà bình và tiến bộ. Ông nói, câu trả lời duy nhất giải quyết vấn đề, Mỹ phải rút hết quân để nhân dân Việt Nam có thể tự giải quyết công việc nội bộ theo Hiệp định Geneva.
Tuy nhiên quan điểm lạc quan thận trọng của Hồ về một giải pháp thương lượng không được sự ủng hộ hoàn toàn trong Đảng. Tại hội nghị Bộ Chính trị tháng 12-1962, giới lãnh đạo Đảng kết luận, cuộc chiến tranh ở miền Nam là cuộc chiến tranh chống đế quốc và cần phải tăng cường cả đấu tranh chính trị lẫn đấu tranh vũ trang. Một chỉ thị bí mật gửi vào Nam nhấn mạnh, vấn đề chắc chắn phải giải quyết bằng vũ lực, với mức độ chiến tranh leo thang dần từ thấp đến cao. Dù tài liệu này không công khai hạ thấp những hoạt động chính trị và đặc biệt bác bỏ chủ trương quân sự sử dụng trong kháng chiến chống Pháp, cho rằng làn sóng cách mạng miền Nam bắt đầu lên cao trào và câu hỏi duy nhất trước mắt là khi nào và lực lượng vũ trang sẽ sử dụng theo hình thức nào. Bản chỉ thị tiên đoán chiến tranh sẽ gắn liền với cuộc nổi dậy của quần chúng và cuộc tổng tấn công của Quân Giải Phóng - tức là kết hợp Cách mạng tháng Tám và mô hình Maoist chiến tranh nhân dân ba giai đoạn.
Tuy không rõ ai là tác giả của những chỉ thị này, song có vẻ nó phản ánh quan điểm của Lê Duẩn, nhà chiến lược ở Hà Nội, luôn luôn tin vào một thắng lợi bằng quân sự. Trên thực tế, Lê Duẩn chế giễu Hồ Chí Minh miễn cưỡng quay lại cuộc đấu tranh vũ trang và không còn chỉ dựa vào ngoại giao, điều mà Lê Duẩn có lẽ cho là ngây thơ. Duẩn có lần đã nói: “Bác (Hồ) lưỡng lự, nhưng khi tôi rời miền Nam tôi đã chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ. Tôi chỉ có một mục đích - giành thắng lợi cuối cùng”.[24]
Đầu tháng 11-1963, một cuộc đảo chính quân sự xảy ra được chính quyền Kennedy chấp thuận lật đổ chế độ Diệm. Nhà Trắng ngầm bật đèn xanh cho đảo chính, ủng hộ ban lãnh đạo mới tại Sài Gòn. Tuy nhiên, cả Ngô Đình Diệm và người em trai Ngô Đình Nhu bị giết sau khi đầu hàng phe đảo chính.
Việc thành lập chính phủ quân sự mới tại Sài Gòn làm thay đổi cơ bản triển vọng của các nhà chiến lược của Đảng ở Bắc Việt. Một mặt, họ không còn dựa vào công tác tuyên truyền chống lại Ngô Đình Diệm để mở rộng lực lượng cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Việt Cộng. Trên thực tế, nhóm cầm quyền mới do tướng Dương Văn Minh (Minh “lớn”) lên nắm quyền trong làn sóng hăng hái, đặc biệt ở các thành phố, nơi chống đối Diệm và gia đình ông chiếm tỷ lệ cao. Mặt khác, những nhà hoạch định chính sách ở Hà Nội lường trước, chính quyền mới vẫn thiếu một cái đầu như Diệm và mạnh mẽ chống lại phong trào kháng chiến. Biết được chủ nghĩa bè phái khá nặng nề phong trào dân tộc Việt Nam từ kỷ nguyên thuộc địa, các lãnh đạo Đảng tiên đoán, chính phủ quân sự, ngày càng yếu kém, do vậy mở đường cho cách mạng chiến thắng. Tại cuộc họp Bộ Chính trị đầu tháng 12-1963, Hồ Chí Minh tiên đoán - rất may sau này lại đúng - đây chưa phải là cuộc đảo chính cuối cùng tại Sài Gòn.
Dù dễ đánh giá tình hình mới, một câu hỏi khó trước khi có kết luận, điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Liệu lực lượng nổi dậy ở miền Nam có đủ sức đẩy mạnh chiến tranh để hy vọng chính quyền mới sụp đổ nhanh? Hoặc họ có cần tăng cường áp lực quân sự để hy vọng có một cuộc thương lượng dàn xếp hay không? Liệu miền Bắc có đóng được vai trò trực tiêp chỉ huy trong cuộc chiến? Điều gì xảy ra nếu Mỹ nhảy vào cuộc xung đột với vai trò chính để cứu chính phủ bù nhìn Sài Gòn trước sự sụp đổ sắp tới? Bất ngờ ba tuần lễ sau khi Ngô Đình Diệm bị giết tại Sài Gòn, John F. Kennedy bị ám sát tại Dallas. Cái gì sẽ đến nếu người kế nghiệp, Lyndon B. Johnson, thay đổi đường lối thậm chí hiếu chiến hơn Kennedy?
Với những băn khoăn đó, các lãnh đạo Đảng họp Hội nghị IX Đại hội Đảng toàn quốc III đầu tháng 12-1963. Dựa trên những bằng chứng không đầy đủ còn sót lại, có thể nói đây là một trong những cuộc họp nóng bỏng nhất trong lịch sử của Đảng, khi các đại biểu tranh cãi nẩy lửa về phương hướng sắp tới. Đây cũng là lần đầu Ban Chấp hành Trung ương không thể hiện đơn giản chỉ là con dấu đóng lên quyết định do Bộ Chính trị dàn xếp. Một số uỷ viên trung ương Đảng kêu gọi đưa ngay lập tức quân đội thường trực miền Bắc vào để buộc chính quyền Sài Gòn phải quỳ gối trước khi Mỹ ra tay. Một số khác lo ngại rằng sự hiện diện của quân đội miền Bắc ở miền Nam có thể làm nổ ra sự can thiệp thô bạo của Washington, dẫn tới Mỹ trực tiếp nhảy vào cuộc chiến. Một tình huống như thế, tất nhiên, sẽ không vừa lòng Liên Xô và sẽ phải tăng sự nhờ cậy vào Trung Quốc. Dù Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa đã tăng mức viện trợ quân sự cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sau chuyến thăm chính thức của Lưu Thiếu Kỳ vào tháng 5-1963, nhiều lãnh đạo Đảng đồng ý với lo ngại của Hồ Chí Minh trước áp lực gia tăng Bắc Kinh phải theo đường lối Trung Quốc trong mối bất hoà Trung - Xô.
Sau cuộc tranh cãi kéo dài, Ban Chấp hành Trung ương đề xuất thoả hiệp. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tăng mức giúp đỡ quân sự, bộ đội miền Bắc được gửi vào Nam sẽ không trực tíếp tham gia chiến đấu. Các nhà chiến lược của Đảng đã quyết định đánh cá (cược) rằng chế độ Sài Gòn có thể sụp đổ mà không lo ngại nguy cơ Mỹ nhẩy vào cuộc chiến. Trung ương Cục Miền Nam được chỉ thị tiến lên giành thắng lợi cuối cùng trong thời gian ngắn nhất có thể, không cần phải có tăng mạnh sự giúp đỡ của hậu phương miền Bắc. Đảng bây giờ chính thức công nhận, đấu tranh vũ trang sẽ đóng vai trò chủ yếu và quyết định trong quá trình cách mạng, mặc dù cuộc vận động chính trị nhằm tập hợp quần chúng tiếp tục có tầm quan trọng.
Không rõ vai trò của Hồ Chí Minh trong cuộc tranh cãi chính sách ra sao, nhưng có lẽ ông kêu gọi thận trọng trước khi đưa ra bất cứ quyết định nào có thể làm mất lòng Moscow và Bắc Kinh hoặc khiến Mỹ trực tiếp nhảy vào chiến tranh. Dù vậy, Hồ nhận ra dịp may hiếm có trước tình hình và cần phải hành động. Tại cuộc họp Bộ Chính trị ngày 10-12-1963, ông kêu gọi tận dụng cơ hội “lộn xộn” ở miền Nam, gia tăng áp lực quân sự và chính trị đối với chế độ Sài Gòn. Ông tuyên bố, thậm chí nếu Mỹ leo thang chiến tranh gấp mười lần “chúng ta cũng sẽ chiến thắng”.[25]
Quyết định leo thang với mức vừa phải vẫn bị đối đầu với nguy hiểm, không những đối đầu với Mỹ mà còn có những vấn đề nghiêm trọng với Moscow. Suốt nhiều năm, các lãnh đạo Đảng thận trọng tìm cách tránh điều bất lợi không những của hai nước đồng minh lớn, mà còn cả một số người lãnh đạo đảng đang trở nên mất bình tĩnh. Trong một bài báo viết mùa hè năm 1963, tướng Nguyễn Chí Thanh tuyên bố, ông và các đồng chí của ông không ảo tưởng vào Mỹ và không đánh giá Mỹ quá thấp. “Nếu